Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

QUAN NIỆM của IMMANUEL KANT về cái đẹp TRONG tác PHẨM “PHÊ PHÁN NĂNG lực PHÁN đoán”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.96 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VIẾT NGHỊ

QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT VỀ CÁI ĐẸP TRONG
TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN”

Ngành: Triết học
Mã số: 8 22 90 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thu Nghĩa

Hà Nội, năm 2018


MỤC LỤC


75

Kết luận chương 2

KẾT LUẬN................................................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỹ học - với tư cách là một bộ phận của triết học, trong đó cái đẹp vừa là phạm
trù mỹ học cơ bản, vừa là phạm trù mỹ học trung tâm; những cuộc thảo luận về cái đẹp
đã có gốc rễ xa xưa trong lịch sử tư tưởng phương Tây, nhưng tất cả các quan niệm đều
chưa đi đến một quan điểm thống nhất do xuất phát từ những cơ sở triết học khác nhau
về cái đẹp. Việc tìm ra bản chất của cái đẹp có một ý nghĩa quan trọng trong việc
nghiên cứu các quy luật khác của đời sống thẩm mỹ. Cái đẹp như là một thước đo hoạt
động của con người và cũng là cái chuẩn để chỉ ra phẩm giá của con người. C.Mác đã
viết: “Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu giống loài của nó, còn
con người thì có thể áp dụng thước đo thích dụng cho mọi đối tượng, do đó con người
cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp. Nhờ quá trình lao động cải tạo tự
nhiên và cải tạo bản thân, con người dần dần phát triển và nhận thức ra quy luật phổ
biến cái đẹp” [26, 17]. Cái đẹp xuất hiện ở mọi quan hệ thẩm mỹ của con người: quan
hệ với tự nhiên, với xã hội và đặc biệt là trong nghệ thuật. Cái đẹp làm cho cuộc sống
của con người thêm sinh động, đa dạng và phong phú. Chính vì vậy, chúng ta cần xây
dựng một hệ thống lý luận các giá trị về thẩm mỹ mà đặc biệt về cái đẹp nhằm định
hướng cái đẹp, sáng tạo ra cái đẹp mới nhằm phục vụ đời sống tinh thần nhân dân,
hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong sáng.
Immanuel Kant - người mở đầu nền triết học cổ điển Đức với quan điểm duy
tâm chủ quan đã đưa ra một góc nhìn mới về mỹ học. Nghiên cứu quan niệm của Kant
về cái đẹp chúng ta mới thực sự bừng tỉnh trước sự đa dạng, phong phú của nó. Cái đẹp
không thể bị gò ép, rập khuôn máy móc như quan niệm trước đây mà hơn hết cần phải
giải thoát cho cái đẹp, vì chính sự tự do của cái đẹp mới giúp con người giải thoát lối tư
duy khuôn mẫu và tự do sáng tạo nghệ thuật, làm phong phú thêm đời sống tinh thần
của con người.
Với những đóng góp của mình, Kant được đánh giá là một trong những nhà triết
học vĩ đại nhất của lịch sử triết học trước Mác. Quá trình nghiên cứu của Kant có thể
4



chia ra hai thời kỳ; thời kỳ tiền phê phán và thời kỳ phê phán. Trong thời kỳ tiền phê
phán, vấn đề được Kant nghiên cứu nhiều là tự nhiên, còn thời kỳ phê phán, Kant cố
gắng xây dựng một hệ thống triết học để tìm lời giải đáp cho ba câu hỏi lớn: Tôi có thể
tri thức được gì? Tôi cần phải làm gì? Và tôi có thể hy vọng gì? Câu hỏi đầu tiên được
ông giải đáp trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý năm 1781. Câu hỏi thứ hai được
ông diễn giải trong Phê phán lý tính thực tiễn năm 1788. Với câu hỏi thứ ba liên quan
đến các quan điểm mỹ học của ông được đề cập đến trong Phê phán năng lực phán
đoán năm 1790.
Tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán” của I. Kant nghiên cứu mỹ học và
cái đẹp từ học thuyết tự nhận thức, mở ra một cách tiếp cận mới trong lịch sử mỹ học.
Các tư tưởng mỹ học và cái đẹp trong tác phẩm này đã được nhiều nhà mỹ học trên thế
giới phân tích sâu sắc. Ở Việt Nam, các tư tưởng mỹ học và cái đẹp trong tác phẩm này
đã được biên soạn trong nhiều giáo trình mỹ học trình độ đại học và sau đại học, cũng
như có rất nhiều các công trình khoa học nghiên cứu. Các tác giả khi nghiên cứu về tác
phẩm này đã có những kiến giải, nhận thức khác nhau về các quan điểm, giá trị và các
đánh giá của Kant về cái đẹp tự nhận thức. Song, tất cả những nghiên cứu đó đều khẳng
định được những đóng góp to lớn của mỹ học nói chung, tư tưởng về cái đẹp nói riêng
của Kant đối với lịch sử mỹ học nhân loại. Với mong muốn góp một cách tiếp cận và
nhận thức mới về cái đẹp của Kant trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán, tôi đã
chọn vấn đề này làm đối tượng nghiên cứu của mình trong luận văn này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Triết học Kant nói chung và mỹ học Kant nói riêng đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này có nhiều đóng góp to lớn trong việc nghiên
cứu tư tưởng triết học và mỹ học của I. Kant.
Ở nước ta, đã có nhiều tác giả đi vào nghiên cứu triết học I. Kant. Về phương
diện lịch sử, người đề cập đến triết học I. Kant sớm nhất là GS. Trần Đức Thảo trong
tác phẩm: “Lịch sử tư tưởng trước Marx”. Trong đó, GS. Trần Đức Thảo đã trình bày


