Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện chương mỹ, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.82 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THỊ VÀNH KHUYÊN

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ
CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN CHƢƠNG MỸ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THỊ VÀNH KHUYÊN

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ
CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN CHƢƠNG MỸ HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA
HỌC TS. NGUYỄN ĐÌNH HÒA



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp
thực hiện. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa được ai công bố trong luận văn nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

ĐOÀN THỊ VÀNH KHUYÊN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. BTV:

Ban Thường vụ.

2. CNH – HĐH:

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.

3. HĐND – UBND:

Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân.

4. KCN:

Khu công nghiệp.


5. NXB:
6. TDTT:

Nhà xuất bản
Thể dục thể thao.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài..........................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................7
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài...........................................................7
7. Kết cấu luận văn............................................................................................7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG
LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ...................... 9
1.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở: Khái niệm, vai trò
và tính tất yếu....................................................................................................9
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................................... 9
1.1.2. Vai trò của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở. 15
1.1.3. Tính tất yếu của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ
sở hiện nay.......................................................................................................19
1.2. Những nội dung cơ bản của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán
bộ cấp cơ sở.....................................................................................................22
1.2.1. Nâng cao năng lực tư duy khoa học................................................................22
1.2.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ lãnh đạo, quản lý về vị trí, vai
trò của chính quyền cơ sở trong nhiệm vụ chính trị........................................23

1.2.3. Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân......................... 24
1.2.4. Nâng cao trách nhiệm và trình độ đào tạo, bồi dưỡng, phát triển cán bộ lãnh
đạo quản lý kế cận, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
24
1.2.5. Nâng cao năng lực, trình độ, giám sát việc thực hiện các thể chế, chế độ, chính
sách, các chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội................25


1.2.6. Nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các thể chế, chế độ,
chính sách, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ... 26 TIỂU
KẾT CHƢƠNG 1.........................................................................................27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN
CHƢƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY................................29
2.1. Thực trạng việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở
huyện Chương Mỹ hiện nay............................................................................29
2.1.1. Vài nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội địa bàn huyện Chương
Mỹ - Hà Nội.....................................................................................................29
2.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ
hiện nay...........................................................................................................35
2.1.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương
Mỹ hiện nay.....................................................................................................40
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay...................................... 53
2.2.1. Cần rà soát, đánh giá và kiện toàn đội ngũ cán bộ cấp cơ sở........................53
2.2.2. Xây dựng tiêu chuẩn rõ ràng trong quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,
quản lý.............................................................................................................54
2.2.3. Có chính sách bồi dưỡng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chế độ, tiền lương
phù hợp với từng vùng, tạo động lực cho cán bộ quản lý...............................56
2.2.4. Cần đổi mới lề lối, tác phong làm việc............................................................59

2.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp trên (tỉnh,
huyện) đồng thời đổi mới công tác đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản


63

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.............................................................................. 69
KẾT LUẬN.................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................75


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Sự nghiệp cách mạng trong giai
đoạn mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thích ứng với yêu cầu và nhiệm vụ
mới, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; trong đó, cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở ở các địa phương có tầm quan trọng đặc biệt, mang tính
chiến lược để vươn tới những thắng lợi mới trong giai đoạn hiện nay.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhận thức rõ tầm quan
trọng của công tác cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản.
V.I.Lênin khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào” [60, tr.473]. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đánh
giá rất cao vai trò của công tác cán bộ. Theo Người, “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”
[27, tr.10]. Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán.
Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đức làm cốt cán. Đó là đạo
đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ

đại là giải phóng con người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho
con người” [23, tr.XXVII].
Thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng, có phẩm chất,
năng lực thực tiễn và bản lĩnh chính trị vững vàng, gắn bó máu thịt với nhân
dân, đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đặt ra góp phần to lớn vào những thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.

