Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.94 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Tất Đắc

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ
KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Tất Đắc

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ
KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH TÂY NINH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG ANH QUÂN



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn
của Tiến sĩ Đặng Anh Quân, giảng viên khoa Luật Thương mại, trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chính xác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Tất Đắc


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng to lớn của Học viện, Quý Thầy, Cô,
đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Khoa học
xã hội, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa
Luật - Học viện Khoa học xã hội, Quý Thầy, Cô tại Học viện, tại các trường,
các trung tâm đã trang bị kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo Tiến sĩ Đặng Anh
Quân, giảng viên khoa Luật Thương mại, trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình, tận tụy hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, cơ quan, bạn bè và đồng nghiệp đã
giúp đỡ, ủng hộ, khuyến khích tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập và
thời gian thực hiện luận văn.

Mặc dù đã rất cố gắng hoàn thành tốt luận văn này, nhưng sẽ không
tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp của Quý
thầy cô để có thể giúp tôi hoàn thành luận văn và bổ sung thêm nhiều kiến
thức quý báu.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Tất Đắc


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ
KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................ 7
1.1. Các khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ................................... 7
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất ....................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.............................. 8
1.1.3. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................... 11
1.1.4. Khái niệm tái định cư ..................................................................... 14
1.2. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất................................................................................................................. 16
1.2.1. Về phương diện chính trị ................................................................ 16
1.2.2. Về phương diện kinh tế - xã hội ..................................................... 16
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƢ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH TÂY NINH ... 19
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ....................... 19
2.1.1. Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất
đai năm 2013 ............................................................................................ 19
2.1.2. Các quy định về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo

Luật Đất đai năm 2013............................................................................. 30
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại tỉnh
Tây Ninh ...................................................................................................... 35
2.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Tây Ninh ........... 35
2.2.2. Thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tỉnh Tây Ninh
.................................................................................................................. 42
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU
HỒI ĐẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH.................................... 53
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định về thu hồi đất dựa trên tình hình
thực tiễn tại tỉnh Tây Ninh ........................................................................... 53


3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật .......................................... 53
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật ............................................. 55
3.1.3. Đề xuất hoàn thiện chính sách đất đai ........................................... 57
3.1.4. Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
thu hồi đất................................................................................................. 60
3.1.5. Đề xuất tăng cường hiệu quả thực thi quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .............................. 68
3.2. Giải pháp cụ thể tại tỉnh Tây Ninh nhằm nâng cao hiệu quả công tác
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ............................ 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GDP


:

Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm nội địa

GPMB

:

Giải phóng mặt bằng

GRDP

:

Gross Regional Domestic Product
Tổng sản phẩm trong tỉnh

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

ODA

:

Official Development Assistance

Hỗ trợ phát triển chính thức

QSDĐ

:

Quyền sử dụng đất

SDĐ

:

Sử dụng đất

UBND

:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế Tây Ninh và
giá trị sản xuất công nghiệp so với một số tỉnh khác ...................................... 36
Bảng 2.2: Mục tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh Tây Ninh giai đoạn
2010-2020 ....................................................................................................... 37
Biểu 2.1: Cơ cấu sử dụng đất tỉnh Tây Ninh năm 2014 ................................ 39
Bảng 2.3: Thống kê diện tích tự nhiên của các huyện, thành phố trên địa bàn
tỉnh Tây Ninh ................................................................................................. 40