5


các luận điểm của phép biện chứng theo cấu trúc tác phẩm “Phê phán lý tính thuần
túy ”. Đây là những đánh giá đúng đắn và khách quan đối với triết học I. Kant. Tuy
nhiên, những đánh giá của ông còn sơ lược, chưa đi sâu vào một vấn đề cụ thể.
Năm 1962, Nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội) đã cho dịch cuốn “Giáo trình lịch sử
triết học - Giai đoạn triết học cổ điển Đức” do Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm
khoa học Liên Xô biên soạn. Bản dịch đã đem đến cho độc giả những nét khái lược về
triết học cổ điển Đức, trong đó triết học I. Kant chiếm một vị trí quan trọng.
Trần Thái Đỉnh trong cuốn “Triết học I. Kant” đã nêu lên một cách khá toàn
diện các vấn đề triết học I. Kant. Riêng đối với triết học lý luận, tác giả cũng đưa ra
những luận giải khá sâu sắc. Ông cho rằng khi phê phán lý tính thuần túy, I. Kant không
nhằm phá hủy siêu hình học mà trái lại cố gắng xây dựng một siêu hình học mới. Tác
giả dành khá nhiều tâm huyết trình bày các nhận thức triết học I. Kant. Đây là một công
trình khá đầy đủ và phong phú về triết học I. Kant.
Trong cuốn “Triết học Immanuen Kant” của tác giả Nguyễn Văn Huyên Nxb
Khoa học xã hội xuất bản năm 1996, , tác giả đã trình bày những nét tổng quát về triết
học nhận thức và triết học thực tiễn của I. Kant.
Năm 1997, Viện Triết học đã biên soạn và xuất bản cuốn sách: “I. Kant - người
sáng lập nền triết học cổ điển Đức ”. Cuốn sách tập hợp bài viết của các tác giả
nghiên cứu về lĩnh vực khác nhau của triết học I. Kant. Công trình này đề cập đến toàn
bộ triết học I. Kant cả thời tiền phê phán và phê phán, nhưng đi sâu vào phần phê phán
hơn. Trong triết học phê phán của I. Kant, các tác giả nghiên cứu trên cả ba mảng nhận
thức, đạo đức và thẩm mỹ.
Trong cuốn “Triết học cổ điển Đức”, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006, tác giả Lê
Công Sự trên cơ sở phân tích những quan niệm về các phạm trù mỹ học của Kant đã đi
đến kết luận: Mỹ học Kant chứa đựng nội dung nhân bản sâu sắc và chủ nghĩa nhân đạo
cao cả. Kant không nghiên cứu cái đẹp một cách độc lập tách khỏi chủ thể nhận thức
mà gắn cái đẹp với hoạt động đạo đức của con người. Ông đã khẳng định sức mạnh tinh


6


thần của con người như một cái cao cả nhất trong những cái cao cả hiện có. Con người
đồng thời là những giá trị đẹp nhất trong những giá trị hiện có. Thông qua phép phân
tích các phạm trù cơ bản của mỹ học, Kant đã tiến gần tới phép biện chứng về mối quan
hệ giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan trong những khái niệm thẩm mỹ. Lý
luận về hoạt động nghệ thuật của Kant là phần đóng góp đáng kể trong mỹ học của ông.
Bằng lý luận đó, ông đã đề cao năng lực sáng tạo đặc biệt của con người nói chung, văn
nghệ sĩ nói riêng. Nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo của sáng tạo, khả năng sáng tạo nghệ
thuật chỉ có ở con người có lý tính...
Trong cuốn “Lịch sử triết học”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998 do
Nguyễn Hữu Vui chủ biên có viết: Hoạt động nghệ thuật là một trong những lĩnh vực
cơ bản để con người gắn liền lý luận và thực tiễn. Ở đây, con người chủ yếu sử dụng
khả năng cảm thụ và đánh giá sự vật. Nghệ thuật là hoạt động tự do của con người theo
chuẩn mực của cái đẹp. Vì vậy, phạm trù trung tâm của thẩm mỹ học là cái đẹp. Kant
không quan tâm xem xét vấn đề có tồn tại cái 5 đẹp khách quan trong tự nhiên hay
không, mà chỉ nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa con người với tư cách chủ thể hoạt động
với các sự vật tự nhiên, nhất là với những thành quả hoạt động của con người.
Từ điển Triết học I. Kant (A I. Kant Dictionary) của Howard Caygill. Không chỉ
những khái niệm đơn thuần như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Đức... mà cả những khái niệm
khó hiểu của I. Kant như: tiên nghiệm, hậu nghiệm, siêu nghiệm, võng luận,... đều được
tác giả Howard Caygill lý giải một cách công phu và đặt trong lịch sử hình thành phát
triển của nó. Chính điều này giúp những người nghiên cứu về triết học I. Kant tiếp cận
với tư tưởng của ông dễ dàng hơn.
Đặc biệt là bộ ba tác phẩm phê phán của I. Kant, đó là “Phê phán lý tính thuần túy”
(1781), “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và “Phê phán năng lực phán đoán” (1790),
nhưng tập trung chủ yếu vào tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán” đã được dịch giả
Bùi Văn Nam Sơn dịch ra tiếng Việt, do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2007.


7


Như vậy, việc nghiên cứu về triết học I. Kant luôn thu hút sự chú ý của nhiều học
giả. Các công trình nghiên cứu trên đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu
tư tưởng mỹ học của I. Kant. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó phần lớn chỉ dừng lại ở
mức độ khái quát, nghiên cứu những nội dung cơ bản của mỹ học và được trình bày
trong các giáo trình triết học lịch sử, lịch sử mỹ học nói chung hoặc trong các tập bài
giảng dùng cho sinh viên chuyên ngành mỹ học nói riêng mà chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về mỹ học. Trong quá trình thực hiện luận văn này, tác giả đã có
những tiếp thu, kế thừa những thành tựu của những công trình nghiên cứu trên. Trên cơ
sở đó, tác giả muốn tìm hiểu sâu hơn vấn đề những giá trị tư tưởng mỹ học cơ bản của
I. Kant, đặc biệt là tư tưởng của ông về phạm trù phán đoán thẩm mỹ, cái đẹp và bản
chất của nghệ thuật.. được trình bày trong tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán ’’
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những tư tưởng về cái đẹp của I. Kant trong tác phẩm "Phê
phán năng lực phán đoán", luận văn khẳng định những giá trị tư tưởng về cái đẹp trong
tác phẩm nhằm kế thừa, phát huy những yếu tố hợp lý góp phần xây dựng cơ sở lý luận
cũng như phát huy khả năng sáng tạo ra cái đẹp của con người.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên nhiệm vụ của luận văn sẽ là:
Thứ nhất, khái quát quá trình hình thành tác phẩm “Phê phán năng lực phán

đoán ".
Thứ hai, phân tích những nội dung cơ bản về cái đẹp trong tác phẩm “Phê phán
năng lực phán đoán ’’ của Kant.
Thứ ba, đưa ra những nhận xét, đánh giá quan niệm về cái đẹp trong tác phẩm
“Phê phán năng lực phán đoán ".
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

