Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Lỗi chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.22 KB, 6 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề t ài :
Giúp các em học tốt
phân môn chính tả

I. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN:
Chúng ta ai cũng biết ở bậc Tiểu học, học sinh cần được học chính tả một
cách khoa học, cẩn thận. Chính tả là một phân môn Tiếng Việt, mà công cụ
tiếng Việt được sử dụng thường xuyên suốt những năm tháng học tập ở nhà
trường cũng như trong suốt cuộc đời. Vì vậy dạy học tiếng Việt nói chung và
dạy chính tả nói riêng là vấn đề được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt trong trường học. Nhưng thực tế, tỉ lệ học sinh viết sai chính tả
nhiều dẫn đến chất lượng chính tả còn thấp.
Là một giáo viên được phân công dạy khối 3 trường Tiểu học Kinh Dinh
thuộc đòa bàn thành phố Phan Rang-TC- Ninh Thuận, qua nhiều năm liền đứng
lớp, tôi thấy học sinh lớp tôi viết sai chính tả khá nhiều. Đó là điều làm tôi suy
nghó : liệu học cuối bậc Tiểu học các em có hoàn thành vốn kiến thức đọc
thông, viết thạo chưa? Chính điều này đã lôi cuốn tôi cố gắng tìm tòi để tìm các
biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Chính tả.
+ Cơ sở lý luận :
Học sinh Tiểu học thường mắc lỗi chính tả nhiều bởi lẽ chòu ảnh hưởng
của cách phát âm đòa phương. Ví dụ : Đối với các đòa phương miền Bắc thường
mắc lỗi l / n, tr / ch, x / s …. Còn ở phía Nam Trung bộ, Nam bộ thường mắc lỗi
ang / an, ac / at, dấu hỏi, dấu ngã.
Qua khảo sát, tôi Thấy học sinh lớp tôi viết sai lỗi chính tả nhiều, phần
lớn là viết sai (sai về dấu hỏi, dấu ngã, nặng, tr, ch, iu, iêu, ng, ngh, n , ng….) vì
vậy chất lượng chính tả đầu năm của lớp rất thấp.
Thử nghó : nếu các em hình thành một bài văn được viết đúng chính tả thì
người đọc hiểu nội dung, hiểu được các điều các em muốn nói. Ngược lại, bài
văn của các em mắc quá nhiều lỗi chính tả thì người đọc có thể hiểu sai, không
nắm được nội dung bài văn.


Chính vì vậy, tôi suy nghó nhiều và rất lo lắng : làm thế nào để giúp các
em có thói quen viết đúng chính tả.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Người giáo viên đứng lớp phải luôn luôn có ý thức viết đúng chính tả vì
nét chữ là nết người. Viết cẩn thận, viết đúng chính tả là thể hiện thái độ yêu
mến chữ Việt, không những tôn trọng người đọc mà còn làm mẫu nêu gương
cho học sinh noi theo. Giáo viên phát âm đúng, viết đúng sẽ ảnh hưởng lớn đến
việc viết đúng chính tả của học sinh .
Vậy phân môn Chính tả dạy cho học sinh những gì ? Là dạy viết đúng
các âm, vần khó, các thanh, viết đúng tên riêng, phiên âm từ và thuật ngữ vay
mượn. Kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng cố
nghóa từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, nhằm phát triển năng lực chuyển từ
lời nói sang dạng thức viết và năng lực sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức viết vào
hoạt động giao tiếp, góp phần phát triển một số thao tác tư duy cho học sinh.
Thực tế, tiếng Việt là tiếng nói chung của toàn dân tộc Việt nam, là tiếng phổ
thông trên cơ sở : một chính tả chung nhưng lại tồn tại dưới nhiều phương ngôn
khác nhau (cách phát âm khác nhau). Tiếng Việt là thứ tiếng ghi âm, do đó,
cách phát âm là cơ sở chính cho cách thức viết, điều này thể hiện rõ rệt trên
chữ viết của học sinh từng vùng. Tuy vậy, thực tế cũng cho thấy nhiều ngưới
phát âm nặng tiếng đòa phương nhưng vẫn viết đúng chính tả, bởi lẽ họ đã học
hỏi nhiều trong học tập và giao tiếp cuộc sống.
Đối với học sinh Tiểu học thì trí tưởng tượng, tư duy cuộc sống còn non
nớt, các em đang bước đầu tập đọc, tập nghe, tập viết nên việc viết chính tả bò
phụ thuộc, ảnh hưởng nhiều vào cách phát âm đòa phương .
• Nguyên nhân:
Là giáo viên trực tiếp truyền thụ thông tin ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông
cho học sinh, vì muốn sửa lỗi chính tả cho các em nên tôi đã tìm hiểu thực tế và
được biết nguyên nhân chính là học sinh chòu ảnh hưởng cách phát âm đòa
phương.
Nguyên nhân khác là đa số các em đều có hoàn cảnh khó khăn, ngoài giờ