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thu hồi đất để thực hiện các công trình quốc phòng an ninh, lợi ích quốc
gia, công cộng, phát triển kinh tế là một khâu quan trọng, then chốt của quá
trình phát triển. Cơ sở pháp lý của hoạt động thu hồi đất là Luật Đất đai – một
đạo luật quan trọng, thu hút sự quan tâm rộng rãi của mọi tầng lớp Nhân dân,
có tác động sâu rộng đến phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị và xã hội
của đất nước. Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung quy định về thu hồi đất đồng
thời đặt ra vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong các trường hợp thật cần
thiết mà Nhà nước phải thu hồi đất.
Có thể thấy, trong điều kiện phát triển của đất nước hiện nay, việc thu
hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội là điều hết sức cần
thiết, rất cần sự đồng thuận của toàn dân vì tất cả cũng vì cuộc sống của chính
Nhân dân. Tuy nhiên, mặc dù Hiến pháp đã quy định việc thu hồi đất và
người dân bị thu hồi đất được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định
của pháp luật thì thực tế hiện nay là ở nhiều địa phương đã xảy ra tình trạng
chính quyền thực hiện thu hồi đất tràn lan, lạm dụng tiêu chí “thu hồi để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng” để lấy đất phục vụ mục
đích tư lợi; tham nhũng trong thu hồi đất khó kiểm soát; cơ chế hỗ trợ và bồi
thường do thu hồi đất chưa thỏa đáng, giải quyết sinh kế cho người dân bị thu
hồi đất chưa được quan tâm đúng mức. Đây cũng là những nguyên nhân dẫn
đến người dân không đồng tình và khiếu nại kéo dài, nhiều dự án khi triển
khai bị chậm tiến độ do vướng giải phóng mặt bằng, làm cho chi phí đầu tư
tăng lên, hiệu quả dự án giảm sút, số lượng các dự án “treo” ngày càng xuất
hiện nhiều hơn và lâu hơn. Kết quả của những bất cập trên là đất đai, nguồn
lực quý của đất nước ở nhiều địa phương đã bị sử dụng một cách lãng phí.

1



Nhận thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề phát sinh từ quy định
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, học viên đã quyết
định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế “Pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nội dung nghiên cứu các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất, có thể nhắc tới nhiều công trình nghiên cứu có
giá trị như:
- Từ Thanh Sơn (2013), Nguy cơ tiềm ẩn tham nhũng từ quy định thu hồi
đất vì mục đích phát triển kinh tế trong Luật Đất đai 2003, Tạp chí Thanh tra,
Thanh tra Chính phủ, (số 8), tr. 15-16: Bài nghiên cứu cho thấy thực trạng
trong nhiều năm hoạt động thu hồi đất trên cả nước diễn ra tùy tiện, cơ quan
công quyền lạm dụng quy định về thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế để tư
lợi, xâm phạm tới quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Tác giả cũng
đưa ra các giải pháp mạnh tay nhằm hạn chế tình trạng này.
- Lê Thanh Sơn (2014), Sự khác biệt về các chính sách thu hồi đất từ ba
nguồn vốn đầu tư: Ngân hàng Thế giới, Nhà nước và Tư nhân trên địa bàn
thành phố Cần Thơ, Luận văn cao học, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 30-31.
- Lưu Quốc Thái (2015), Bản chất, vai trò của hoạt động thu hồi đất
trong điều kiện kinh tế thị trường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên
cứu lập pháp, (số 15), tr. 19-24, 38: Bài nghiên cứu nhấn mạnh vai trò kinh tế,
chính trị và xã hội của hoạt động thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế quốc
gia, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và
người bị thu hồi đất.
- Phạm Thu Thủy (2014), Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013, Tạp chí Luật học, Trường Đại học