8


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan niệm của Kant về cái đẹp được trình
bày trong tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán ".
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Tác giả đi sâu nghiên cứu về cái đẹp theo quan niệm của Kant. Để hoàn thành
luận văn tác giả tiến hành nghiên cứu bộ ba tác phẩm phê phán của I. Kant, đó là “Phê
phán lý tính thuần túy " (1781), “Phê phán lý tính thực tiễn " (1788) và “Phê phán
năng lực phán đoán " (1790), nhưng tập trung chủ yếu vào tác phẩm “Phê phán năng
lực phán đoán " (1790), đã được dịch giả Bùi Văn Nam Sơn dịch ra tiếng Việt, do Nhà
xuất bản Văn học xuất bản vào năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời, luận văn dựa trên những
nghiên cứu của các nhà kinh điển Mác - Lênin về lịch sử triết học nói chung, về triết
học I. Kant nói riêng; các sách, bài nghiên cứu của các tác giả về triết học cổ điển Đức,

triết học I. Kant như những chỉ dẫn quý báu về mặt phương pháp luận.
Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh, phân tích tổng hợp, kết
hợp giữa lôgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.

Ý nghĩa lý luận của đề tài

Luận văn góp phần làm rõ quan điểm về cái đẹp trong mỹ học I. Kant.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học
viên, người nghiên cứu về mỹ học, nghệ thuật, triết học I. Kant. Luận văn cũng có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và nghiên cứu mỹ học nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương 4 tiết.

9


Chương 1
IMMANUEL KANT VỚI TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN”
1.1.

Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa và những tiền đề cho sự hình

thành triết học I. Kant

1.1.1.

Điều kiện kinh tế

Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nước Đức vẫn còn là một quốc gia
phong kiến điển hình, lạc hậu cả về kinh tế và chính trị. Việc tiếp tục tăng cường quyền
lực duy trì chế độ quân chủ của triều đình vua Phổ Phriđrich Vin Hem đã cản trở đất
nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, khiến cho công nghiệp, thủ công
nghiệp, nông nghiệp bị hạn chế, khiến người dân Đức cảm thấy bất bình trước tình cảnh
đất nước thời bấy giờ. Nhiều sử gia đánh giá, nước Đức thế kỷ XVIII là một trong
những nước lạc hậu bậc nhất châu Âu, cuộc chiến tranh Ba mươi năm (1618 - 1648) với
nước láng giềng đã làm tiêu hao sinh lực của nó. Suốt thời gian dài nước Đức nằm
trong tình trạng trì trệ, bảo thủ, bị chia năm xẻ bảy bởi nạn cát cứ. Bộ máy nhà nước
của chế độ quân chủ tỏ ra hà khắc, nhưng kém năng động và hết sức quan liêu, đàn áp
tư tưởng tự do và dân chủ. Xét theo mức độ cách mạng thì Đức lạc hậu hơn so với Anh
200 năm, so với Pháp 50 năm. Đó là sự cách biệt quá lớn. Song quy luật phát triển của
tri thức triết học cho thấy rằng chính khi trong đời sống xã hội và sinh hoạt tinh thần
nảy sinh những tình huống có vấn đề, đòi hỏi phải giải quyết, thì khi ấy, tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể, vào khả năng chủ quan của tư duy con người, truyền thống văn hóa,
mà xuất hiện hàng loạt phương án khác nhau nhằm giải quyết chúng. Nước Đức nửa
sau thế lỷ XVIII hội đủ các đặc điểm ấy. Hơn nữa giai cấp tư sản Đức sinh sau đẻ muộn
đã biết tiếp thu kinh nghiệm của các dân tộc đi trước, kết thừa có chọn lọc và phát triển
chúng trong điều kiện của mình, bất chấp tình trạng trì trệ của hiện thực vật chất. Tính
vượt trước của tri thức, tư tưởng chính là ở đây. Vậy là trên bản đồ Tây Âu lúc đó xuất
hiện ba cường quốc với ba thế mạnh khác nhau: nước Anh với ưu thế vượt trội về kinh


tế, nước Pháp được xem là diễn đàn các tư tưởng và phong trào chính trị, nước Đức với
cuộc cách mạng trong lĩnh vực lý trí.
Nói về thời kì lịch sử đó, Ăngghen đã nói như sau: không một ai cảm thấy mình

dễ chịu. Thủ công nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp trong nước đều bị
giảm đến mức thấp nhất. Nông dân, người làm nghề thủ công, chủ xưởng chịu hai tầng
đau khổ vì chính sách ăn bám và vì tình hình làm ăn khó khăn. Giai cấp quý tộc và các
ông hoàng thấy rằng mặc dù chúng đã bóp nặn đến cùng những thần dân của chúng
nhưng số thu của chúng khó mà đua kịp số chi ngày càng tăng lên. Mọi việc đều bi đát
và cả nước đều công phẫn. Không có giáo dục, không có những phương tiện tác động
đến ý thức quần chúng, không có tự do báo chí, không có dư luận xã hội, không có cả
đến sự buôn bán nhỏ nào tới các nước khác. Không có gì cả ngoài sự đê tiện và ích kỉ.
Tinh thần ham lợi thấp kém, hèn hạ thảm hại thấm nhuần trong toàn dân. Tất cả đều hư
nát, lung lay sắp sửa đổ và cũng không thể hy vọng được một sự thay đổi tốt, vì rằng
trong dân tộc không có một lực lượng nào đủ sức để có thể dọn đi được cái tử thi đã rữa
của cái chế độ đã lỗi thời ấy [20, 561 - 562].
Về kinh tế, giai cấp tư sản Đức chủ trương ưu tiên phát triển ngành thương mại,
thủ công nghiệp và trong sản xuất theo lối công trường thủ công (những xí nghiệp lớn
tư bản chủ nghĩa) ở Đức hầu như chưa có vào nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX) bắt
buộc phải phục vụ cho bọn phong kiến đang thống trị ở Đức lúc bấy giờ. Trong khi thị
trường bên trong phát triển còn rất yếu, và việc buôn bán trên thị trường còn rất hạn chế
thì khách hàng chủ yếu là tầng lớp thống trị và số đông quan lại, giai cấp tư sản trong
mỗi nhà nước Đức nhỏ ấy đã bị ràng buộc vào những khách hàng ấy. Nền kinh tế chủ
yếu ở trình độ thủ công lạc hậu, những di tích của chế độ nông nô, phường hội, chuyên
chế phản động đều là những lực cản kìm hãm sự phát triển lên tư bản chủ nghĩa của
Đức. Ngoài ra, nước Đức còn chịu sự tác động của những mối liên hệ từ bên ngoài làm
cho nước Đức không có điều kiện để phát triển thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa
trong lòng chế độ phong kiến và làm cho nước Đức rơi vào tình trạng cực kỳ bi đát về
kinh tế chính trị - xã hội.