học ở lớp, về nhà các em còn phải đi làm để giúp gia đình nên ít chú tâm đến
việc thực hành đọc, viết ở nhà. Mà khi thực hành viết chính tả cùng lúc các em
phải thực hiện nghe – tư duy, nhìn và viết, do vậy những em còn đọc yếu, tiếp
thu chậm sẽ sai sót chính tả nhiều hơn. Lỗi sai thường là lỗi về dấu thanh như
các em thường nhầm lẫn các chữ có thanh hỏi, ngã, nặng, nhầm lỗi phụ âm đầu
r, gi, d, tr, ch… Các em viết sai nhiều các vần có nguyên âm đôi, do các nguyên
âm đôi được phát âm thành các nguyên âm đơn (iêu – iu , uôi – ui , oai – oi) do
đó các tiếng như diều, chuối, loại được viết thành dìu, chúi, lọi. Ngoài ra các
em còn viết sai các tiếng có vần uyu, uyên được viết thành uy, iên, ví dụ : khúc
khuỷ, chuyền – chiền.
Một nguyên nhân nữa là các em chưa cố gắng nhớ từng chữ khó khi gặp
trong bài Tập đọc hoặc trong đoạn viết chính tả .
Nguyên nhân tiếp là do các em không hiểu nội dung ngữ nghóa của tiếng,
từ và chưa hiểu biết đầy đủ về qui tắc chính tả.
Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mắc lỗi chính tả của
học sinh nên tôi không ngần ngại và tìm ra một số biện pháp để áp dụng trong
tiết học Chính tả của lớp, mà cụ thể là giúp các em học sinh yếu chính tả học
tốt hơn phân môn này.
III.QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Để đảm bảo thời lượng giảng dạy cũng như chất lượng lónh hội kiến thức
của học sinh theo chương trình đổi mới nên trong các tiết dạy chính tả, tôi thực
hiện đúng trình tự của từng loại bài. Nhìn - viết, nghe – viết, nhớ – viết và phối
hợp nhiều phương pháp giảng dạy như : đàm thoại, trực quan, giao tiếp. Tổ
chức cho học sinh tiếp xúc nhiều các tiếng, từ liên quan đến chính tả bằng
nhiều hình thức : hoạt động lớp, cá nhân, nhóm… tạo điều kiện cho mỗi học sinh
đều được hoạt động.
1. Giải pháp thứ nhất :
Việc trước tiên tôi phải rèn đọc cho các em qua phân môn Tập đọc. Các
em có đọc đúng thì các em mới viết đúng. Cách rèn đọc kèm cho các em tập
đọc 15 phút truy bài đầu giờ, giao cho những em khá giỏi kèm đọc và tôi theo