2



Luật Hà Nội, (số Đặc san Luật Đất đai năm 2013), tr. 53-61: Bài viết nằm
trong số các nghiên cứu có giá trị của TS Phạm Thu Thủy liên quan tới hoạt
động thu hồi đất của Nhà nước. Điểm đáng chú ý là bài viết đã đề cập khá sâu
sắc những vấn đề pháp lý đặt ra trong thực thi pháp luật thu hồi đất, đặc biệt ở
thời điểm Luật Đất đai 2013 đã có hiệu lực.
- Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật Kinh tế, Đại học Luật Hà
Nội: Luận án là công trình nghiên cứu công phu của NCS Phạm Thu Thủy về
pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp – một trong các
trường hợp thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Trong luận án, tác
giả cung cấp những lý luận sâu sắc về quyền thu hồi đất của Nhà nước và
nghĩa vụ cân bằng lợi ích thông qua đền bù đối với đất nông nghiệp bị thu hồi.
- Lê Văn Trung (2016), Kinh nghiệm của một số quốc gia về đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của người dân khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí
Nghề Luật, Học viện Tư pháp, (số 2), tr. 72-75: Tác giả cung cấp những góc
nhìn so sánh về xây dựng pháp luật tại các quốc gia trên thế giới để đảm bảo
quyền lợi chính đáng của người bị thu hồi đất, đồng thời là bài học cho Việt
Nam trong hoàn thiện pháp luật đất đai về thu hồi đất.
- Phạm Văn Võ (2015), Vấn đề hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trong
Luật Đất đai năm 2013, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, (số
1), tr. 56- 65: TS Phạm Văn Võ đã tập trung nghiên cứu về cơ chế hỗ trợ tài
chính; bồi thường đất tái định cư; cơ chế hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm để đảm
bảo sinh kế cho những chủ thể bị Nhà nước thu hồi đất.
Ngoài ra, các bài viết khác cũng đã đề cập những khía cạnh khác nhau
rút ra từ thực hiện áp dụng Luật Đất đai năm 2013 trong thẩm quyền thu hồi
đất phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội như: Nguyễn Quang Tuyến chủ
biên; Đỗ Viết Tuấn, Nguyễn Thị Thương (2014), Tìm hiểu về Luật Đất đai


3


năm 2013, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Doãn Hồng Nhung chủ
biên; Nguyễn Ngọc Hà (2014), Pháp luật về định giá đất trong bồi thường,
giải phóng mặt bằng ở Việt Nam, sách chuyên khảo tái bản lần thứ 1, NXB
Tư pháp, Hà Nội…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về trường hợp cụ thể tại một địa
phương như thực trạng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh thì còn rất hạn chế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các nguồn tài liệu và số liệu về các vụ việc thu hồi
đất, các bài viết phân tích của chuyên gia, chính sách và quy định pháp luật
hiện hành của Việt Nam liên quan tới công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi thu hồi đất, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và kết quả áp
dụng pháp luật qua thực tiễn thu hồi đất tại Tây Ninh thời gian qua. Đồng thời
đưa ra các nhận xét, đánh giá, chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế để thấy rõ
hơn về quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trong tình hình thực tế hiện nay và đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện quy
định pháp luật và hiệu quả thực thi pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học
của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có
chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của
mình về vấn đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn hướng tới là:
- Phân tích, đánh giá cơ sở pháp lý áp dụng các trường hợp bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Phân tích, đánh giá những vấn đề phát sinh trong thực tiễn tiến hành
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;


4


- Đánh giá, phân tích ưu điểm, hạn chế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
áp dụng Luật Đất Đai năm 2013 để tiến hành thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh. Từ đó đưa ra quan điểm về những ưu điểm cần phát huy và những hạn
chế cần khắc phục.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn hướng tới đối tượng nghiên cứu cơ bản gồm:
(i) Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong các trường hợp cụ thể theo
quy định của Luật Đất đai năm 2013 liên quan tới thu hồi đất.
(ii) Những vấn đề phát sinh trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.
(iii) Thực tiễn bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất tại tỉnh Tây
Ninh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những khía
cạnh cơ sở pháp lý của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn.
Luận văn sử dụng căn cứ pháp luật, cơ chế Việt Nam hiện hành và kinh
nghiệm thiết lập xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất. Nghiên cứu còn sử dụng thực tiễn thu hồi đất tại tỉnh Tây
Ninh nhằm đánh giá quy định pháp luật hiện nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp là các phương pháp
cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích dữ liệu thứ cấp được thực hiện tại
phần mở đầu và xuyên suốt tất cả các chương của Luận văn. Các tài liệu thứ
cấp từ thư viện, website của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi


5


trường, Tổng cục Thống kê… được tổng hợp, phân tích nhằm đánh giá tổng
quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh, đối chiếu dữ liệu
thứ cấp được sử dụng tại chương 2 và 3. Các tài liệu thứ cấp thu thập trong cả
nước được phân tích, đối chiếu, so sánh để làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Luận
văn có sử dụng số liệu thống kê từ các nguồn khác nhau để có cơ sở phân tích
làm rõ các bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn cụ thể như
sau:
- Hệ thống hóa và bổ sung các lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định mới hiện hành.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên cả nước và tập trung vào thực tiễn địa bàn tỉnh Tây Ninh
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư và đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật tại tỉnh Tây Ninh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Tổng quan về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Tây Ninh.
Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.