7


Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta chủ trương tiếp
tục xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, trong đó có đội ngũ
lãnh đạo cấp cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề và quan trọng mà sự
nghiệp cách mạng đặt ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá: “Trong thời gian qua, hệ thống chính
trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản
lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng… Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được
đào tạo, bồi dưỡng, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá” [5, tr.166].
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thực hiện trực tiếp
và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì
vậy, việc quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở xã, phường,
thị trấn có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết
sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Xuất phát từ vị trí quan trọng của cơ sở xã, phường, thị trấn, Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 17NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt
động hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”. Sau khi Nghị quyết ra đời,
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định về chức danh, số lượng, một

số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
Trước yêu cầu ngày càng cao trong lãnh đạo, quản lý, điều hành quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội, quản
lý đô thị, xây dựng nông thôn mới… Ở cấp xã hiện nay, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã tại nhiều địa phương còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém cả về số
lượng và chất lượng. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở trở thành nhiệm vụ mang tính cấp bách và có tầm quan
trọng đặc biệt.


Chương Mỹ là một huyện thuộc Thành phố Hà Nội. Trong những năm
qua, huyện đã có sự phát triển vượt bậc về các mặt của đời sống kinh tế, xã
hội; trong đó, có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
cấp cơ sở. Tuy nhiên. đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay,
bên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém, chưa
phát huy được vai trò trong tổ chức và khai thác được những tiềm năng, thế
mạnh của vùng để phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, chưa đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy những giá trị tiên tiến của văn
hóa dân tộc và đấu tranh chống những tư tưởng lạc hậu, xây dựng đời sống
văn hóa mới… Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa tập hợp được đại đa
số những cá nhân ưu tú của cộng đồng người dân trong huyện tham gia, thiếu
quy hoạch mang tính chiến lược. Hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Chương
Mỹ hoạt động còn lúng túng, kém hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cơ sở ở huyện Chương Mỹ đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn
mới nổi lên như một đòi hỏi khách quan và có tính cấp thiết.
Với những lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị học.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác cán bộ nói chung và vấn đề năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói riêng đã được nhiều học giả quan tâm. Đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước về vấn đề này được công bố, có thể kể đến như:
V.I.Lênin (1974),“Vấn đề cán bộ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội”, NXB Sự thật, Hà Nội. Công trình này, đã giới thiệu một số ý kiến của
Lê nin và Stalin về vấn đề cán bộ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và đề bạt
cán bộ, tiêu chuẩn của từng loại cán bộ.


Nguyễn Phú Trọng (2001),“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này đã phân tích và
khẳng định rằng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công
nghiệp hóa – hiện đại hóa là một yêu cầu cấp bách trong công cuộc đổi mới
toàn diện và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả
cũng đưa ra những luận cứ tiêu biểu trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ.
Trong cuốn“Tư tưởng Hồ Chính Minh về cán bộ và công tác cán bộ”,
NXB Lao động, Hà Nội, năm 2002, tác giả Bùi Đình Phong đã phân tích quan
điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công chức và giải pháp để nâng cao
năng lực phục vụ nhân dân đối với mỗi người cán bộ công chức trong thời kỳ
mới.
Đỗ Nguyên Phương (2005),“Mẫu hình và con đường hình thành cán
bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cơ sở”, NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Trong công trình này, tác giả đã phân tích những lý luận và thực tiễn về mẫu
hình của một người cán bộ chân chính, đồng thời chỉ ra con đường để trở
thành một lãnh đạo chính trị chủ chốt.
Luận văn Thạc sĩ của Phan Văn Hai (1997) về đề tài “Nâng cao năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở”; trong đó, tác

giả đã phân tích những yêu cầu cấp bách của việc nâng cao năng lực công tác
cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, từ đó đề xuất những giải pháp để giúp đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở có thể nâng cao năng lực chuyên môn cũng như trình độ
chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công tác tại cơ sở.
Mai Đức Ngọc (2002),“Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã vùng Đồng bằng Bắc bộ ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đã phân tích sự cần thiết phải nâng cao
năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã vùng Đồng bằng Bắc
bộ nước ta hiện nay, đồng thời đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo của đội
ngũ này, trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp để nâng cao năng lực của đội
ngũ lãnh đạo hiện nay.


