Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phân tích thực trạng sử dụng thuốc an thần kinh và các tương tác thuốc bất lợi trong điều trị tâm thần phân liệt tại bệnh viện tâm thần thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

DƢƠNG THỊ PHƢƠNG

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC AN
THẦN KINH VÀ CÁC TƢƠNG TÁC THUỐC BẤT
LỢI TRONG ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN PHÂN LIỆT
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN
THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ DƢỢC HỌC

HÀ NỘI 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

DƢƠNG THỊ PHƢƠNG

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC AN
THẦN KINH VÀ CÁC TƢƠNG TÁC THUỐC BẤT
LỢI TRONG ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN PHÂN LIỆT
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN


THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ DƢỢC HỌC

CHUYÊN NGÀNH: DƯỢC LÝ - DƯỢC LÂM SÀNG
MÃ SỐ: 8720205

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Tuấn

HÀ NỘI 2018


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Phòng sau đại học
và Bộ môn Dược lý, Dược lâm sàng trường Đại học Dược Hà Nội, trường cao
đẳng y tế Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới
PGS.TS. Trần Văn Tuấn, trưởng bộ môn Dược lâm sàng, trưởng khoa Dược,
trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, người thầy đã tận tình hướng dẫn và
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới TS.
Nguyễn Thành Hải – giảng viên bộ môn Dược lâm sàng, trường đại học
Dược Hà Nội, người thầy đã chỉ bảo cho tôi nhiều ý kiến quý giá, nhiệt tình
hỗ trợ và giải đáp mọi vướng mắc của tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình
và tạo mọi điều kiện thuận lợi từ ban giám đốc cũng như các cán bộ y bác sĩ
của bệnh viện tâm thần Thái Nguyên. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
của tất cả mọi người.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ tình yêu thương và lời cảm ơn sâu sắc tới gia
đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên và giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 4 tháng 4 năm 2018

Dương Thị Phương


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN

3

1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT ..... 3
1.1.1. Bệnh tâm thần phân liệt ...................................................................... 3
1.1.2. Điều trị tâm thần phân liệt .................................................................. 8
1.2. TƢƠNG TÁC THUỐC VÀ TƢƠNG TÁC THUỐC TRONG
ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN PHÂN LIỆT ..................................................... 18
1.2.1. Tương tác thuốc ................................................................................ 18
1.2.2. Tương tác thuốc tiềm tàng bất lợi trong điều trị tâm thần phân liệt ... 20
1.2.3. Tra cứu tương tác thuốc .................................................................... 22
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

24


2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................... 24
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 25
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu .......................................................................... 25
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu ............................................................ 26
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu ................................................................ 27
2.3. CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................ 28
2.3.1. Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc ATK cho bệnh nhân TTPL tại
bệnh viện tâm thần Thái Nguyên ................................................................ 28
2.3.2. Phân tích cặp tương tác thuốc tiềm tàng bất lợi và kiến thức, thái độ
của bác sỹ về cặp TTT trong điều trị TTPL tại bệnh viện tâm thần Thái
Nguyên ....................................................................................................... 28
2.4. ĐÁNH GIÁ CÁC CHỈ TIÊU TRONG NGHIÊN CỨU .................. 29
2.5. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU ................................ 30
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

31


3.1. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC AN THẦN
KINH TRÊN BỆNH NHÂN TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI BỆNH
VIỆN TÂM THẦN THÁI NGUYÊN ...................................................... 31
3.1.1. Một số đặc điểm chung của bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu ............ 31
3.1.2. Khảo sát đặc điểm lâm sàng ............................................................. 32
3.2. PHÂN TÍCH CẶP TƢƠNG TÁC THUỐC TIỀM TÀNG BẤT
LỢI VÀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA BÁC SỸ VỀ CẶP TƢƠNG
TÁC THUỐC TRONG ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN PHÂN LIỆT ............. 44
3.2.1. Phân tích các cặp tương tác thuốc tiềm tàng bất lợi trong điều trị
tâm thần phân liệt ....................................................................................... 44
3.2.2. Phân tích kiến thức, thái độ của bác sĩ đối với tương tác thuốc bất

lợi trong điều trị tâm thần phân liệt............................................................. 48
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN

54

4.1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC AN THẦN KINH TRONG
ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN
THÁI NGUYÊN

54

4.1.1. Về đặc điểm chung bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu ....................... 54
4.1.2. Về đặc điểm lâm sàng ....................................................................... 55
4.1.3. Về thực trạng sử dụng thuốc an thần kinh trên bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu.................................................................................................. 57
4.2. PHÂN TÍCH CẶP TƢƠNG TÁC THUỐC TIỀM TÀNG BẤT
LỢI VÀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA BÁC SỸ VỀ CÁC CẶP
TƢƠNG TÁC THUỐC TRONG ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN PHÂN
LIỆT TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN THÁI NGUYÊN ........................ 61
4.2.1. Về tương tác thuốc bất lợi................................................................. 61
4.2.2. Về kiến thức, thái độ của bác sỹ đối với tương tác thuốc bất lợi
trong điều trị tâm thần phân liệt .................................................................. 63
4.3. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ........................................ 64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

65


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ATK

An thần kinh

APA

American Psychiatric Association

BN

Bệnh nhân

NICE

Excellence National Institute for Health and Care

PORT

Patient Outcomes Research Team

TDKMM Tác dụng không mong muốn
TTPL

Tâm thần phân liệt

TTT

Tương tác thuốc



DANH MỤC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 1.1. Lựa chọn thuốc ATK trong giai đoạn cấp tính