dõi kiểm tra. Trong giờ Tập đọc những em này được ưu tiên đọc nhiều hơn, hầu
như tiết Tập đọc nào các em cũng được đọc. Tôi thường liên hệ với phụ huynh
nhắc nhở phụ huynh về nhà rèn đọc ở nhà cho con mình nhiều hơn. Ngoài việc
rèn đọc cho các em, tôi còn giao bài về nhà cho các em tập chép thật nhiều lần
và khi đến lớp phải kiểm tra các em có chép hay không? Trong giờ tập chép
hay giờ viết chính tả, tôi luôn luôn theo dõi, nhắc nhở như đứng cạnh bên em
đọc chậm và đọc đi, đọc lại nhiều lần để các em viết được, thậm chí có những
từ khó viết, tôi phải đánh vần cho các em viết. Qua mỗi bài viết chính tả chấm
bài nếu các em được điểm cao, tôi tuyên dương ngay trước lớp.
2.Giải pháp thứ hai :
Do một số em nói và phát âm theo tiếng đòa phương thường là các em nói
sao viết vậy, các em hay lẫn lộn giữa các âm, các vần. Bởi chữ cái trong sách là
chữ in nên học sinh hay nhầm lẫn con chữ in thường với con chữ in hoa, do vậy
học sinh viết hoa tuỳ tiện rất nhiều. Vì trong sách có một số con chữ in hoa chỉ
khác con chữ in thường về độ cao, rộng, còn mẫu chữ thì giống nhau nên một số
học sinh khó phân biệt (Ví dụ : S - s, X - x).Vì vậy khi dạy các bài chính tả tập
chép tôi lồng ghép đưa mẫu chữ in và chữ viết thường đính lên bảng lớp cho học
sinh quan sát và hướng dẫn cách viết (Những mẫu chữ đã được chuẩn bò trước
vào các tấm bìa). Hoạt động này hỗ trợ học sinh nhớ cách thức viết chữ thường,
có thói quen viết đúng mẫu chữ, không viết hoa tuỳ tiện.
3.Giải pháp thứ ba :
Khi dạy các bài Chính tả nghe đọc, ngoài việc hướng dẫn học sinh phân
tích tiếng, từ, thỉnh thoảng tôi cho học sinh đặt câu có chứa tiếng, từ cần phân
tích để học sinh hiểu được nghóa, tiếng từ và từ đó học sinh sẽ nhận diện được
mặt chữ, sẽ nhớ và viết đúng chính tả hơn. Hoặc tôi cho học sinh thảo luận
nhóm, tập giải nghóa các tiếng, từ cần phân tích để học sinh cùng tìm hiểu
chung với nhau, cùng nhau khắc phục lỗi chính tả .
4.Giải pháp thứ tư:
Ở mỗi bài chính tả trong quá trình hướng dẫn viết đúng hoặc hướng dẫn
làm bài tập, nếu cảm thấy thích hợp thì tôi lồng ghép cung cấp một số qui tắc,

mẹo luật chính tả phù hợp với nội dung, đồng thời vừa với sức học của học sinh
lớp 3 nhằm giúp các em bước đầu làm quen để viết đúng chính tả .
Để tiện trình bày các qui tắc hoặc mẹo luật chính tả, tôi chọn một số bài
tập phân biệt có thể lồng ghép được để cung cấp cho học sinh .
a. Phân biệt dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng :
a.1. Tôi hướng dẫn học sinh phát hiện ra trong một từ láy 2 tiếng luôn có sự
tương ứng về thanh điệu, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm : huyền,
ngã, nặng hoặc không, hỏi, sắc. Để tiện áp dụng mẹo này, tôi cho học sinh ghi
nhớ như vậy khi gặp một tiếng không biết viết loà dấu gì thì tìm từ láy viết
tiếng đó.
Ví dụ : nhã nhặn, nhẫn nại, hãi hùng, nũng nòu, rộng rãi, vội vã … còn nếu
tiếng kia có dấu không (không dấu, dấu ngang) hoặc dấu sắc thì tiếng cần viết
là dấu hỏi.
Ví dụ : Thơ thẩn, bất cẩn, vớ vẩn, bảnh bao, nhỏ nhen, lanh lảnh… ngoài ra
còn một số từ ngoại lệ như : cẩn thận, vẻn vẹn, ngoan ngoãn, khe khẽ, se sẽ,
bền bỉ, kỹ năng, kỹ xảo, bãi bỏ …
a.2. Khi gặp một từ Hán-Việt ta còn phân vân không biết viết là dấu hỏi hay
là dấu ngã, ta viết dấu ngã nếu chữ đó có phụ âm đầu là m, n, nh, v, đ, ng,
(ngh)
Ví dụ :
- Với m (mình) : miễn dòch, mẫn cảm, mãnh liệt, mã lực, mỹ lệ…
- Với n (nên) : nõn nà, truy nã, nữ nhi, trí não, nũng nòu…
- Với nh (nhớ) : nhã nhặn, truyền nhiễm, nhẫn nại, tham nhũng…
- Với v (viết) : vó đại, vónh viễn, vũ lực, vãng lai, viễn thò…
- Với l (là) : lẫm liệt, thành luỹ, thung lũng, lễ độ, lữ khách…
- Với d (dấu) : dang dở, dũng mãnh, dũng cảm, diễn viên, dinh dưỡng …
- Với ng, ngh (ngã) : nghóa hiệp, ngưỡng mộ, ngũ sắc, đònh nghóa, ngôn ngữ,
ngữ điệu.
a.3. Đối với từ đơn học sinh có thể ghi nhớ các từ viết với dấu hỏi, dấu ngã
được xuất hiện với tần suất cao.