1.1.2.

Điều kiện chính trị - xã hội


Những chuyển biến về kinh tế dẫn đến sự thay đổi về phân bố lực lượng giai cấp
trong xã hội. Giai cấp quý tộc phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị trong bộ máy nhà
nước và ngoan cố tăng cường quyền lực của chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến.
Do đó, tình trạng đất nước bị chia cắt với quyền lực vô hạn của các tiểu vương quốc là
một trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Do sự chuyển biến về kinh tế và chính trị, những mâu thuẫn cơ bản của xã hội
Đức ngày càng bộc lộ rõ. Bước vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản với chế độ quân chủ chuyên chế và mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân cùng đông đảo quần chúng nhân dân lao động với giai cấp quý tộc phong kiến
càng trở nên sâu sắc. Điều đó phản ánh mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tư bản chủ
nghĩa ngày càng phát triển với quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu đang kìm hãm sức
sản xuất.
Rõ ràng khi phân tích xã hội tư bản có thể thấy rằng trong thực tiễn lẫn nhận
thức phương pháp biện chứng thâm nhập khắp nơi, thể hiện tính chất của thời đại mới
năng động và phát triển. Phép biện chứng của triết học cổ điển Đức, theo nghĩa này, là
sự kế thừa, hệ thống hóa, cụ thể hóa, làm sâu sắc thêm tinh thần biện chứng của thời
đại. Nó là tinh thần của thời đại được trình bày bởi phong cách Đức. Vì thế, bên cạnh
những nét tiêu biểu, độc đáo, sáng tạo, phụ thuộc vào năng lực chủ quan của những
người sáng tạo ra tri thức, vào điều kiện của gia đình, xã hội ở những chặng đường nhất
định, sự hình thành phong cách tư duy Đức không thoát khỏi quy luật phổ biến, chi
phối diện mạo sinh hoạt tinh thần chung.
Hiện thực của nước Đức và bối cảnh của thời đại in đậm dấu ấn của mình trong
cuộc hành trình tư tưởng của các nhà triết học, làm nổi bật mâu thuẫn giữa hệ thống và
phương pháp, thậm chí giữa các thời kỳ khác nhau ở cùng một nhà triết học. Có thể lấy
Kant, Fichte, Schelling và Hegel làm sáng tỏ mâu thuẫn khó vượt qua này : phương
pháp biện chứng tồn tại trong hệ thống duy tâm, tư tưởng tiến bộ, cách mạng đan xen
với các yếu tố bảo thủ; hoặc sự xung đột giữa hai thời kỳ (thời kỳ “tiền phê phán” và



thời kỳ “phê phán” ở Kant, thời kỳ Jena và thời kỳ Berlin ở Fichte, thời trẻ và thời đứng
tuổi ở Schelling...).
Điểm qua những nét chính về bối cảnh lịch sử của sự ra đời triết học cổ điển
Đức có thể xác định tiền đề thực tiễn của nó là cách mạng Pháp và hiện thực nước Đức
nửa sau thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XIX. Cách mạng Pháp, sự hiện thực hóa lý tưởng
của các nhà khai sáng, tác động tích cực đến định hướng dân chủ, nhân văn trong triết
học cổ điển Đức, khơi dậy tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ nghĩa giáo điều
và bảo thủ cả trong khoa học lẫn trong chính trị. C. Mác xem triết học Kant là lý luận
Đức của cách mạng Pháp [17,131] Hiện thực nước Đức được thể hiện ở hệ thống triết
học Kant, Fichte, Schelling, Hegel, Feuerbach bằng tính hai mặt của nó. Một mặt triết
học cổ điển Đức phản ánh khát vọng chiến thắng của lý trí trước cái phi lý, nỗ lực vượt
qua sự ngưng đọng của đời sống hiện thực; mặt khác, các nhà triết học Đức, từ Kant
đến Hegel, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Đức, chịu sự quy định của hiện thực đó,
buộc phải chấp nhận những giới hạn của tự do; sự tuân phục các chuẩn mực phổ biến
đã trở thành “mệnh lệnh tuyệt đối”, sức mạnh cưỡng chế mang ý nghĩa của tính tất yếu
không cưỡng được; những câu hỏi được nêu ra chưa hẳn tìm thấy lời giải đáp thỏa
đáng, mặc dù, nói như Kant, đó chỉ là lời giải đáp hình thức. Mâu thuẫn của triết học cổ
điển Đức cũng chình là mâu thuẫn của thực tại được tái hiện lại trong các hệ thống lý
luận.
Những va chạm mang tính chất giai cấp gay gắt ở đêm trước cách mạng đã thể
hiện trong triết học dưới dạng mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực, giữa “cái hợp lý”
và “cái phi lý”. Sau khi hoàn thành cách mạng, giai cấp tư sản lại giảng hòa với thực
tiễn, bởi vì bây giờ thực tiễn đã trở thành “cái hợp lý”. Mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện
thực đều mạnh như nhau cả ở Đức lẫn ở Pháp. Ở Đức tính chất lạc hậu về kinh tế và
chính trị khiến cho mâu thuẫn này khó được giải quyết triệt để. Cách mạng ở Đức chỉ
diễn ra thành công trong lĩnh vực lý trí, vì bản thân thực tiễn chưa đủ chín muồi để làm
bùng nổ cách mạng như đã từng thấy tại Anh và Pháp. Xuất phát từ tình trạng xã hội
ngưng đọng, triết học và nghệ thuật Đức hướng về hoặc nước Pháp cách mạng, hoặc



quá khứ để làm sống lại các giá trị thời vàng son. Kant, Fichte, Hegel, Goethe,
Schiller... đã từng ngợi ca cách mạng Pháp, xem nó như sự trỗi dậy của bình minh, biểu
tượng của tự do, đánh dấu sự khởi sắc của thời đại mới. Voltaire và Rousseau được tôn
vinh thành những hiệp sỹ của công lý. Tuy nhiên, nước Pháp giai đoạn chuyên chế cách
mạng, tức giai đoạn Jacobin, đã làm cho các nhà triết học và các nhà thơ Đức hoảng sợ.
Họ liên tưởng đến nước Đức tương lai tắm trong máu và nước mắt qua những cuộc tàn
sát và bạo loạn. Bây giờ, trong suy tư của họ hình ảnh quá khứ thay thế cho tương lai,
đóng vai trò của sức mạnh an ủi và dẫn dắt. Mâu thuẫn là ở chỗ một mặt các triết gia
Đức thừa nhận tiến trình lịch sử là không thể đảo ngược, mặt khác họ không thể chấp
nhận cái giá quá đắt cho tự do và dân chủ. Sự yếu đuối và dao động là đặc trưng chính
trị của những người thị dân Đức, nó thể hiện khá rõ nét trong hệ thống duy tâm Đức,
điển hình là Hegel, phần nào trong yếu tố bất khả tri của triết học Kant, trong “tồn tại
tuyệt đối” của Fichte thời kỳ B e r l i n . .
1.1.3.