12

Bảng 1.2. Phân loại thuốc an thần kinh

16

Bảng 3.1 Một số đặc điểm chung của BN trong mẫu nghiên cứu

31

Bảng 3.2. Phân nhóm điều trị theo ICD 10 của mẫu nghiên cứu

33

Bảng 3.3. Tuổi khởi phát và thời gian mắc bệnh của BN trong mẫu
NC

34

Bảng 3.4. Các bệnh mắc kèm của BN trong mẫu nghiên cứu

34


Bảng 3.5. Các thuốc ATK được sử dụng trong điều trị

36

Bảng 3.6. Các pháp đồ ATK được sử dụng trong điều trị

37

Bảng 3.7. Các cặp phối hợp thuốc ATK trong mẫu nghiêm cứu

38

Bảng 3.8. Số lần thay thuốc trong một bệnh án

40

Bảng 3.9. Thuốc thay đổi trong bệnh án

40

Bảng 3.10. Thời điểm thay đổi thuốc

41

Bảng 3.11. Các liệu pháp phối hợp điều trị

42

Bảng 3.12. Các biến cố bất lợi được ghi nhận trong quá trình dùng


43

thuốc
Bảng 3.13. Tỉ lệ bệnh án/đơn có tương tác thuốc

44

Bảng 3.14. Mức độ nặng của các cặp tương tác thuốc

45

Bảng 3.15. Số TTT trong đơn theo mức độ nặng của TTT

45

Bảng 3.16. Tổng số tương tác thuốc trong đơn thuốc

46

Bảng 3.17. Các cặp TTT có ý nghĩa lâm sàng

47

Bảng 3.18. Mức độ quan tâm của bác sỹ đối với TTT bất lợi và kiến

49

thức của bác sĩ đối với một số cặp TTT có ý nghĩa lâm sàng
Bảng 3.19. Kiến thức của bác sỹ đối với cặp tương tác thuốc liên
quan đến hậu quả kéo dài khoảng QT


50

Bảng 3.20. Kiến thức của bác sỹ đối với cặp tương tác thuốc liên

51

quan đến nhiễm độc kháng cholinergic
Bảng 3.21. Kiến thức của bác sỹ đối với cặp tương tác thuốc liên
quan đến giảm bạch cầu hạt

52


DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Tên hình

Trang

Hình 1.1. Đánh giá ban đầu và kế hoạch điều trị TTPL

9

Hình 1.2. Đánh giá bệnh nhân không đáp ứng với thuốc ATK

15

Hình 2.1. Quy trình lấy mẫu nghiên cứu

26


Hình 2.2. Quy trình tra cứu TTT

27

Hình 3.1. Thời gian nằm viện trung bình của BN trong mẫu nghiên

35

cứu
Hình 3.2. Số bệnh án thay đổi thuốc trong quá trình điều trị

39


ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh tâm thần nặng, tiến triển từ từ,
có khuynh hướng mạn tính, đặc trưng bởi các triệu chứng loạn thần như
hoang tưởng, ảo giác, căng trương lực [15]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế
Thế giới, tỷ lệ người mắc bệnh TTPL ở các khu vực khác nhau trên thế giới
khoảng 0,5 - 1,5% dân số. Tuy tỷ lệ mắc bệnh không cao nhưng bệnh thường
gây ra hậu quả nghiêm trọng như mất khả năng học tập và lao động, mất khả
năng tham gia các hoạt động xã hội, không tự nuôi sống hoặc không có khả
năng tự chăm sóc bản thân, làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng cuộc sống
và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội [88].
Hiện nay nguyên nhân gây bệnh TTPL chưa xác định rõ ràng nên việc
điều trị chủ yếu vẫn là điều trị triệu chứng. Trong đó thuốc an thần kinh
(ATK) là nền tảng của điều trị [28] và thường làm giảm hoặc mất các triệu
chứng dương tính của TTPL như hoang tưởng, ảo giác và các rối loạn tâm
thần vận động [24]. Tuy nhiên việc sử dụng các thuốc ATK thường xuất hiện

rất nhiều các tác dụng không mong muốn như kháng cholinergic, kháng
adrenergic, tác dụng trên chuyển hóa, tim mạch, …[86].
Thực tế điều trị ở nước ta hiện nay, Bộ y tế chưa có hướng dẫn điều trị
cụ thể cho bệnh TTPL, việc sử dụng các thuốc tại các khoa lâm sàng chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm và các tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, trên
cơ sở đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân (BN) để bác sỹ đưa ra các lựa chọn
thuốc cũng như việc thay đổi, phối hợp thuốc trên cơ sở tăng cường tác dụng
dược lý của thuốc. Vì vậy việc điều trị có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện các
biến cố bất lợi, và một trong số các nguyên nhân làm tăng các biến cố bất lợi
ấy chính là do tương tác thuốc (TTT) tiềm tàng khi phối hợp trong điều trị.
Bệnh viện tâm thần Thái Nguyên là một bệnh viện tuyến tỉnh, được
giao nhiệm vụ khám và điều trị cho BN tâm thần của tỉnh Thái Nguyên và các

1


tỉnh lân cận, trong đó có bệnh TTPL. Tuy nhiên mức độ về cập nhật các kiến
thức về sử dụng thuốc cũng như các tương tác thuốc tiềm tàng bất lợi còn hạn
chế, việc sử dụng thuốc và phối hợp thuốc trong điều trị chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm của bác sỹ trên cơ sở các đáp ứng tăng cường hiệu quả của bệnh nhân.
Hội đồng thuốc và điều trị của bệnh viện luôn luôn quan tâm đến việc sử dụng
thuốc hiệu quả, an toàn và hợp lý, do đó chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu
“ phân tích thực trạng sử dụng thuốc an thần kinh và các tương tác thuốc bất
lợi trong điều trị tâm thần phân liệt tại bệnh viện tâm thần Thái Nguyên” với 2
mục tiêu sau:
1. Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc an thần kinh trong điều trị tâm
thần phân liệt tại bệnh viện tâm thần Thái Nguyên
2. Phân tích các cặp tương tác thuốc tiềm tàng bất lợi và kiến thức, thái
độ của bác sỹ về các cặp tương tác thuốc trong điều trị tâm thần phân liệt tại
bệnh viện tâm thần Thái Nguyên

Nhằm mục đích cung cấp thêm các thông tin về điều trị, đặc biệt là các
tương tác thuốc tiềm tàng bất lợi khi phối hợp thuốc trong điều trị bệnh TTPL
tại bệnh viện. Từ đó có thể đưa ra một số đề xuất góp phần vào việc sử dụng
thuốc điều trị tâm thần phân liệt an toàn, hiệu quả và hợp lý hơn tại bệnh viện
tâm thần Thái Nguyên.