Nguyễn Minh Châu (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp xã ở Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay”, Luận văn
Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đã phân tích cơ sở lý luận
của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, khái quát thực trạng năng
lực đội ngũ cán bộ cấp xã vùng Đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ này.
Trương Tiến Hưng (2004), “Luật tục Chăm và sự vận dụng trong quản
lý nhà nước của chính quyền cấp xã ở Ninh Thuận”, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền. Trong đó, tác giả đã phân tích, làm rõ những
tiền đề lý luận của việc quản lý nhà nước, khái quát tục Chăm ở đây, qua đó
khái quát vấn đề quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã thuộc tỉnh Ninh
Thuận; trên cơ sở đó xuất một số quan điểm áp dụng luật tục Chăm vào quản
lý nhà nước ở cấp xã ở tỉnh Ninh Thuận.
Bùi Khắc Hằng (2004),“Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với
việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Thanh Hóa hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Công trình đã đưa ra cơ sở lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ,

đồng thời khát quát thực trạng công tác cán bộ ở cấp cơ sở của tỉnh Thanh
Hóa, từ đó luận giải một số giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào việc xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
Nguyễn Danh Tuyên (2017), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán
bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở thành phố Tuy Hòa hiện nay”. Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Luận văn được chia thành 3
phần: Phần thứ nhất, tác giả đã phân tích lý luận về cán bộ và công tác cán bộ
của Hồ Chí Minh; phần thứ 2, tác giả đưa ra thực trạng công tác cán bộ ở
huyện Tuy Hòa hiện nay; phần thứ 3, tác giả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Tuy Hòa.


Ngoài ra, còn có nhiều bài báo của các nhà nghiên cứu đăng trên các
báo, tạp chí khoa học về vấn đề cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị.
Qua phân tích kết quả nghiên cứu của các công trình trên cho thấy,
chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện
nay” một cách toàn diện, sâu sắc, hệ thống dưới góc độ chính trị học. Vì vậy,
trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu đã được công bố, cùng với
những tìm tòi, điều tra, nghiên cứu, tác giả luận văn hy vọng có thể trình bày,
phân tích và luận giải vấn đề này một cách có hệ thống, sáng rõ hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn này
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở, đồng thời phân tích thực trạng nâng cao
năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà
Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn huyện trong giai đoạn hiện

nay.
Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán
bộ cấp cơ sở ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở
ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội trong thời gian qua.
- Luận giải một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội dưới góc độ chính
trị học.


4.2. Về phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo,
quản lý cho cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn huyện Chương Mỹ, gồm Bí thư
Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ
tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Bí thư Đoàn thanh niên xã và trong khoảng
thời gian từ năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nâng cao năng
lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở. Đồng thời, luận văn có kế
thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình đi trước có liên quan đến
đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các phương

pháp nghiên cứu cụ thể khác, như phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử
và logic, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh… để giải
quyết những nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Qua kết quả nghiên cứu, dưới góc độ chính trị học, đề tài góp phần
phác thảo bức tranh khái quát về thực trạng và những vấn đề đang đặt ra đối
với yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ
thống chính trị cơ sở trên địa bàn huyện Chương Mỹ.
Trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn khoa học, luận văn góp
phần đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo,
quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội trong giai đoạn
mới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề
tài được kết cấu thành 2 chương và 4 tiết.