Điều kiện văn hóa

Về mặt văn hóa, có thể nói các cuộc cách mạng xã hội thế kỉ XVII - XVIII mở
đường cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ. Hầu hết các đại biểu của nó như I.
Kant, Hegel . đều xuất thân từ những tầng lớp thượng lưu trong xã hội.
Đức vốn là quốc gia có truyền thống văn hóa phát triển cao. Đất nước này đã
sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học nổi tiếng thế giới. Chính
trong thời kì này đã xuất hiện những thiên tài lỗi lạc. Nền văn hóa Đức một mặt đã tiếp
thu đầy đủ các di sản quý báu của nền văn hóa Đức truyền thống. Mặt khác, nền văn
hóa ấy còn chịu sự tác động của văn hóa thời kì Phục hưng và tư tưởng Khai sáng ở
Châu Âu thế kỉ XVIII.
Những nhà khai sáng đánh giá cao tiếng nói mỗi dân tộc Đức và chỉ trích tập
quán thời Trung cổ, bắt buộc rằng những tư tưởng khoa học và triết học phải được trình
bày bằng tiếng Latinh. Làm cho số đông nhân dân không hiểu được. Họ công kích thần
học, chống lại triết học kinh viện và bênh vực cho sự suy nghĩ độc lập như các nhà khai

sáng Pháp. Dù không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa vô thần, nhưng trong


hoàn cảnh của nước Đức lạc hậu như thế thì sự phê phán của họ đối với tôn giáo đã
đóng vai trò tiến bộ và góp phần làm sụp đổ hệ tư tưởng và những đặc quyền của đẳng
cấp phong kiến. Họ chống lại một cách kiên quyết những đại biểu phản động của chủ
nghĩa lãng mạn, những người đã tâng bốc thời trung cổ, tuyên truyền chủ nghĩa thần bí
và thần học. Những nhà Ánh sáng Đức đã gắn liền nghệ thuật với đời sống và cho nghệ
thuật là sự thể hiện thế giới quan nhân đạo chủ nghĩa.
J.G. Hécde (1744 - 1803) là nhà tư tưởng, nhà nghệ thuật vĩ đại của Đức. Những
tư tưởng của ông đã góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị tư tưởng cho trào lưu khai
sáng Đức. Ông là một trong những người đầu tiên đã đấu tranh cho sự hình thành và
phát triển ý thức dân tộc của nhân dân Đức, chống lại khuynh hướng tôn giáo chủ nghĩa
“chỉ ưa sùng ngoại” của giai cấp quý tộc. Chính Hécde đã nêu lên tư tưởng rất quan
trọng coi thi ca dân gian có ý nghĩa lớn lao đối với sáng tác văn học. Nguyện vong của
Hécde khi nghiên cứu lý luận nghệ thuật theo quan điểm hiện thực là nhìn thấy mối liên
hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Bên cạnh Hécde, những nhà đại diện cho các ngành văn nghệ, soạn kịch và sân
khấu như Lessing, Schiller và Goethe là niềm kiêu hãnh cho nhân dân Đức nói riêng và
nhân loại tiến bộ nói chung. Là những nhà bách khoa, các ông không chỉ thành công
trong những lĩnh vực như khoa học và triết học Đức.
Gotthold Ephraim Lessing (1729 - 1781) là nhà văn hóa lớn của dân tộc Đức.
Ông đã có công lao to lớn trong việc đấu tranh chống hệ tư tưởng phong kiến và phát
triển nền văn hóa nhân đạo nửa cuối thế kỷ XVIII. Không những vậy, ông còn công
kích những đặc quyền đẳng cấp, đã kêu gọi đấu tranh chống lại chế độ nông nô và đã
phát triển những quan điểm mỹ học tiên tiến. Cũng như mọi nhà khai sáng khác,
Lessing tuyên bố rằng quyền của con người là được hưởng đời sống vui sướng và hạnh
phúc trên trái đất. Tuy chưa đạt tới chủ nghĩa vô thần triệt để nhưng ông đã bác bỏ uy
quyền của “thánh kinh”, mạt sát giới tăng lữ, coi những cái đó là thành trì của sự dốt
nát và của chủ nghĩa ngu dân. Những tư tưởng tiến bộ ngày càng được phát triển xa hơn

nữa trong các tác phẩm của Schiller và Goethe. Theo Sécnưsepxki thì hai ông đã hoàn