2


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT
1.1.1. Bệnh tâm thần phân liệt
1.1.1.1. Khái niệm về tâm thần phân liệt
Tâm thần phân liệt là một bệnh tâm thần nặng, bệnh tiến triển từ từ, có
khuynh hướng mạn tính, căn nguyên hiện nay chưa rõ ràng, làm biến đổi nhân
cách người bệnh một cách sâu sắc, tức là làm cho họ tách dần ra khỏi cuộc
sống bên ngoài, thu vào thế giới nội tâm( thế giới tự kỉ), cảm xúc ngày càng
khô lạnh, cùn mòn, tư duy nghèo nàn, năng lực học tập và làm việc ngày một
sa sút, hành vi, tác phong trở nên kỳ dị, khó hiểu [13], [15], [24].
1.1.1.2. Cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh của TTPL rất phức tạp và chưa được sáng tỏ. Chưa
có một giả thuyết nào có thể giải thích được cách khởi phát đa dạng và sự dao
động rất lớn của các biểu hiện triệu chứng lâm sàng trong TTPL. Quan niệm
hiện nay cho rằng, bệnh sinh của TTPL có thể là những sự tác động của các
yếu tố sinh học, xã hội và tâm lý. Do đó nhiều giả thuyết chỉ phản ánh một
khía cạnh nào đó của quá trình phát triển bệnh [24].
- Giả thuyết về yếu tố di truyền
Donald W.Black và N. Adreasen (1999) tóm tắt các nghiên cứu gia
đình cho thấy rằng, những gia đình có một người bị TTPL thì những người
khác có nguy cơ bị bệnh TTPL là 10% trong suốt cuộc đời [31]. Theo Kaplan

H.I., Sadock B.J. (2001) nếu bố hoặc mẹ bị TTPL thì khả năng con bị bệnh là
12%, cả bố và mẹ bị bệnh thì tỷ lệ này tăng lên đến 40% [42]. Ở người sinh
đôi cùng trứng nếu một người bị TTPL thì khả năng người kia bị bệnh là
47%, nếu sinh đôi khác trứng thì tỷ lệ này là 16,4% [77]. Như vậy, người ta
cho rằng yếu tố di truyền trong TTPL không phải theo mẫu di truyền của
Mendel cổ điển mà là đa gen, mỗi gen gây ra một hiệu quả khác nhau [44],
[67].

3


- Giả thuyết về phát triển tâm thần
Các nghiên cứu trong nửa cuối thế kỷ XX đã xác định rằng, yếu tố phát
triển tâm thần có liên quan tới cơ chế bệnh sinh của TTPL. Các yếu tố nguy
cơ trong thời kỳ mang thai, mùa sinh, dinh dưỡng, các biến chứng sản khoa
đóng một vai trò quan trọng [14], [63], [64].
- Giả thuyết về tâm lí, xã hội, văn hoá, môi trường
Test tâm lí cho thấy có sự bất thường rõ ràng ở người TTPL và ở cả
một số người họ hàng chưa có biểu hiện của bệnh TTPL. Việc giáo dục trong
gia đình có khả năng thay đổi loại cảm xúc và tạo ra một cuộc sống ít căng
thẳng hơn có tác dụng tốt để phòng tránh bệnh TTPL [24].
Theo các nhà tâm thần học Nga, tỷ lệ cơn TTPL phát sinh liên quan đến
yếu tố bên ngoài dao động từ 15 - 79%. Bệnh nhân ( BN) ở thành phố có nguy
cơ dễ mắc bệnh TTPL hơn ở nông thôn gấp 2 lần. Các cá thể có nhân cách
tiền bệnh lý như tính hướng nội, khép kín, ngại giao tiếp có nguy cơ mắc bệnh
cao hơn. Ngoài ra căng thẳng thần kinh vẫn được cho rằng có ảnh hưởng lớn
đến sự khởi phát và sự trầm trọng của bệnh [66], [70].
- Giả thuyết về tăng hoạt tính của Dopamin
Nhiều nghiên cứu gần đây đều cho rằng rối loạn chuyển hoá dopamin
đóng vai trò chính trong bệnh sinh bệnh TTPL. Giả thuyết dopamin cho rằng,

các rối loạn có nguyên nhân tiên phát bởi sự hoạt động quá mức của hệ
dopamin [24]. Sự giải phóng quá mức dopamin ở màng trước sinap, tăng tiếp
nhận dopamin ở màng sau sinap, tăng tính nhạy cảm của các thụ cảm thể tiếp
nhận dopamin ở màng sau sinap [46]. Giả thuyết này giải thích được lý do các
thuốc giảm hoạt tính thụ thể dopamin như thuốc an thần kinh (ATK) đều làm
giảm các triệu chứng của bệnh TTPL [12].
1.1.1.3. Triệu chứng bệnh
- Các triệu chứng âm tính: Triệu chứng âm tính thể hiện sự tiêu hao,
mất mát các hoạt động tâm thần sẵn có. Đây là nhóm triệu chứng xuyên suốt