* Dấu hỏi : Bảo, buổi, cả, của, cảm, chẳng, chả, chủ, đủ, đó, ở, ngủ, nhỏ,
hiểu, phải, phủ, quả, tưởng, thể.
* Dấu ngã : Cũng, đã, chỗ, giữa, giữ, lẽ, mãi, mỗi,nỗi, nữa,những, vẫn, sẽ
b. Phân biệt âm r, d, gi :
b.1. Để học sinh viết đúng các tiếng có phụ âm đầu bằng r, tôi cung cấp dần
cho các em một số tiếng, từ được xuất hiện với tần suất cao phù hợp với học
sinh như :
* Tên các con vật : rắn, rết, rận, rồng, rùa…
* Tên đồ vật : rỗ, rá, ra di ô, rìu, rương…
* Một số từ láy thông dụng như : rung rinh, rực rỡ, rậm rạp, rắn rỏi, ra rả, rì
rào, rủ rỉ, róc rácg, rầm rì, rúc rích, râm ran, rục ròch, rũ rượi, rổn rảng, rủi ro,
rảnh rang, rủ rê, rầm rộ, ram ráp, rôm rả, rạo rực, rập rờn, ròng rã, rảnh rỗi,
ríu rít…
* Một số từ đơn thường xuyên xuất hiện như : rễ, ru, rủ, rõ, rất, rát, run,
rượu, răng, rằm, rừng, rước, rụng, rẫy…
b.2 : Để phân biết d và gi ta cần nhớ nghóa và cách viết tương ứng :
Ví dụ :
- Giai / trai ; giả / trả ; giao / trao ; giàng / tranh ; giun / ; dòm / nhòm;
dận / nhận; dàu / nhàu .
- Đa số các trường hợp khác muốn xác đònh viết đúng chính tả thì phải
dựa vào sự đối lập về nghóa :
Ví dụ : “gia” tăng thêm ( tăng gia, gia vò …)
“ nhà” ( gia tộc, gia đình, gia giáo, gia trưởng, gia tài…)
“ da” ( da thòt, da trời, da dẻ, da thú ….)
c. Cách phân biệt chữ ch/tr:
• Qui tắc 1 : Trong tiếng Việt, gặp một số chữ không biết viết âm tr hay ch, ta
viết âm ch nếu chữ đó có thể láy âm với các phụ âm khác. Ví dụ : lởm chởm,
chơi bời, chơi vơi, chới với, cheo leo, loạng choạng, chao đảo… trừ 4 trường hợp
ngoại lệ như : trọc lóc, trụi lũi, trót lọt, rẹt lét.
• Qui tắc 2 : Những từ hán Việt được mang dấu nặng, dấu huyền thì chỉ đi với

tr. Ví dụ : truyền thống, trò giá, trònh trọng, phong trào, trân trọng…
• Qui tắc 3 : Gặp một tiếng không biết viết tr hay ch, ta viết tr nếu chữ ấy
đồng nghóa hoặc gần nghóa với tiếng gi . Ví dụ : trao – giao; tranh – giành; trẻ
– giẻ ; tra – già; trai – giai …
• Qui tắc 4 : Những từ chỉ mối quan hệ họ hàng thân thuộc trong gia đình thì ta
viết ch chứ không viết tr . Ví dụ : cha, chú, cháu, chắt, chồng, chút, chít…
• Những từ chỉ đồ dùng trong gia đình thì ta viết ch chứ không viết tr. Ví dụ :
cái chai, cái chum, cái chiếu, cái chổi, cái chén, cái chảo…- Có một ngoại lệ :
đó là cái tráp
d. Phân biệt iêu, iu :
Để phân biệt vần iêu-iu ta cần ghi nhớ là các từ hán Việt bao giờ cũng viết
iêu . Ví dụ : chiêu sinh, diễu hành, tiêu chí, kính biếu, hiệu trưởng, hiếu chiến,
tiêu khiển…
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ :
Nhờ những kinh nghiệm trên, trong nhiều năm trực tiếp giảng dạy tại
lớp, tôi nhận thấy chất lượng học sinh viết đúng chính tả ngày càng cao. Từ đầu

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×