thành sự nghiệp của Lessing, là những đại biểu ưu tú nhất của dân tộc Đức và của nền
văn hóa nhân loại.
Schiller (1759 - 1805) là nhà thơ, nhà soạn kịch lỗi lạc không chỉ với nước Đức
mà còn với văn học thế giới. Ông đã kiên quyết vạch mặt chế độ chuyên chế phong
kiến, những đặc quyền đẳng cấp. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Schiller đã tấn công
vào những quan niệm lạc hậu của chế độ phong kiến, đóng vai trò tiến bộ trong sự
nghiệp văn hóa nhân đạo chủ nghĩa Đức và góp phần thúc đẩy tinh thần chống phong
kiến trong các tầng lớp tiên tiến của giới tri thức Đức. Cũng như những nhà khai sáng
tư sản khác, Schiller tin tưởng sâu sắc rằng có thể hủy bỏ chế độ phong kiến nông nổ
bằng sức mạnh của lý trí và giáo dục. Trong mỹ học của ông những quan điểm siêu
hình trà trộn với những yếu tố biện chứng duy tâm.
Johann Wolfgang von Goethe (1749 -1832) được biết đến là một tên tuổi lỗi lạc
của lịch sử triết học và lịch sử văn hóa Đức. Ông là lãnh tụ của thi ca Đức và là nhà
bách khoa xuất chúng. Goethe đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ như kêu gọi mọi người
nên sống một cách tự nhiên, giản dị và nên từ bỏ những tập quán phong kiến lỗi thời.
Những quan điểm về mỹ học của ông thể hiện sự cố gắng của mình để xây dựng chủ
nghĩa hiện thực trong nghệ thuật. Goethe cũng nêu lên nhiều dự đoán có tính biện
chứng trong lĩnh vực mỹ học.
Ngoài ra những tác phẩm của Goethe về mặt khoa học tự nhiên cũng rất đặc sắc.
Những nghiên cứu của ông về thực vật học chứa đựng những dự đoán xuất sắc đối với
sự phát triển của giới thực vật. Trong khoa học giải phấu so sánh, ông đã có một phát
minh xuất sắc. Goethe khám phá ra xương giữa hai xương hàm của người. cái đó chứng
minh sự liên hệ giữa người với động vật... Goethe chống lại những nhà kinh viện và
đưa ra đề xuất phải nghiên cứu hiện thực bằng cách xuất phát từ những quy luật sẵn có
của nó. Điều này chứng tỏ ông đã đứng trên lập trường duy vật.
Bên cạnh những thành tựu về văn hóa, Tây Âu thời kì này còn đạt nhiều thành
tựu về khoa học tự nhiên. Việc phát minh ra điện, bản chất về sự sống sau sự sụp đổ của

học thuyết Phlogiston khoa học tự nhiên mặc dù vẫn chưa bác bỏ được những “vật chất


không có trọng lượng” khác như là nhiệt, ánh sáng, tiếng động nhưng đã bắt đầu tiến tới
chỗ khám phá ra được rằng: nhiệt, ánh sáng, điện nói chung là tính muôn vẻ về chất của
tự nhiên, đều là những hình thức độc đáo của sự vận động của vật chất.
Quan niệm về sự phát triển ngày càng thâm nhập vào khoa học tự nhiên. Năm
1755, I. Kant đã nêu ra giả thuyết nổi tiếng về sự phát sinh ra vũ trụ. Ăngghen cho rằng,
theo giả thuyết đó thì trái đất và hệ thống mặt trời được coi như đã xuất hiện trong thời
gian, phát minh của Kant đã khởi điểm cho sự tiến bộ sau này. Nếu trái đất đã là kết quả
của một quá trình phát triển, thì trạng thái địa chất, địa lý và khí hậu ngày nay của nó,
giới thực vật và động vật của nó cũng phải như thế và trái đất phải có lịch sử không chỉ
trong không gian dưới hình thức cái này xếp cạnh cái kia - mà còn cả trong thời gian dưới hình thức cái này sau cái khác.
1.1.4.

Tiền đề lý luận, tư tưởng

Cuộc cách mạng Pháp năm 1789 có ảnh hưởng lớn đến nước Đức, những người
Đức tiên tiến đã rất phấn khởi chào đón. Sinh viên đại học Tubingơ (trong số này có cả
Hegel) đã trồng cây Tự do. Schiller đã dịch bài Mácxâye ra tiếng Đức. Đến khi cách
mạng tư sản Pháp đưa Lui XVI lên đoạn đầu đài, dựng lên chính quyền của những
người Giacôbanh, thì những người tư sản Đức lúc đầu là những người bạn đầy nhiệt
tình của cách mạng, bây giờ lại trở thành kẻ thù tàn nhẫn của nó. Một bộ phận quan
trọng của giai cấp tư sản Đức cùng với giai cấp quý tộc rất tức giận về những sự “khủng
khiếp” của cách mạng, nghĩa là sự chuyên chính của Giacôbanh, mặc dù họ vẫn tha
thiết đến những cải cách ở trong nước họ.
Giai cấp tư sản Đức không thống nhất do nước Đức bị chia rẽ ra làm nhiều
mảnh, bản thân giai cấp tư sản là một giai cấp yếu hèn và nhút nhát. Nó muốn nước
Đức cũng áp dụng những cải cách tư sản đã được thực hiện ở bên bờ sông Ranh nhưng
lại sẵn sàng thỏa mãn ngay với những cải cách nửa vời mà những đại gia sáng suốt nhất

của tầng lớp quý tộc đã bắt đầu thi hành trong nước Đức.
Những nhà lý luận của giai cấp tư sản Đức vẫn đặt hy vọng của họ vào sự tiến
triển tự phát của các biến cố và sáng kiến của “những tầng lớp trên” trong xã hội. Điều


đó đẩy tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thống nhất nước Đức một cách
khách quan. Nhưng lý luận Đức của cách mạng Pháp lại khác quan điểm của những nhà
khai sáng Pháp bởi vì: Những triết gia Đức khi phản ánh quá trình phát triển của cách
mạng Pháp trong quan điểm của họ, lại coi rằng những kết quả chính trị thực tiễn và
luật pháp mà cuộc cách mạng 1789 - 1794 đã giành được, về căn bản không thực hiện
được ở Đức. Ví dụ như trong triết học Kant thì nền cộng hòa chỉ là một định đề của lí
tính thực tiễn, chỉ là một nghĩa vụ mà những người có thiện chí phải noi theo, nhưng
trên thực tế thì nền cộng hòa lại là lý tưởng không thể đạt được. Cách giải thích cuộc
cách mạng tư sản Pháp như vậy đã phản ánh một sự yếu ớt thực sự về kinh tế và chính
trị của nước Đức, đã phản ánh sự phát triển độc đáo của giai cấp đó.
Không chỉ những quan điểm chính trị xã hội mà cả những quan điểm triết học
của các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII cũng đã khác về căn
bản với những quan điểm xã hội chính trị và về căn bản với những nhà lý luận của giai
cấp tư sản cách mạng Pháp. Nếu như những quan điểm của những nhà khai sáng Pháp
hồi thế kỷ XVIII thường dẫn tới sự hủy bỏ chế độ cũ bằng con đường cách mạng thì
những nhà lý luận tư sản Đức hồi cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX lại đặt lí tưởng của
họ vào chỗ hòa giải giữa chế độ cũ với chế độ mới bằng con đường cải lương.
Các nhà khai sáng Pháp và triết học duy tâm Đức về căn bản thừa nhận phải có
những cải cách xã hội nhưng phương pháp thực hiện của họ lại hoàn toàn khác nhau.
Những nhà duy vật Pháp tin tưởng sâu sắc rằng, nếu không có sự can thiệp một cách có
ý thức vào quá trình lịch sử thì trật tự xã hội mới không thể thắng lợi được. Tất cả hi
vọng của họ đều đặt vào sự cải tổ lại xã hội về mặt chính trị cho phù hợp với những
“yêu cầu của lí trí và của bản chất con người”. Còn những nhà tư tưởng khai sáng Đức
thế kỉ XVIII thì lại đặt hi vọng của họ vào sự phát triển “tự nhiên” của đời sống xã hội
bằng cách mạng. Thái độ phản đối dùng con đường cách mạng để cải cách nước Đức

theo lối tư sản là một trong những đặc điểm chủ yếu của những quan điểm xã hội và
cách mạng thủ cựu của những nhà triết học tư sản Đức.