4


quá trình bệnh, là nền tảng của quá trình phân liệt. Triệu chứng âm tính thể
hiện sự mất tính chất toàn vẹn, tính thống nhất của hoạt động tâm thần, gồm
hai tính chất chính [11], [15], [24].
+ Tính tự kỷ: là sự biểu hiện của tính thiếu hòa hợp ở mức độ cao, nổi
bật là tính kỳ dị, khó hiểu, khó thâm nhập. Tính tự kỷ thể hiện trong cả 3 mặt
hoạt động chính: tư duy, cảm xúc và hành vi tác phong. Thế giới tự kỷ là thế
giới nội tâm mà ở đó các quy luật tự nhiên và xã hội bị đảo lộn, chỉ có người
bệnh hiểu và làm những điều kỳ dị mà không ai có thể hiểu được.
+ Sự giảm sút thế năng tâm thần: giảm thế năng tâm thần là giảm tính
năng động, tính nhiệt tình trong mọi hoạt động tâm thần. Biểu hiện cảm xúc
ngày càng cùn mòn, khô lạnh, tư duy ngày càng nghèo nàn, ý chí ngày càng
suy đồi, hoạt động ngày càng yếu đuối đi đến chỗ không thiết làm một công
việc gì.
Các triệu chứng âm tính thường tiến triển dần dần, âm ỉ làm tan rã nhân
cách của người bệnh một cách sâu sắc.
- Các triệu chứng dương tính: Triệu chứng dương tính thể hiện những
biến đổi bệnh lý phong phú, tăng lên, cơ động và đa dạng trong hoạt động tâm

thần, xuất hiện nhất thời rồi lại mất đi nhanh chóng hay được thay thế bằng
những triệu chứng dương tính khác như: hưng cảm, trầm cảm, các ảo giác,
hoang tưởng, ám ảnh, … trong quá trình bị bệnh. Các triệu chứng này có thể
xuất hiện riêng lẻ nhưng cũng có thể kết hợp với nhau thành những hội chứng
khác (hội chứng về cảm xúc, hội chứng paranoid, hội chứng căng trương
lực...) [11], [15].
1.1.1.4. Các giai đoạn tiến triển của bệnh
Thường qua 3 giai đoạn: báo trước, toàn phát và di chứng [12], [24]:
- Giai đoạn báo hiệu
Thời kỳ đầu thường biểu hiện các triệu chứng suy nhược, người bệnh
cảm thấy chóng mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, mất ngủ, cảm giác khó khăn

5


trong học tập và công tác, khó tiếp thu cái mới, đầu óc mù mờ, khó suy nghĩ,
cảm xúc lạnh nhạt dần, khó thích ứng với ngoại cảnh, giảm dần các thích thú
trước kia, bồn chồn, lo lẳng không duyên cớ, dễ nóng nảy, dễ bùng nổ.
Sau nữa cảm giác bị động tăng dần, thấy như sức đuối trước cuộc sống,
không theo kịp những biến đổi xung quanh. Một số bệnh nhân cảm thấy có
những biến đổi kỳ lạ trong người, thay đổi nét mặt, màu da... Cũng có bệnh
nhân trở lên say sưa đọc các loại sách triết học, lý luận viển vông không phù
hợp với thực tế.
- Giai đoạn toàn phát
Các triệu chứng khởi đầu tăng dần lên đồng thời xuất hiện các triệu
chứng loạn thần rầm rộ, phong phú, bao gồm các triệu chứng dương tính (ảo
giác, hoang tưởng) và các triệu chứng âm tính. Tuỳ theo triệu chứng hay hội
chứng nào nổi bật lên hàng đầu và chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng mà
người ta chia ra các thể khác nhau.
- Giai đoạn di chứng

Một giai đoạn mạn tính và muộn trong tiến triển của bệnh TTPL biểu
hiện bằng các triệu chứng âm tính nổi bật, các triệu chứng dương tính mờ
nhạt. Các biến đổi nhân cách và rối loạn hành vi kèm sa sút tâm thần biểu
hiện rõ rệt.
1.1.1.5. Các thể tâm thần phân liệt
Dựa theo bảng phân loại quốc tế lần thứ 10 (ICD - 10) [18], có các thể
tâm thần phân liệt như sau:
- Tâm thần phân liệt thể Paranoid (F20.0): Triệu chứng nổi bật nhất
là các hoang tưởng và ảo giác. Đặc trưng của hoang tưởng là tính bị động, bị
chi phối hay bị hại…, đặc trưng của ảo giác là ảo giác giả, hay gặp ảo thanh
bình phẩm hoặc ra lệnh, ảo khứu, ảo vị, ảo thị ít gặp hơn. Hoang tưởng và ảo
giác thường kết hợp với nhau thành hội chứng tâm thần tự động rất đặc trưng

6


trong TTPL thể paranoid. Rối loạn cảm xúc ở thể này thường nhẹ. Triệu
chứng âm tính thường kín đáo và thường xuất hiện muộn hơn các thể khác.
- Tâm thần phân liệt thể thanh xuân (F20.1): Thể này xuất hiện ở lứa
tuổi trẻ. Nổi bật nhất là hội chứng kích động thanh xuân như hành vi lố lăng,
si dại, cảm xúc hỗn hợp. Hoang tưởng và ảo giác thoáng qua và rời rạc. Các
triệu chứng âm tính xuất hiện sớm và tiến triển nhanh.
- Tâm thần phân liệt thể căng trương lực (F20.2): Bệnh biểu hiện
bằng các hành vi xung động, có tính chất định hình, bối rối, hoạt động không
có mục đích. Tiếp đó là sự xen kẽ giữa trạng thái kích động và bất động, căng
trương lực, phủ định chống đối. BN duy trì các tư thế không tự nhiên có thể
trong một thời gian dài như gối không khí, uốn sáp, tạo hình hoặc vâng lời tự
động. Triệu chứng âm tính xuất hiện sớm và trầm trọng hơn thể hoang tưởng.
- Tâm thần phân liệt thể không biệt định (F20.3): Bao gồm các trạng
thái đáp ứng tiêu chuẩn chung của TTPL song không đáp ứng với bất cứ thể