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo, quản
lý cho cán bộ cấp cơ sở
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, quản
lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
1.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở: Khái niệm, vai
trò và tính tất yếu
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng, “cán bộ là những

người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho quần chúng
hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình người dân báo cáo cho Đảng và
Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng ”; “vì vậy cán bộ là cái gốc của
mọi việc” [27, tr.309]. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình,
Người luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người nói: Việc đào
tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là rất quan trọng, rất cần thiết và “Đảng
phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu,
phải trọng nhân tài,trọng cán bộ, trọng những người có ích cho công việc
chung của chúng ta” [27, tr.32].
Khái niệm cán bộ cấp cơ sở:
Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy định về cán bộ như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động
như sản xuất, công tác, v.v. của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các
bộ phận lãnh đạo cấp trên.


Theo Khoản 3 điều 4 Luật Cán bộ công chức quy định: Cán bộ cấp cơ
sở (xã, phường, thị trấn) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
Khái niệm năng lực:
Nói tới năng lực là nói tới phẩm chất đạo đức, trí nhớ, tính nhạy cảm, trí
tuệ, tính cách… của mỗi cá nhân con người (năng lực con người). Năng lực là
một từ ngữ rất trừu tượng, khó định lượng và có rất nhiều quan điểm khác

nhau:
- Theo Từ điển tiếng Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học, 2000) [50, tr.639], “Năng lực được hiểu là khả năng
điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có; phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho
con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao”.
- Trong cuốn thuật ngữ hành chính (Hà Nội, 2002, Viện Nghiên cứu hành chính)
[57, tr.118] định nghĩa “Năng lực là khả năng về thể chất và trí tuệ của cá nhân
con người, hoặc khả năng của một tập thể có tổ chức tự tạo lập và thực hiện
được các hành vi xử sự của mình trong các quan hệ xã hội nhằm thực hiện
được mục tiêu, nhiệm vụ do mình đề ra hoặc do nhà nước hay chủ thể khác với
kết quả tốt nhất”.
- Theo Từ điển Tâm lý học, Viện Tâm lý học, năm 2007 [49], “Năng lực là tập
hợp các tính chất, hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò làm điều
kiện bên trong, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt nội dung hoạt
động nhất định. Người có năng lực là người đạt được hiệu suất hoạt động
cao trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau”.
Xét dưới góc độ pháp lý: năng lực của một chủ thể có thể bao gồm nhiều
yếu tố, nhưng trong đó có hai yếu tố chủ yếu đó là năng lực hành vi và năng
lực pháp luật.
Khái niệm năng lực lãnh đạo, quản lý:
Theo Từ điển tiếng Việt, “lãnh đạo” là ra chủ trương và tổ chức động


viên thực hiện, “quản lý” là tổ chức điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu
đã đề ra. Như vậy, khái niệm “năng lực lãnh đạo, quản lý” được hiểu là khả
năng khái quát, đánh giá thực tiễn để đưa ra những chủ trương, đường lối và
hiện thực hóa chủ trương, đường lối đó trong cuộc sống trên cơ sở có sự
thống nhất, tập trung theo nguyên tắc thực tiễn.
Năng lực lãnh đạo, quản lý cũng phản ánh phẩm chất của người cán bộ,

đặc biệt là cán bộ giữ vị trí lãnh đạo. Người có phẩm chất này sẽ tạo ra động
lực cho sự lãnh đạo, từ đó tạo ra bước tiến về kinh tế, văn hóa, xã hội ở cấp cơ
sở. Ngược lại, nếu lãnh đạo không có phẩm chất này thì khó có thể tổ chức
thực hiện, đưa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam ở thời kỳ đổi mới.
Về mặt bản chất, “lãnh đạo” và “quản lý” là những nội dung có quan hệ
mật thiết, tác động lẫn nhau, đan xen nhau. Xét về mặt nội dung, tính chất thì
giữa hai khái niệm này có điểm gần giống nhau nên người ta thường sử dụng
cụm từ chung là “lãnh đạo, quản lý”. Vì thế, hoạt động lãnh đạo cũng đồng
thời thực hiện chức năng quản lý và hoạt động quản lý cũng đồng thời thực
hiện chức năng lãnh đạo. Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không
hoàn toàn đồng nhất với nhau. Trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là
định hướng cho khách thể thông qua hệ thống cơ chế, đường lối chủ trương
chính sách làm thức tính hành vi của đối tượng, định hướng hoạt động của đối
tượng và xã hội. Còn hoạt động quản lý mang tính điều khiển, vận hành thông
qua những thiết chế có tính pháp lệnh được quy định từ trước.
Phẩm chất và năng lực không thể tách rời trong một chủ thể lãnh đạo.
Phẩm chất làm nền tảng cho năng lực phát triển; năng lực lại thể hiện phẩm
chất khi nó căn cứ trên các phẩm chất và năng lực, đặc biệt là những phẩm
chất và năng lực biểu hiện thành những kết quả có giá trị và cống hiến lớn của
người lãnh đạo cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đẩy nhanh quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.