Vào thời kì hoạt động cuối cùng của những nhà tư tưởng Đức (Schelling, Hegel)
khi mà họ trở thành kẻ thù của lí tưởng cách mạng Pháp thì trong những quan điểm xã
hội chính trị phản động của họ, đã bộc lộ rõ rệt rằng: những nhà tư tưởng bảo thủ của
giai cấp tư sản hèn nhát Đức đã phục tùng lợi ích và tâm trạng của bọn địa chủ quý tộc
phản động. Do giai cấp tư sản Đức yếu hèn, không đủ năng lực nắm chính quyền, nên
những nhà lý luận của giai cấp này không những nhà duy vật Pháp mà là những nhà
duy tâm sáng tạo ra hệ thống triết học rất trừu tượng, thuần túy, tách khỏi đời sống hiện
thực, phủ nhận con đường cách mạng cải tạo hiện thực. địa vị hèn kém về kinh tế và
chính trị của giai cấp tư sản, sự sợ hãi của họ trước những cuộc đấu tranh cách mạng
kiên quyết chống chế độ phong kiến... tất cả những biểu hiện trên được phản ánh trong
hệ thống triết học duy tâm của Kant, Fichte, Schelling, Hegel
Vậy đâu là tiền đề lý luận của tư tưởng Triết học Đức nửa cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỉ XIX. Một lần nữa có thể nhận thấy dấu ấn của triết học Khai sáng và chủ nghĩa
duy vật Pháp thế kỷ XVIII, những gợi mở khoa học ngay trong phương pháp tư duy
siêu hình thế kỷ XVII - XVIII ở Anh, Pháp, Đức. Nói như thế có mâu thuẫn không?
Hoàn toàn không. Phương pháp tư duy của Siêu hình học thời trước có ý nghĩa cách
mạng to lớn trong cuộc đấu tranh chống triết học kinh viện, mở rộng hơn nữa con
đường hướng tới chân lý, khẳng định quyền lực của con người. Nếu không có phương
pháp tư duy siêu hình như điều kiện cho sự hình thành phương pháp mới, thay thế nó,
thì cũng không thể nói đến quy luật kế thừa, phát triển tri thức, cũng như những bài học
do quá khứ để lại cho các thế hệ nhân loại. Sự kết thúc phương pháp tư duy siêu hình
cũng là sự bắt đầu của phương pháp biện chứng. Triết học cổ điển Đức thực hiện sự
tổng kết lịch sử về triết học thời trước, và, trên nền chung của những chuyển biến tất
yếu trong đời sống xã hội và lĩnh vực nhận thức, nó đưa ra phương pháp tư duy mới
phù hợp hơn. Tương tự như vậy đối với chủ nghĩa duy vật, mà Feuerbach là hiện tượng
điển hình. Chủ nghĩa duy tâm Đức thì kế thừa, cải biến, phát triển những tư tưởng nền

tảng của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XVIII, mà Hume, Leibniz và
Wolff xứng đáng được gọi là những bậc tiền bối trực tiếp. Nếu ở các nhà duy tâm Đức


có đủ hai biểu hiện phổ biến của nó là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan, thì
chủ nghĩa duy vật Feuerbach lại kết hợp với thuyết nhân bản, lấy con người làm điểm
xuất phát và nền tảng, nhằm khắc phục phần nào tính chất phiến diện trong lý luận về
con người của thế kỷ trước. Hegel đưa chủ nghĩa duy tâm lên trình độ chủ nghĩa duy
tâm tuyệt đối, còn Feuerbach lại lấy tự nhiên và con người - sản phẩm hoàn thiện nhất
của nó - làm đối tượng chủ yếu, loại bỏ Thượng đế ra khỏi sự quan tâm triết học.
Có thể nói, tư tưởng Triết học Đức nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX là sự kế
tục và phát triển tất yếu của những trào lưu tư tưởng triết học tiên tiến của thế kỉ XVII XVIII. Những nhà tiền bối về mặt lịch sử của triết học Đức là những nhà tư tưởng lỗi
lạc như nhà triết học toán học Pháp, Decartes, nhà duy vật Hà Lan Spinoza, nhà triết
học và khoa học Đức Leibniz, những nhà khai sáng Đức cuối thế kỉ XVIII như Fichte,
Schelling, Goethe...
1.2. Khái quát chung về tác giả, tác phẩm
1.2.1. Khái quát chung về tác giả
Tất cả những yếu tố khách quan nêu trên đều tác động đến mọi người như nhau,
nhưng tại sao chỉ có I. Kant mới hình thành tư tưởng về chủ thể nhận thức theo một
cách riêng của ông. Chúng ta cần phải xét đến nhân tố chủ quan ở đây, đó chính là: trí
tuệ uyên bác của I. Kant và cuộc đời bình lặng nhưng ẩn chứa nhiều khác biệt của ông.
Immanuel Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 trong một gia đình trung lưu gốc
Scottland tại Königsberg - một thành phố nhỏ thuộc vùng đông bắc nước Phổ (nay là
Kaleningrad thuộc Nga), là con trưởng của gia đình 11 người con. Thành phố bến cảng
Königsberg thời kỳ này khá phát triển về thương mại, buôn bán, thông thương cho nên
Kant có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Thành phố hẻo lánh này
không chỉ là kinh đô của Đông Phổ mà còn là trung tâm của trí thức và khu vực nói
tiếng Đức (lớn hơn cả Béclin). Một thành phố như vậy, có thể được xem là một nơi
thuận tiện để mở rộng kiến thức về con người cũng như về thế giới mà không cần phải
viễn du. Điều này lý giải vì sao I. Kant suốt đời không rời khỏi thành phố quê hương

nhưng ông lại có hiểu biết sâu sắc về thế giới và con người.