nào đã mô tả trong TTPL. Bệnh cảnh biểu hiện với các nhóm triệu chứng mà
không có một nhóm nào đặc trưng, chiếm ưu thế rõ ràng trên lâm sàng.
- Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt (F20.4): Một trạng
thái trầm cảm kéo dài, xuất hiện sau một quá trình phân liệt rõ, một số triệu
chứng phân liệt vẫn còn song không chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng.
Các triệu chứng đó thường là âm tính nhiều hơn. Hội chứng trầm cảm ở đây
không trầm trọng và mở rộng đến mức đáp ứng tiêu chuẩn một giai đoạn trầm
cảm trong rối loạn cảm xúc.
- Tâm thần phân liệt thể di chứng (F20.5): Thể này là một giai đoạn
mạn tính trong tiến triển của TTPL. Các triệu chứng dương tính mờ nhạt và
không còn ảnh hưởng đến cảm xúc hay hành vi của bệnh nhân nữa. Triệu
chứng âm tính nổi bật lên như cảm xúc cùn mòn, ngôn ngữ nghèo nàn, kém
chăm sóc bản thân và hoạt động xã hội.

7


- Tâm thần phân liệt thể đơn thuần (F20.6): Bệnh bắt đầu bằng các
triệu chứng âm tính như giảm sút dần khả năng học tập, công tác, không thích
ứng với các yếu tố xã hội, cảm xúc cùn mòn, ý chí giảm sút. Các triệu chứng
này ngày càng sâu sắc, bệnh nhân thu vào thế giới tự kỷ. Triệu chứng dương
tính như hoang tưởng, ảo giác không rõ ràng như các thể khác.
- Các thể tâm thần phân liệt khác (F20.8): Gồm TTPL thể loạn cảm
giác bản thể. Rối loạn dạng phân liệt không xếp cách khác.
1.1.2. Điều trị tâm thần phân liệt
1.1.2.1. Mục tiêu điều trị
TTPL là bệnh mạn tính, và nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của bệnh
nhân. Theo hướng dẫn thực hành cho điều trị bệnh TTPL của Hoa Kỳ năm
2004 thì mục tiêu điều trị bệnh tâm thần phân liệt cần đạt được là:
- Làm giảm hoặc loại trừ các triệu chứng của bệnh

- Tối đa chất lượng cuộc sống và khả năng thích nghi về xã hội của BN
- Cải thiện và phục hồi những ảnh hưởng của bệnh một cách tốt nhất
[58].
1.1.2.2. Lập kế hoạch điều trị
Lập kế hoạch điều trị bao gồm việc quyết định về cách điều trị, các liệu
pháp điều trị sẽ được sử dụng và các vấn đề cần được giải quyết. Bệnh nhân,
người chăm sóc và nhân viên y tế có thể được tư vấn trong khi lên kế hoạch
điều trị. Kế hoạch điều trị là nền tảng, cần có tính thực tế, khả thi, linh hoạt và
luôn được đánh giá lại, sửa đổi cho phù hợp [47].

8


BN có biểu hiện về tâm thần
Chẩn đoán phân biệt với:
- Bệnh tâm thần thực thể
- Rối loạn tâm thần cấp tính thoáng qua
- Rối loạn ảo giác liên tục
- Rối loạn phân liệt cảm xúc
- Trầm cảm nặng với các triệu chứng tâm thần
- Bệnh hưng cảm với các triệu chứng tâm thần
- Bệnh tâm thần do thuốc

Thiết lập chẩn đoán TTPL
Đánh giá:
- Mức độ nặng của bệnh
- Nguy cơ gây hại cho bản thân và người khác
- Sử dụng đồng thời nhiều thuốc/phụ thuộc vào thuốc
- Mức độ chức năng
- Khám chi tiết thực thể

- Đo huyết áp, cân nặng, BMI, vòng eo
- Khám tình trạng tâm thần
- Xét nghiệm máu; chức năng gan, thận; đường huyết lúc đói; điện tâm đồ (khoảng QT)
- Tiền sử điều trị: đáp ứng với điều trị bằng thuốc trước đó, tuân thủ điều trị, tdkmm…
- Sự tin tưởng của người bệnh và người chăm sóc về nguyên nhân gây bệnh và điều trị
- Đánh giá các hỗ trợ xã hội
- Gánh nặng cho người chăm sóc

Quyết định liệu pháp điều trị
Cân nhắc điều trị nội trú khi có nguy cơ tự sát, kích động quá mức và bạo lực, suy dinh
dưỡng, căng trương lực cơ, không có khả năng tự chăm sóc bản thân mà luôn cần có
người liên tục giám sát và hỗ trợ, tình trạng đa bệnh lý khó kiểm soát được khi điều trị
ngoại trú

Liệu pháp hóa dược
Chọn thuốc ATK dựa trên
tiền sử: đáp ứng điều trị,
tdkmm, chi phí, tình trạng đa
bệnh lý, ưu tiên của BN và
gia đình, đường dùng, sẵn có
của thuốc, kết quả đánh giá
các test chuyển hóa, tiền sử
tuân thủ điều trị, kháng trị

Liệu pháp sốc điện
Hưng cảm, rối loạn
cảm xúc, kiểm soát
nhanh triệu chứng, tự
sát, tiền sử đáp ứng với
liệu pháp sốc điện


Điều trị không
dùng thuốc
- Giáo dục tâm thần
- Các biện pháp can
thiệp/hỗ trợ từ cộng
đồng, xã hội

Hình 1.1. Đánh giá ban đầu và kế hoạch điều trị TTPL [47]