6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ
KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Các khái niệm về bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Theo chế độ đất đai của Việt Nam, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho
người sử dụng đất dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao
đất có thu tiền sử dụng đất; cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, cho thuê
đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; hoặc công nhận quyền sử
dụng đất. Trên cơ sở đó, khi có nhu cầu sử dụng đất hoặc bên được giao đất,
cho thuê đất không sử dụng đất đúng mục đích, Nhà nước có quyền thu hồi lại
diện tích đất đã cấp với một số điều kiện cụ thể.
Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp
luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền
sử dụng thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất
đai bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thông qua những hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt
đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Trong Luật Đất đai
năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đã đề cập vấn đề thu hồi đất, nhưng chưa
định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường hợp bị thu hồi
đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và điều 26 Luật Đất đai năm 1993).
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là: Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm
quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả
lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà
nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục

đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Khi Luật Đất

7


đai năm 2003 ra đời, thuật ngữ thu hồi đất đã được giải thích tại Khoản 5
Điều 4: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” [44, tr. 28]
Dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm của vấn đề thu hồi đất, song
cách giải thích này chưa thật sự chính xác, bởi nó dẫn đến cách hiểu rằng
người sử dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã, phường
thị trấn, trong khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất bị thu hồi còn
có thể là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, hơn nữa đây mới là chủ thể phổ
biến bị thu hồi đất [44, tr. 28]
Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có
hiệu lực vào ngày 01/07/2014, Khoản 11 Điều 3 đã quy định: “Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai”. Từ đó, có thể hiểu một cách khái quát về thu hồi
đất như sau: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu
lại đất và quyền sử dụng đất đã giao cho các chủ thể sử dụng đất theo quy
định của pháp luật đất đai”. Bản chất của thu hồi đất là sự kết thúc quan hệ
pháp luật đất đai sơ cấp giữa Nhà nước với người sử dụng đất và là sự chấm
dứt việc phát sinh các giao dịch của thị trường đất đai thứ cấp.
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong quan hệ dân sự, “bồi thường” là một chế định pháp lý cơ bản đặt
ra khi phát sinh thiệt hại cho các bên trong quan hệ. Theo quy định của pháp
luật đất đai, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng hay vì mục đích phát triển kinh tế. Việc thu hồi đất này không do lỗi của
người sử dụng đất mà vì mục đích chung của xã hội, hơn nữa khi bị thu hồi

8


đất, người sử dụng đất phải gánh chịu những thiệt thòi, bị ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp, vì vậy Nhà nước phải thực hiện trách nhiệm bồi
thường. Như vậy, đối với những trường hợp người sử dụng đất có lợi ích
chính đáng cần được bảo vệ thì Nhà nước với tư cách là người đại diện cho
quyền lợi của Nhân dân phải có nghĩa vụ khôi phục các quyền và lợi ích đó
bằng cách quy định chế định pháp lý về bồi thường như nguyên tắc; điều kiện
của việc bồi thường; cách thức bồi thường; trình tự, thủ tục bồi thường…để
làm sao quyền lợi của người bị thu hồi đất được đảm bảo, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi, nhanh chóng cho quá trình thu hồi đất, giúp chủ đầu tư nhanh
chóng có mặt bằng cho việc thực hiện dự án.
Thuật ngữ “bồi thường” trong pháp luật đất đai ở Việt Nam đã được ghi
nhận trong các văn bản pháp luật về đất đai, kể từ trước khi có Luật Đất đai
năm 1987. Sau khi Luật Đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 quy định
về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào
mục đích khác, thuật ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù
thiệt hại”. Mặc dù pháp luật không đưa ra sự giải thích về vấn đề này, song có
thể hiểu “đền bù thiệt hại” khi Nhà nước thu hồi đất là việc bù đắp lại những
thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra, trả lại tương xứng với giá trị quyền sử
dụng đất và công lao mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất trong quá trình
sử dụng.
Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật Đất đai năm 1993, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các Nghị định
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, việc “đền bù thiệt hại” khi Nhà nước thu hồi