Để đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ người cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phải có các phẩm chất cần
thiết sau:
Thứ nhất, có tầm nhìn xa trông rộng, có trình độ và khả năng phù hợp
với bản chất của xã hội công nghiệp – xã hội hiện đại.
Thứ hai, có nhân cách lãnh đạo phù hợp với bản chất xã hội công

nghiệp – xã hội hiện đại phát triển theo hướng nhân văn: Xu hướng và mục
tiêu chính trị là phát triển và tiến bộ xã hội – con người.
Thứ ba, có tư duy khoa học, phương pháp tư duy duy vật biện chứng,
phù hợp với tính chất công nghiệp, lối sống hiện đại, biểu hiện trong năng lực
tư duy sắc bén nhanh nhạy, uyển chuyển, sáng tạo.
Thứ tư, có tư chất đặc thù của người lãnh đạo, như vững vàng về chính
trị và tư tưởng, phát triển sâu sắc và phong phú thế giới nội tâm; yếu tố lý trí
và yếu tố tình cảm hài hòa.
Thứ năm, có tri thức và kinh nghiệm phát triển tương ứng với tính chất
công việc được giao: tri thức tổng hợp và chuyên sâu.
Thứ sáu, có trình độ cao, kể cả hiểu biết về nền khoa học – công nghệ
hiện đại, cũng như thao tác về kỹ thuật vi tính, viễn thông...
Thứ bảy, có khả năng tập hợp mọi người và quy tụ họ xung quanh
mình, tổ chức, huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực
hiện tối ưu mục tiêu chung.
Thứ tám, có khả năng tiên đoán, dự báo các khả năng có thể xảy ra
trong hiện thực và tương lai, đồng thời dự phòng các khả năng giải quyết,
thực hiện chúng trong những điều kiện ngặt nghèo nhất.
Thứ chín, có khả năng sáng tạo, phá vỡ cái định hình, vượt qua cái cũ,
tìm tòi, khám phá, phát hiện và đề xuất cái mới có ích cho nhân dân, có giá trị
cho xã hội.
Thứ mười, có khả năng quyết đoán, táo bạo, đồng thời lại chắc chắn
trong việc đưa ra những quyết định cũng như trong chỉ đạo hành động.


Khái niệm cán bộ lãnh đạo:
Khái niệm cán bộ lãnh đạo được hiểu theo hai thành phần sau:
Thứ nhất, cán bộ lãnh đạo được hiểu là những ai giữ chức vụ và trách
nhiệm cao trong một tổ chức có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức,
của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của cả bộ