9


Điều trị bệnh TTPL cho đến nay vẫn là điều trị triệu chứng và phục hồi
chức năng vì cơ chế bệnh sinh của bệnh chưa được xác định rõ. Do có sự kết
hợp giữa các nhân tố sinh học và môi trường trong cơ chế bệnh sinh nên có
thể phải kết hợp nhiều liệu pháp điều trị khác nhau như: liệu pháp hóa dược,
liệu pháp sốc điện và liệu pháp tâm lý, xã hội [24], [25], [26].
- Liệu pháp hóa dược
Cho đến nay hoá dược trị liệu trong tâm thần học vẫn là giải pháp lựa
chọn hàng đầu. Để đạt được hiệu quả tối ưu và không ngừng nâng cao chất
lượng điều trị cần phải luôn chú ý tới các yếu tố có tính nguyên tắc trong hoá
dược trị liệu như: điều trị phải động, lựa chọn thuốc phù hợp với từng cá thể
người bệnh, giảm tối thiểu những TDKMM của thuốc, điều trị đủ thời gian
cần thiết phù hợp với từng người bệnh, thể bệnh, giai đoạn bệnh, có theo dõi
đánh giá khoa học chặt chẽ, toàn diện [20].
Trong điều trị TTPL, thuốc ATK là nền tảng của điều trị [28], rất khó
điều trị hồi phục hiệu quả mà không có các thuốc ATK [58]. Theo Hiệp hội
Tâm thần Hoa Kỳ (2004), thuốc ATK thế hệ hai (trừ clozapin) là được lựa
chọn để điều trị bệnh TTPL lần đầu tiên [58]. Không nên dùng clozapin vì

nguy cơ tăng bạch cầu. thuốc ATK thế hệ hai thường được ưa dùng so với
thuốc ATK thế hệ đầu tiên bởi vì chúng ít liên quan đến triệu chứng ngoại
tháp. Tuy nhiên, các thuốc ATK thế hệ hai có xu hướng tác dụng phụ trên
chuyển hóa như tăng cân, tăng lipid máu, và đái tháo đường. Những tác dụng
phụ này có thể làm tăng nguy cơ tử vong do tim mạch ở bệnh nhân TTPL
[75].
- Liệu pháp sốc điện
Đây là liệu pháp điều trị áp dụng cho bệnh nhân TTPL điều trị nội trú
trong bệnh viện, có hiệu quả tốt, đặc biệt trong một số thể: căng trương lực,
thanh xuân, TTPL kháng thuốc. Tuy nhiên liệu pháp này cũng có nhiều tai

10


biến nguy hiểm, do vậy chỉ định và chống chỉ định điều trị của phương pháp
này rất chặt chẽ [11], [24].
- Liệu pháp tâm lý xã hội
Liệu pháp tâm lý xã hội có hiệu quả trong việc làm giảm hoặc kiểm
soát triệu chứng bệnh tâm thần của bệnh nhân, tuân thủ điều trị tốt hơn và
giảm tỷ lệ tái phát, cải thiện kỹ năng sống, tái hòa nhập với cộng đồng. Do đó
nó như là một phần không thể thiếu của các phương pháp điều trị cho bệnh
nhân tâm thần phân liệt [39] . Các can thiệp tâm lý xã hội đã được sử dụng để
điều trị bệnh tâm thần phân liệt như liệu pháp nhận thức, liệu pháp phục hồi
chức năng tâm thần, can thiệp gia đình, đào tạo kỹ năng xã hội .... Thông qua
các can thiệp tâm lý xã hội cũng giúp cho bác sỹ và bệnh nhân gần gũi hơn,
bệnh nhân tin tưởng và hợp tác điều trị tốt hơn [58]. Như vậy các can thiệp về
tâm lý xã hội, cùng với điều trị bằng hóa dược được khuyến cáo là các chiến
lược hiệu quả nhất trong điều trị và phục hồi chức năng của những người bị
tâm thần phân liệt [82].
1.1.2.3. Liệu pháp hóa dược trong điều trị tâm thần phân liệt

Trong điều trị TTPL ở nước ta hiện chưa có hướng dẫn cụ thể đưa ra.
Trên thế giới có nhiều hướng dẫn của các tổ chức khác nhau như của hiệp hội
tâm thần hoa kỳ (APA) [58] hay Bộ y tế Singapore [86] … Các hướng dẫn
này đều chỉ ra rằng, việc điều trị nên theo từng giai đoạn của bệnh.
 Điều trị giai đoạn cấp tính
Cần nắm được mục tiêu điều trị và đánh giá tình trạng cấp tính của
bệnh nhân trước khi dùng các thuốc ATK. Theo hướng dẫn thực hành lâm
sàng trong điều trị cho bệnh nhân TTPL của Hoa Kỳ [58], việc lựa chọn thuốc
ATK trong điều trị giai đoạn cấp ưu tiên ban đầu là các ATK thế hệ 2 ( trừ
clozapin), lựa chọn thay thế là các thuốc khác trong nhóm hoặc ATK thế hệ 1
[58]:

11


Bảng 1.1. Lựa chọn thuốc ATK trong giai đoạn cấp tính
Lựa chọn ưu tiên 1

Nhóm 2
Nếu do tác dụng Chọn thuốc khác trong nhóm 1

Lựa chọn ưa tiên 2

phụ quá mức

hoặc 2

Nếu không hiệu quả Chọn thuốc khác trong nhóm 1
hoặc 2 hoặc 3
Nếu do tác dụng Chọn thuốc khác trong nhóm 1

phụ quá mức

hoặc 2
Chọn thuốc khác trong nhóm 1

Lựa chọn ưa tiên 3

Nếu không hiệu quả hoặc 2 hoặc 3 kết hợp liệu pháp
sốc điện trong trường hợp BN
nặng, hoặc dùng clozapin thất bại