đất được thực hiện chỉ đơn giản là việc Nhà nước đền bù thiệt hại do hành vi
thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất mà không đi kèm sau đó việc thực
hiện các chính sách hỗ trợ, tái định cư. Hơn nữa, với thuật ngữ “đền bù thiệt

9


hại” khi Nhà nước thu hồi đất, cho người ta nghĩ ngay đến việc phải được đền
bù 100% giá trị của mảnh đất bị thu hồi (trả lại đầy đủ, tương xứng với sự mất
mát hoặc vất vả), trong khi giá trị ban đầu của đất đai không do con người tạo
ra mà họ chỉ tạo ra giá trị tăng thêm của đất đai (do người sử dụng đất đầu tư
vào đất). Còn thuật ngữ “bồi thường” lại cho thấy rằng, Nhà nước chỉ bồi
thường những giá trị, thiệt hại hợp lý về đất và tài sản trên đất cho người có
đất bị thu hồi, kèm theo đó có thể là cơ chế hỗ trợ để giúp người sử dụng đất
nhanh chóng vượt qua những khó khăn khi bị thu hồi đất.
Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 được
Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại bởi sự hợp lý
của nó và tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng như các văn bản hướng dẫn
thi hành khác.
Khoản 6, Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”. Tuy nhiên, quy định này
chưa thật sự chặt chẽ và chưa thể hiện được trọn vẹn những giá trị thiệt hại
mà Nhà nước sẽ bồi thường khi thu hồi đất, đó không chỉ là giá trị quyền sử
dụng đất mà còn phải tính đến giá trị thiệt hại về tài sản có trên đất, ngoài ra
phải tính đến những thiệt hại vô hình khác, mà Nhà nước phải sử dụng thêm
cơ chế hỗ trợ mới bù đắp được một cách trọn vẹn những thiệt hại do thu hồi
đất gây ra. Vì vậy trong Luật Đất đai năm 2013 mới được Quốc hội thông qua

ngày 29/11/2013, Khoản 12 Điều 3 về giải thích từ ngữ đã quy định rõ: “Bồi
thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện
tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất
cho dân, là việc khôi phục lại giá trị tài sản (nhà cửa, đất đai…), nguồn sinh

10


sống, lợi ích vật chất và tinh thần theo nghĩa rộng cho người sử dụng đất bị
ảnh hưởng do quá trình triển khai thực hiện dự án đó chính là hình thức trách
nhiệm dân sự để bù đắp những tổn thất về vật chất tinh thần cho bên thiệt hại,
nhưng thiệt hại này không phải do hành vi trái pháp luật (của nhà đầu tư hay
của Nhà nước) mà thực chất là kết quả của “phá hủy - tái tạo” trong quá trình
phát triển của đô thị hay kinh tế - xã hội theo Điều 74 và Điều 75 Luật Đất
Đai năm 2013.
Như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường
cho người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi đất những giá trị, thiệt hại hợp lý
về đất và tài sản trên đất, việc bồi thường được thực hiện theo những quy định
của pháp luật đất đai.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu một cách đầy đủ về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
phát triển kinh tế phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do hành
vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của
pháp luật đất đai.
Dù nhìn nhận dưới bất kỳ góc độ và phương diện nào thì bản chất của
chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không phải là một quan hệ mua
bán đất đai mà thực chất là Nhà nước có trách nhiệm xác định những thiệt hại
để bồi thường nhằm đảm bảo, ổn định, nâng cao đời sống người dân khi bị thu

hồi đất. Nó mang ý nghĩa thực hiện quyền của Nhà nước chứ không đơn
thuần là một giao dịch dân sự có tính chất ngang giá.
1.1.3. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Có thể nói, bồi thường và hỗ trợ luôn được thực hiện trong mối quan hệ
có sự tham gia của hai chủ thể, đó là Nhà nước và người chịu thiệt hại về