máy. Ví dụ: Các uỷ viên ban chấp hành, ban thường vụ, trưởng, phó các cơ
quan, đơn vị .
Cán bộ lãnh đạo chính là những người đứng đầu, có chức vụ cao nhất
trong một tập thể, có quyền ra quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và
quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những
nhiệm vụ của tập thể, tổ chức ấy; thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ
hoạt động của tổ chức và của cả hệ thống chính trị.
Cán bộ quản lý là những người điều hành, có chức năng và nhiệm vụ
điều khiển, tổ chức và phối hợp thực hiện hoạt động chuyên môn trong một
khâu, một công đoạn, một chương trình dự án.
Xét cho cùng, hoạt động quản lý là sự tiếp nối của hoạt động lãnh đạo,
là khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo. Sự phân biệt này chỉ là tương đối
nhưng rất cần thiết đối với công tác cán bộ, làm cơ sở cho việc xác định tiêu
chuẩn, chức năng của cán bộ lãnh đạo, bộ máy lãnh đạo với tiêu chuẩn, chức
năng của người cán bộ quản lý, bộ máy quản lý; tránh sự trùng lặp, chồng
chéo giữa các cơ quan lãnh đạo và quản lý.
Thứ hai, cán bộ lãnh đạo là những người đứng đầu tổ chức, quốc gia.
Họ là nhóm người lãnh đạo ở tầm vĩ mô. Trong xã hội hiện đại, những người
như vậy được gọi là nhóm lãnh đạo chính trị quốc gia, hay còn gọi là cán bộ
lãnh đạo cao cấp, chủ chốt. Nhìn lại lịch sử ở bất kỳ thời đại nào cũng thấy sự
thể hiện vai trò của người lãnh đạo trong việc quyết định vận mệnh quốc gia,
dân tộc theo hai hướng: Khi tích cực, vai trò ấy là sự định hướng đúng, thúc
đẩy xã hội tiến bộ, dân tộc có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, huy động và quy


tụ được những người có tài đức trong xã hội để chấn hưng, đổi mới đất nước.
Khi tiêu cực vai trò ấy là kìm hãm, đẩy lùi tiến bộ xã hội, gây nên tình
trạng trì trệ, khủng hoảng. Thực tiễn nước ta cho thấy bước vào thời kỳ,
giai đoạn phát triển mới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trên cơ sở có sự phân loại, phân định chức danh của các nhóm cán bộ và

công chức; phải xây dựng tiêu chuẩn, quy chế hoạt động cho từng loại, từ
đó có sự đổi mới về chính sách tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
đãi ngộ và quản lý phù hợp.
Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở:
Cán bộ lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng là người giữ chức vụ và trách
nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức, bộ máy; có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của
bộ máy.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý là người có chức năng lãnh đạo, quản lý, được
giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo, quản lý để
điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm
trước tập thể và cấp trên về nhiệm vụ được giao trên cương vị ở một cấp và
các lĩnh vực khác nhau mà họ đảm nhiệm; là người đứng đầu một cơ quan,
tập thể giữ vị trí quan trọng trong việc hoạch định chiến lược, xác định mục
tiêu, phương hướng, đề ra các quyết định, chủ trương chính sách và tổ chức
động viên thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra ở cấp mình và những nhiệm vụ
cấp trên giao phó.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là những người đứng đầu, có chức
vụ quan trọng nhất thuộc ban lãnh đạo của các cơ quan Đảng, chính quyền và
các cơ quan chuyên trách ở cấp cơ sở (còn gọi là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở).
Theo đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bao gồm:
- Bí thư, phó bí thư Đảng uỷ cấp xã; Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân
dân.


- Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân.
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc.
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta cơ cấu tổ chức của hệ thống
chính trị chia làm 4 cấp: Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong sự phân cấp hành

chính, là nơi nhân dân cư trú, sinh sống, gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ
kinh tế, dòng tộc và văn hóa. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp sản xuất vật chất, là
nền tảng vật chất cơ bản của xã hội, là nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy
cao độ nội lực của quần chúng nhân dân.
Khái niệm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý:
Năng lực lãnh đạo, quản lý là tổng hợp những phẩm chất, trình độ,
kinh nghiệm thực tiễn và khả năng đáp ứng yêu cầu hoạt động lãnh đạo của
cán bộ cấp cơ sở. Điều này được thể hiện tiêu biểu nhất ở năng lực lãnh
đạo của cấp uỷ đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý chính là khả năng quán triệt sâu
sắc và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của địa phương mình
quản lý để đề ra các chủ trương, phương hướng đúng, có biện pháp tổ chức
thực hiện tốt các nhiệm vụ ở cơ sở mình quản lý; tuyên truyền, vận động, giáo
dục để lôi cuốn quần chúng thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời kiểm tra việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ công dân của quần chúng trong khu vực nhằm thúc đẩy sản xuất,
tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân; chấn chỉnh và cải tiến
sinh hoạt Đảng, thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên.
1.1.2. Vai trò của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở
Thứ nhất, về vai trò, vị trí cán bộ.
Xã là đơn vị cấp hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ thống quản


lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng thấp nhất
không đồng nghĩa với ít quan trọng nhất.
Do vậy, xây dựng cán bộ cấp xã là nhiệm vụ rất quan trọng. Có thể
đánh giá vị trí, vai trò của cán bộ cấp xã trên một số khía cạnh sau:
- Cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống kinh tế

- xã hội ở cơ sở.
- Cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ chức thực
hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và mọi chủ
trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng như mọi
chương trình, kế hoạch của chính quyền xã.
- Cán bộ xã là cầu nối quan trọng nhất giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Cán bộ xã giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc đẩy phong trào
cách mạng của quần chúng ở cơ sở.
Thứ hai, về vai trò, vị trí công tác cán bộ xã.
Công tác cán bộ là một bộ phận trong công tác xây dựng Đảng, là công
tác Đảng liên quan chặt chẽ với việc xác định đường lối, chủ trương, chính
sách và nhiệm vụ chính trị, với việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, cơ chế và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ thống chính trị.
Hiểu một cách tổng quát, xây dựng cán bộ cấp xã là toàn bộ hoạt động
của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm bồi dưỡng, phát
triển cán bộ xã đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập trường chính trị
vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở. Đồng
thời còn bao hàm cả việc nâng cao chất lượng cán bộ xã hiện có để thích ứng
với cơ chế mới, yêu cầu mới của nhiệm vụ chính trị đang đặt ra.
Chủ thể xây dựng cán bộ cấp xã bao gồm các Huyện uỷ, Thị uỷ, trong
đó trước hết là Ban Thường vụ Huyện uỷ, Thị uỷ và những người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp huyện; tổ chức cơ sở đảng xã, mà


trực tiếp là Ban Thường vụ Đảng uỷ xã, phường, thị trấn, và người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cấp xã.
Công tác xây dựng cán bộ xã nhằm phát hiện, tìm ra những con người
thật sự có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và năng lực đủ sức gánh
vác những trọng trách của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Công tác
đó bao gồm: Việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách về cán bộ và

công tác cán bộ của Đảng; xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ và đội ngũ cán
bộ, những tiêu chí nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện đồng bộ các
khâu trong công tác cán bộ, như quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ và
thực hiện chính sách cán bộ.
Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cán bộ cơ sở là sự biểu
hiện vai trò lãnh đạo của Đảng và khả năng, sức mạnh của tổ chức đảng ở cấp
cơ sở.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được biểu hiện trước hết
ở trình độ giác ngộ cao, bản lĩnh chính trị vững vàng của các tổ chức cơ sở
đảng ở địa phương trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội. Khả
năng khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái, những hạn chế, khuyết
điểm của bản thân tổ chức cơ sở đảng và chính quyền xã. Điều đó được thể
hiện ở việc ủng hộ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, sự nghiệp đổi
mới đất nước; thể hiện ở sự đoàn kết, kỷ luật nghiêm và chấp hành nghiêm
các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; thể hiện ở tính tiên phong gương mẫu,
ý chí quyết tâm của cán bộ, đảng viên – đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thực
hiện nhiệm vụ trước những biến động tình hình ở địa phương.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều được tổ chức thực
hiện ở cơ sở. Mặt khác, mọi chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng cũng
đều được hình thành và kiểm nghiệm từ cơ sở. Chính vì vậy, cán bộ lãnh đạo,