Ghi chú:
Nhóm 1: ATK thế hệ 1 như chlorpromazin, haloperidol,…
Nhóm 2: Risperidon, olanzapin, quetiapin, ziprasidon, aripiprazol
Nhóm 3: Clozapin
Theo khuyến cáo PORT [38], với những bệnh nhân TTPL tái phát thì
thuốc an thần kinh (trừ clozapin) nên được sử dụng để giảm các triệu chứng.
Lựa chọn thuốc ATK ban đầu hoặc quyết định chuyển sang thuốc ATK mới
nên được thực hiện trên đáp ứng điều trị trước đó, các tác dụng phụ, sự tuân
thủ, các yếu tố nguy cơ, và kế hoạch điều trị.
Bệnh nhân tái phát hay bệnh nhân điều trị lần đầu ở giai đoạn cấp tính
nên được sử dụng thuốc đường uống [86]. Nhưng với những bệnh nhân nặng
có thể dùng đường tiêm của các thuốc ATK thế hệ 1 và 2 (ví dụ, haloperidol,
ziprasidon, và olanzapin), có thể bổ sung benzodiazepin đường tiêm [58].
Xác định liều tối ưu thuốc ATK ở giai đoạn cấp tính rất phức tạp, bệnh
nhân có thể mất từ 2 đến 4 tuần để có những đáp ứng ban đầu và tối đa 6

12



tháng hoặc lâu hơn để có đáp ứng đầy đủ hoặc tối ưu. Điều quan trọng là liều
đó phải có hiệu quả và không gây các tác dụng phụ quá mức vì điều này ảnh
hưởng đến sự tuân thủ lâu dài của bệnh nhân [58]. Theo nghiên cứu PORT,
với những bệnh nhân tái diễn liều thuốc thế hệ 1 nên tương đương 300 - 1000
chlorpromazin /ngày, liều hàng ngày của thuốc thế hệ 2 cho một triệu chứng
cấp tính cần là: aripiprazol 10 - 30 mg, olanzapine 10 - 20 mg, paliperidon 3 15mg, quetiapin 300 - 750mg, risperidon 2 - 8mg, và ziprasidon 80 - 160mg.
Điều trị phải là ít nhất 2 tuần, với trên 6 tuần để quan sát đáp ứng tối ưu. Với
những bệnh nhân điều trị lần đầu, liều tương đương 300 - 500 mg
chlorpromazin /ngày, liều risperidon và olanzapin giảm 1 nửa so với bệnh
nhân tái diễn [38].
 Điều trị giai đoạn ổn định
Dùng thuốc trong giai đoạn ổn định nhằm giảm thiểu nguy cơ tái phát,
theo dõi và giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của các tác dụng phụ của thuốc.
Thuốc ATK được dùng trong giai đoạn cấp tính tiếp tục được sử dụng, nếu
bệnh nhân có các phản ứng phụ quá mức có thể đổi thuốc khác trong nhóm
hoặc nếu bệnh nhân không tuân thủ cần xem xét sử dụng thuốc tiêm tác dụng
kéo dài [58].
Theo nghiên cứu PORT, thuốc ATK nên được tiếp tục được dùng trong
giai đoạn điều trị để giảm triệu chứng và giảm nguy cơ tái phát hoặc trầm
trọng thêm các triệu chứng dương tính. Nên duy trì liều dùng thuốc thế hệ 1
tương đương 300 - 600mg mỗi ngày. Liều duy trì cho thuốc aripiprazol,
olanzapin, paliperidon, quetiapin, risperidon và ziprasidon nên là liều có hiệu
quả để giảm triệu chứng dương tính trong giai đoạn cấp tính của điều trị. Với
thuốc tiêm tác dụng kéo dài, liều khuyến cáo cho fluphenazin decanoat là 6,25
- 25 mg mỗi 2 tuần và haloperidol decanoat 50 - 200 mg mỗi 4 tuần,
risperidon kéo dài 25 - 75 mg mỗi 2 tuần [38].

13



Theo hướng dẫn của Bộ y tế Singapor [86], trong điều trị duy trì bệnh
TTPL nên giảm liều thuốc ATK đến liều thấp nhất có hiệu quả, nhưng không
được thấp hơn một nửa liều hiệu quả trong giai đoạn cấp tính.
Mặc dù liều cao hơn thường có hiệu quả hơn trong việc giảm nguy cơ
tái phát nhưng lại gây ra các nhiều tác dụng không mong muốn hơn so với
liều thấp. Do đó, bác sỹ lâm sàng nên cố gắng điều trị ở liều tối thiểu, giảm
thiểu tác dụng không mong muốn của thuốc mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn
[58].
 Điều trị TTPL kháng trị
Kháng trị là khi các triệu chứng bệnh ít hoặc không có đáp ứng với việc
dùng ít nhất 2 thuốc ATK trong thời gian ít nhất là 6 tuần với liều điều trị
[58]. Trong trường hợp này cần phải đánh giá sự tuân thủ trước khi chuyển
thuốc sang thuốc ATK khác. Nếu bệnh nhân có sự tuân thủ kém hoặc không
tuân thủ với thuốc, cần tìm hiểu nguyên nhân và giải quyết nó. Clozapin cần
được xem xét sau khi bệnh nhân không đáp ứng với phác đồ 2 thuốc ATK
(trong đó ít nhất có 1 thuốc ATK thế hệ 2) (hình 1.2.) [47].