11


quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Nếu
như “Bồi thường” là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp những tổn thất
về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất thông qua việc “trả lại
giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi”. Bồi thường đóng vai trò trung tâm trong
việc bù đắp những tổn thất của người bị thu hồi đất, có tính chất quyết định
trực tiếp đến quyền lợi của người bị thu hồi đất. Thì ở khía cạnh khác, “Hỗ
trợ” là việc Nhà nước giải quyết các hệ quả xảy ra sau bồi thường, có thể xem
“hỗ trợ” là một giải pháp nằm trong bồi thường, đóng vai trò bù đắp vào
khoảng trống mà các quy định về bồi thường chưa giải quyết được. Bởi khi
Nhà nước thu hồi đất, mặc dù đối tượng bị thu hồi chỉ là một diện tích đất,
song thiệt hại đối với người dân không chỉ nằm ở những mét vuông đất.
Ngoài các thiệt hại hữu hình về giá trị quyền sử dụng đất, công trình xây
dựng, cây trồng, vật nuôi; còn là các thiệt hại vô hình khác như mất ổn định
cuộc sống, mất tư liệu sản xuất gắn bó từ bao đời, phải học nghề mới, thay đổi
việc làm, thiệt hại về mặt tinh thần…[49, tr. 56-65]
Trong quá trình xây dựng pháp luật đất đai qua các thời kỳ nói chung và
chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói
riêng, đã có nhiều quan điểm, ý kiến cho rằng, không cần thiết phải đặt ra vấn
đề hỗ trợ. Việc đặt ra vấn đề này đã và đang như là một biện pháp nhằm khỏa
lấp đi những sự bất hợp lí của chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, làm xoa dịu bớt sự bất bình trong quần chúng Nhân dân, khi mà vấn đề

bồi thường không thể đảm bảo bù đắp thỏa đáng những thiệt hại và mất mát,
nếu không muốn nói là giá bồi thường quá rẻ mạt khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của người nông dân và chưa coi quyền sử dụng đất là quyền tài
sản. Thậm chí, đa số người nông dân không đồng tình với mức bồi thường đất
nông nghiệp hiện nay của Nhà nước, họ cho rằng, họ không cần Nhà nước
phải hỗ trợ mang tính chất nhân đạo, ban ơn, mà chỉ cần Nhà nước xây dựng

12


chính sách bồi thường hợp lí căn cứ vào giá thị trường để đảm bảo quyền lợi
cho họ, chính sách hỗ trợ hiện nay như: hỗ trợ để ổn định cuộc sống, hỗ trợ
khi di chuyển hay đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp với giá trị quá nhỏ bé so
với những thứ mất đi, cũng không đủ để bù đắp, giúp họ trang trải và ổn định
cho cuộc sống thường ngày. Bởi vậy, đa số người dân với mong muốn hướng
tới việc Nhà nước phải thay đổi cách thức và mức bồi thường hơn là chính
sách hỗ trợ.
Điều này được phản ánh qua vụ việc tại huyện Tân Biên, cụ thể Nông
trường Cao su Xa Mát thuộc Công ty TNHH MTV Cao su Tân Biên (huyện
Tân Biên) năm 2014 thông báo thu hồi diện tích đất mà ông Đậu Xuân Phong
và 40 hộ dân khai hoang, canh tác nhưng giá bồi thường, hỗ trợ thấp, ảnh
hưởng đến quyền lợi của các hộ dân. Thực tế, diện tích đất trên đã giao cho
Công ty Cao su Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, nhưng công ty không sử dụng đã
giao lại cho một số công nhân và Nhân dân địa phương. Số diện tích nhỏ còn
lại bỏ hoang nên gia đình ông Phong và một số hộ khai hoang, phục hóa, canh
tác thường xuyên và không bị xử lý vi phạm từ nhiều năm nay. Hiện nay,
công ty thông báo thu hồi đất nhưng không áp dụng việc đền bù, hỗ trợ về
công tôn tạo và tài sản gắn liền với đất gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền
và lợi ích của ông Phong và các hộ dân [50]
Song xét ở phạm vi tổng thể, trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội

hiện tại, với vai trò Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai và đặc biệt là
trong bối cảnh thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản
đang phát triển thất thường, Nhà nước chưa chủ động kiểm soát, giá cả nhà
đất đang biến động, thì việc Nhà nước duy trì khung giá đất của mình để bồi
thường trên cơ sở có sự điều tiết cần thiết trong trường hợp thị trường có sự
biến động và sử dụng công cụ hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi vẫn là
vấn đề cần thiết khách quan. Đặc biệt, chính sách hỗ trợ là một trong những

13


chủ trương phù hợp với bản chất của Nhà nước của dân, do dân và vì dân;
đồng thời, đây là một chính sách làm cho việc thực thi bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất được hoàn chỉnh và thực thi có hiệu quả hơn.
Bản chất của chế định hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là “giúp đỡ”, có
tính chính sách, thể hiện việc cộng thêm vào nên không đòi hỏi tính tương
xứng như bồi thường.
1.1.4. Khái niệm tái định cư
Khái niệm “Tái định cư” được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm cả việc
thực hiện chính sách bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Tái định cư theo
nghĩa hẹp là quá trình di chuyển người dân đến nơi ở mới.
Pháp luật đất đai Việt Nam hiện hành không giải thích khái niệm tái định
cư; tuy nhiên, nhiều văn bản pháp luật vẫn quy định về tái định cư. Có thể
khái quát rằng, tái định cư là việc bố trí chỗ ở mới cho người bị thu hồi đất mà
không còn chỗ ở nào khác trong phạm vi cấp xã nơi có đất bị thu hồi và phải
di chuyển chỗ ở. Hình thức tái định cư bao gồm: bằng nhà ở, bằng đất ở hoặc
bằng tiền. Qua những phân tích trên cho thấy, khái niệm “tái định cư” và “bồi
thường” là hai khái niệm tương đối độc lập nhau. Nếu bồi thường thiên về
mức độ tương xứng thì tái định cư thiên về chính sách tạo lập chỗ ở. Điều 42
Luật Đất đai năm 2003 trước đây có quy định: “UBND tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất
để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển
chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một
địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”.
Hiện nay, việc tái định cư được quy định tại các Điều 85, 86 và 87 Luật
Đất đai năm 2013 khá rõ khi yêu cầu lập, thực hiện dự án tái định cư trước khi
thu hồi đất trong trường hợp người có đất ở bị thu hồi mà phải di chuyển chỗ

14


ở hoặc đối với các dự án đầu tư do Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận chủ trương đòi hỏi phải di chuyển cả cộng đồng dân cư.
Trong hoạt động tái định cư, cũng cần lưu ý vấn đề “hậu tái định cư”. Cụ
thể, cùng với việc bố trí xây dựng khu tái định cư để các hộ dân có thể vào
sinh sống, thì quy định khác liên quan cũng cần được xây dựng để bảo đảm
rằng, người dân có thể sống, sinh hoạt và ổn định lâu dài tại các khu tái định
cư đó. Cùng với đó, yêu cầu chất lượng của hoạt động tái định cư cũng cần
quan tâm khi thực tế cho thấy, tái định cư chưa thực sự cải thiện được chất
lượng cuộc sống và sinh hoạt của người dân trên một hay nhiều phương diện.
Tái định cư cũng cần nhấn mạnh vấn đề tập quán định cư, thói quen sinh
hoạt và sản xuất của người dân. Hiện nay, khi tiến hành quy hoạch và xây
dựng các khu tái định cư, nhiều địa phương chỉ thực hiện theo cách nhìn nhận
một chiều của phía cơ quan nhà nước. Nhiều khu tái định cư hoàn toàn không
phù hợp với tập quán xây dựng nhà ở, thói quen sinh hoạt, lao động sản xuất
của người dân địa phương. Từ đó, dẫn đến nhiều khu tái định cư đã xây dựng
xong nhưng lại bỏ hoang vì những người bị thu hồi đất không chịu vào ở, hay
họ phải bán suất tái định cư (bán lúa non), bán nền tái định cư và tìm nơi ở
khác phù hợp.
Tóm lại, “tái định cư” được hiểu là trách nhiệm của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền trong việc lập và thực hiện các dự án mới về nhà ở, đất ở
với điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi cũ cho người bị thu hồi đất ở
phải di chuyển chỗ ở, giúp người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định đời sống
và sản xuất.
Bản chất của chế định tái định cư chính là quá trình đô thị hóa, phát triển
đô thị thực chất là quá trình tái định cư, việc quản lý phát triển các khu đô thị
mới có ý nghĩa quyết định tới chính sách tái định cư. Quá trình tái định cư là
quá trình tất yếu để ổn định và phát triển. Tái định cư đóng góp vai trò quan