quản lý cấp cơ sở ảnh hưởng trực tiếp tới mọi quyết sách của Đảng ta, đây
cũng là nơi đánh giá quyết sách của Đảng có hiệu quả hay không hiệu quả,
hợp lý hay bất hợp lý; đồng thời, cấp cơ sở cũng là nơi nhân dân thể hiện
quyền và trách nhiệm giám sát của mình đối với bộ máy lãnh đạo, quản lý cấp
xã. Để thể hiện rõ hơn vai trò và vị thế của Đảng, của nhân dân trong hoạt
động quản lý Nhà nước thì đòi hỏi cán bộ cấp cơ sở phải có đủ tầm để thực
hiện sứ mệnh này.

Thứ tư, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là người gắn bó trực tiếp với
cơ sở, với nhân dân; hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở đều ảnh
hưởng lớn đến uy tín của Đảng, Nhà nước, đến lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là những người trực tiếp tiếp xúc
với quần chúng nhân dân và bà con nông dân. Đa số họ là những người sinh
ra, lớn lên và trưởng thành từ cơ sở, từ chính quê hương mình. Do vậy, họ là
những người hiểu quần chúng nhân dân, hiểu tâm tư, nguyện vọng cũng như
những thuận lợi, khó khăn của quần chúng nhân dân; hiểu phong tục, tập
quán, đặc điểm văn hóa trên địa bàn mà họ phụ trách, họ gắn bó với cơ sở.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở không chỉ gần gũi, tiếp xúc với dân trong
giờ hành chính, trong thời gian làm việc ở văn phòng mà còn trong các buổi
sinh hoạt ở địa bàn, ngoài giờ hành chính. Họ làm nhiệm vụ của mình thông
qua các biện pháp hành chính, đồng thời còn phải trực tiếp làm công tác vận
động quần chúng, tạo nên tinh thần đoàn kết nhất trí trong nhân dân, bảo vệ
những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục tập quán lâu đời của địa
phương mình.
Hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bị chi phối bởi cả
quan hệ gia đình, dòng tộc, phong tục, tập quán của địa phương đến việc
chung của xã hội. Họ đóng nhiều vai trò khác nhau trong giao tiếp, ứng xử để
điều hòa hoạt động. Chẳng hạn, họ đóng vai trò hòa giải trong mối quan hệ


giữa các công dân, làm chứng cho các quan hệ có tính chất công dân giữa
nhân dân lao động với nhau và giữa công dân với nhà nước. Họ là người giải
quyết những tranh chấp dân sự lần đầu trên địa bàn, là chỗ dựa tin cậy của
nhân dân cũng như của các cơ quan quản lý khác trong việc xác định tư cách,
xác định thân nhân của các đối tượng khác nhau ở địa phương.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
cơ sở là nền tảng vững chắc đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

của cách mạng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên xứng đáng là “người
lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [31, tr.XII]. Năng lực
lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp cơ sở thể hiện khả năng lãnh đạo, dựa trên
yếu tố nội sinh, từ sự phấn đấu của bản thân chính quyền trong công tác để
thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo. Điều này chính là khả năng của cán bộ cấp cơ
sở trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo nhằm đạt
được kết quả cao trong thực tiễn. Năng lực đó được phản ánh thông qua việc
ra quyết định, tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp trên, kiểm tra, giám sát và
sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của các tổ chức cơ sở đảng.
1.1.3. Tính tất yếu của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp
cơ sở hiện nay
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý đối với cán bộ cấp cơ sở
để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Nâng cao năng lực quản lý, lãnh đạo cho cán bộ nói chung và cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng
được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang hội
nhập sâu rộng với thế giới với những thuận lợi và vô vàn thách thức đan xen,
thì việc nâng cao năng lực quản lý, lãnh đạo của cán bộ cấp cơ sở là nhiệm vụ
vô cùng cần thiết.
Để hoàn thành vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, cán bộ cấp cơ sở
phải có năng lực lãnh đạo, quản lý. Năng lực lãnh đạo là khả năng lãnh đạo,


×