14


BN được dùng thuốc ATK
đầy đủ (đủ liều, tối thiểu 6 tuần)

Đáp ứng đầy đủ:
Giữ nguyên liều, dõi tác dụng
không mong muốn

Không đáp ứng với điều trị
Đánh giá lại chẩn đoán
Tuân thủ điều trị


Không có đáp ứng với thuốc
Thay đổi thuốc

Không đáp ứng do kém tuân thủ điều trị
-

Thất bại với phối hợp 2 thuốc
ATK trong đó 1 thuốc là thế hệ 2
- Cân nhắc clozapin

- tìm nguyên nhân và giải quyết nó
- Nếu do không dung nạp thuốc (tác dụng không
mong muốn)- cân nhắc đổi thuốc

Đáp ứng đầy đủ:
Giữ nguyên liều, dõi tác dụng không mong
muốn

Không đáp ứng đầy đủ với
clozapin
- Cân nhắc phối hợp clozapin với liệu
pháp sốc điện hoặc các ATK khác
- Tăng cường liệu pháp tâm lý

Hình 1.2. Đánh giá bệnh nhân không đáp ứng với thuốc ATK
Theo nghiên cứu của Wimberley.T và cộng sự (2017), ở những bệnh
nhân TTPL kháng trị, điều trị bằng clozapin làm giảm tỷ lệ tử vong gần 2 lần
so với những bệnh nhân không điều trị bằng clozapin [89]. Trong nghiên cứu
của Siskind và cộng sự (2016) cũng chỉ ra rằng, clozapin có hiệu quả tốt hơn

các thuốc ATK thế hệ 1 và 2 khác trong việc giảm các triệu chứng dương tính
của TTPL kháng trị [79].

15


Theo hướng dẫn của NICE (2014), lựa chọn clozapin cho người bị tâm
thần phân liệt không đáp ứng đủ điều trị khi sử dụng liên tục ít nhất là 2 loại
thuốc ATK khác nhau, mà một trong 2 thuốc là thuốc ATK thế hệ 2 nhưng
không phải là clozapin [43]. Liều dùng của clozapin từ 300 đến 800 mg/ngày
và kéo dài ít nhất 8 tuần [38]. Với những bệnh nhân này, cần được theo dõi
công thức máu định kỳ [86].
1.1.2.4. Các thuốc an thần kinh trong điều trị tâm thần phân liệt
 Khái niệm: Thuốc an thần kinh còn được gọi là thuốc ức chế tâm thần,
thuốc an thần chủ yếu, có tác dụng chống rối loạn tâm thần thể hưng cảm, làm
giảm các kích thích về tâm thần, chống hoang tưởng, ảo giác, lo sợ, tạo cảm
giác thờ ơ, lãnh đạm [11].
 Phân loại: Thuốc ATK có thể có nhiều cách phân loại khác nhau như
sau:
Bảng 1.2. Phân loại thuốc an thần kinh

Theo cấu
trúc hoa
học [22]

Theo tác
dụng lâm
sàng [27]
Theo thế
hệ [32]


Phân loại thuốc an thần kinh
+ Dẫn xuất phenothiazin: clorpromazin, levomepromazin ...
+ Dẫn xuất butyrophenon: haloperidol, trifluperidol ...
+ Dẫn xuất benzamid: sulpirid, sultoprid ...
+ Dẫn xuất thioxanthen: cloprothixen, flupentixol ...
+ Dẫn xuất dibenzo-diazepin: clozapin, olanzapin, loxapin ...
+ Dẫn xuất benzisoxazol: risperidon …
+ Dẫn xuất diphenylbutyl piperazin: pimozid …
+ Các ATK êm dịu: chlopromazin, levomepromazin...
+ Các ATK trung gian: thioridazin, propericiazin...
+ Các ATK đa năng: haloperidol, flufenazin...
+ Các ATK giải ức chế: sulpirid, trifluperidol...
+ Nhóm ATK thế hệ 1 (ATK cổ điển): haloperidol,
chlorpromazin, thioridazin, levomepromazin ...
+ Nhóm ATK thế hệ 2 (ATK mới): clozapin, risperidon,
olanzapin, amisulpirid ...

16


 Cơ chế tác dụng
Các Thuốc ATK ức chế receptor dopaminergic ở não. Có 5 loại
receptor dopaminergic là D1, D2, D3, D4, D5. Ngoài ra, còn ức chế các
receptor khác như serotoninergic, α - adrenergic, cholinergic và histamin H1.
Tác dụng chống loạn thần như ảo giác, loạn thần, căng trương lực chủ yếu
liên quan tới khả năng ức chế receptor D2. Khi thuốc ATK ức chế trên 65%
số thụ thể D2 thì bắt đầu có hiệu quả điều trị. Tuy nhiên khi số thụ thể D2 bị
ức chế trên 80% thì bắt đầu có tác dụng phụ là ngoại tháp. Với các thuốc
ATK thế hệ 1 khoảng liều ức chế 65 - 80% thụ thể D2 nhỏ, còn thuốc ATK

thế hệ 2 thì khoảng liều này rộng hơn, điều này là một phần lý do tại sao
thuốc ATK thế hệ 2 ít tác dụng phụ ngoại tháp hơn thuốc ATK thế hệ 1 [8],
[12], [19].
 Tác dụng không mong muốn [86]
- Tác dụng ngoại tháp như: Rối loạn vận động, hội chứng Parkinson, …
- Kháng cholinergic như: khô miệng, mờ mắt, bí tiểu và táo bón, …
- Tác dụng phụ kháng adrenergic như: hạ huyết áp tư thế, …
- Tác dụng phụ tim mạch như kéo dài khoảng QT, rối loạn nhịp tim
- Hội chứng thần kinh ác tính
Ngoài ra, các thuốc ATK còn có các TDKMM khác như rối loạn nội
tiết (tăng tiết sữa cả nam lẫn nữ, tăng cân, bất lực tình dục ở nam, mất kinh ở
nữ,...), các rối loạn tâm thần thứ phát ( an thần, buồn ngủ, lú lẫn, ...) [12].
1.1.2.5. Tuân thủ điều trị
Thuốc ATK đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong điều trị tâm
thần phân liệt và kiểm soát triệu chứng, vì vậy việc không tuân thủ thuốc
trong điều trị có tác động đáng kể đến kết quả điều trị [61]. Theo nghiên cứu
của Lieberman và cộng sự (2005) kết quả là có đến 74% bệnh nhân ngừng sử
dụng thuốc trong vòng 18 tháng [60]. Không tuân thủ thuốc trong điều trị

17


×