15


trọng trong việc di dân, tái phân bố dân cư, tái bố trí mục đích sử dụng đất,
nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân nhằm đảm bảo an sinh xã hội, ổn
định kinh tế - chính trị.
1.2. Ý nghĩa của việc bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc
thu hồi đất
1.2.1. Về phương diện chính trị
Về phương diện chính trị, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một
chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm duy trì ổn định xã hội. Những
chính sách và quy định pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phù hợp với
lợi ích chung của xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu
hồi đất sẽ góp phần tạo tâm lý ổn định trong Nhân dân, người dân yên tâm lao
động sản xuất và cũng tránh xảy ra những khiếu kiện, biểu tình, các hành vi
chống phá, gây rối xã hội, kích động của lực lượng nước ngoài nhằm gây bất
ổn xã hội ở Việt Nam.
1.2.2. Về phương diện kinh tế - xã hội
Sở dĩ pháp luật quy định về việc bồi thường cho người sử dụng đất với
nhiều ý nghĩa kinh tế xã hội khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là khoản bù đắp lại khoản

lợi ích vật chất mà người có đất bị thu hồi bị mất bởi lẽ họ là người có quyền
sở hữu quyền sử dụng đất trong trường hợp này và Nhà nước đảm bảo quyền
sử dụng đất đó cho họ. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đảm bảo chia sẻ lợi ích
và bù đắp những thiệt hại cho các chủ thể sử dụng đất, đồng thời nhanh chóng
ổn định đời sống, sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người bị thu
hồi.
Thứ hai, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là nhằm đảm bảo cho người có
đất bị thu hồi có đất để sinh sống, ổn định sản xuất bởi có an cư thì mới lạc
nghiệp.

16


Thứ ba, quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư góp phần
tạo cơ sở pháp lý cho người bị thu hồi đất được Nhà nước bảo vệ khi quyền
lợi của họ có thể bị xâm phạm một cách trái pháp luật của các chủ thể khác
trong xã hội.
Thứ tư, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng
như tính chất phức tạp của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các
nhà quản lý, của chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, thông qua thực tiễn
thi hành việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất “đội
ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có năng lực và có
nhiều kinh nghiệm ngày càng đông đảo; sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giữa các Bộ, ban, ngành có các dự
án đầu tư ngày càng được mở rộng và có hiệu quả.
Thứ năm, quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ là lời giải hợp lý
cho bài toán “lợi ích ba bên” là Nhà nước - Người bị thu hồi đất - Người nhận
lại quyền sử dụng đất đã thu hồi trong quá trình thực hiện việc bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để thực hiện chuyển đổi cơ cấu
nền kinh tế, chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị thu hồi đất, nhất là đối với

người nông dân.
Kết luận Chƣơng 1
Thu hồi đất là một công cụ quản lý đất đai quan trọng của Nhà nước,
cũng là một nội dung được sửa đổi quan trọng của Luật Đất đai năm 2013.
Sau khi thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 đặt ra vấn đề bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư đối với các trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Theo đó, nếu như bồi thường và hỗ trợ là hai cơ chế được quy định thực
hiện sau khi thu hồi đất thì Luật Đất đai năm 2013 yêu cầu hoạt động tái định
cư phải được lập kế hoạch và thực hiện trước khi thu hồi đất. Công tác bồi

17


×