Immanuel Kant chịu ảnh hưởng lớn từ người mẹ giàu tình cảm. Mẹ của ông đã
ảnh hưởng sâu đậm trên sự phát triển thời niên thiếu của ông, Mẹ của Kant là một
người Thanh giáo Đức, những người theo giáo phái này có sự nghiêm ngặt, kỷ luật chặt
chẽ trong đức tin và sự hành đạo. I. Kant có tuổi thơ đắm chìm trong tôn giáo từ sáng
đến tối, bởi thế suốt cuộc đời ông giữ đến cùng ấn tượng u buồn của người Thanh giáo
Đức; mặt khác ánh sáng của thời đại đã mách bảo ông cần rũ bỏ những điều cuồng tín
mê muội của tôn giáo. Có lẽ vì vậy trong I. Kant có sự mâu thuẫn, ông suốt đời đã ghi
tạc đức tin do mẹ truyền dạy nhưng lại tránh xa giáo đường suốt cuộc đời trai trẻ của
mình. Sau này trong học thuyết của ông cũng chứa đựng nhiều yếu tố rất đặc biệt, thậm
chí là mâu thuẫn. Ông khẳng định lý tính thuần túy không thể chứng minh được chúa
tồn tại hay không tồn tại, nên chúa không thể can dự vào những kết luận khoa học.
Song I. Kant lại đưa thượng đế vào các quan hệ đạo đức, thượng đế trở thành một tiên
đề đạo đức, khẳng định chính đức tin chứ không phải trí tuệ mới chứng minh được chúa
tồn tại hay không. Có thể nói tính cách và cuộc đời đặc biệt của ông đã tạo nên những
nét đặc thù độc đáo trong triết học của ông nói chung và quan niệm về chủ thể nhận
thức của ông nói riêng. Ban đầu bố mẹ muốn ông trở thành mục sư nên đã gửi I. Kant
vào trường trung học Latinh. Song như một định mệnh, lòng say mê khoa học tự nhiên
và triết học đã làm cho I. Kant quyết định chuyển hướng sang các môn học.
Sau khi tốt nghiệp trung học vào mùa thu năm 1740, I. Kant vào khoa triết học
trường Đại học Tổng hợp Königsberg. Tại đây, Kant có cơ hội được làm quen với cơ
học, thiên văn học, toán học của các nhà khoa học nổi tiếng đương thời như Newton,
Descartes, Leibniz, Wolf và tư tưởng chính trị xã hội của các nhà khai sáng Pháp như
Voltaire, Montesquieu, Rousseau. Năm 1745, I. Kant tốt nghiệp đại học vào loại xuất
sắc với luận văn “Những suy nghĩ về sự đánh giá đúng đắn của lực sống”. Trong luận
văn này, lần đầu tiên tinh thần phê bình của Kant được bộc lộ vì nhiệm vụ của ông đặt
ra trong luận văn là phản bác lại hai nhà tư tưởng nổi tiếng lúc bấy giờ là Leibniz và
Descartes. Với tư tưởng tự do, không bị phụ thuộc vào quyền uy, xem lý trí của mình là

năng lực phán đoán chắc chắn nhất, Kant đã trình bày nguyên tắc sống của mình: Đối


với chúng ta, điều đáng quý nhất không phải là đi theo lối mòn đã có, mà phải biết đi
theo con đường mà loài người cần đi[31,24]. Quả thực cả cuộc đời ông đã hành động
theo nguyên tắc đó. Sau khi tốt nghiệp đại học, I. Kant đã làm gia sư trong các gia đình
quý tộc gần 10 năm. Đây cũng là thời gian quý báu để Kant tích lũy tri thức cho sự
nghiệp khoa học sau này. Năm 1755, sau 10 năm chuẩn bị, I. Kant bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ với đề tài “Cách nhìn mới về các nguyên tắc của tri thức siêu hình ”,
nhờ đó ông nhận được danh hiệu phó giáo sư của trường đại học tổng hợp Königsberg.
Trong 10 năm, hai lần ông xin làm giáo sư thực thụ đều bị từ chối. Vị phó giáo sư vẫn
phải kiếm sống bằng cách làm phụ việc cho thư viện Hoàng gia Königsberg trong vòng
15 năm với số lương ít ỏi. Mãi tới năm 1770 khi đã 46 tuổi I. Kant mới được bổ nhiệm
làm giáo sư lôgic siêu hình học của trường Đại học Tổng hợp Königsberg. Ở đây trong
gần 30 năm, với lòng hăng say, đức tính cần mẫn và tư chất thông minh của mình, ông
đã giảng dạy nhiều môn khoa học khác nhau và viết nhiều tác phẩm triết học cơ bản.
Ông luôn cố gắng tìm hiểu những điểm yếu của đối thủ để có thể phản bác lại trong quá
trình tranh luận, đồng thời phát triển các quan điểm riêng của mình. Trong giảng dạy,
ông cũng hướng dẫn sinh viên theo lối tư duy tự do, chính vì vậy, các bài giảng của ông
thường rất hấp dẫn đối với sinh viên, gợi mở cho họ nhiều ý tưởng mới. Thời bấy giờ,
các giảng viên tại các trường đại học vẫn thường lấy các kiến thức trong sách giáo khoa
để giảng cho sinh viên. Còn Kant chỉ coi sách giáo khoa như là sự gợi mở. Trong các
bài giảng của mình, Kant tìm cách khơi gợi để sinh viên thấy rõ được tư tưởng của ông
qua những khái niệm ấy và tự rút ra kết luận.
Năm 1789, ở Pháp diễn ra cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Là người chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ tư tưởng khai sáng Pháp, I. Kant tỏ ý đồng tình với cuộc cách mạng
này. Để tránh đụng chạm đến chính quyền nhà nước Phổ, trong các bài viết I. Kant giữ
thái độ ôn hòa, song sự bất đồng là không thể tránh khỏi. Trong sự nghiệp khoa học, I.
Kant là người gặt hái được nhiều thành công: năm 1786 ông được bầu làm viện sỹ Viện
Hàn lâm khoa học Hoàng gia Phổ tại Béclin; năm 1794 ông trở thành viện sỹ danh dự

Viện Hàn lâm khoa học Sanh Pêtécbua; năm 1798 hai Viện Hàn lâm Italia và Pari đều


bầu ông làm viện sỹ của viện mình. Sự nghiệp vẻ vang như vậy nhưng trong đời sống
hàng ngày ông là người bình dị, trầm lặng, có lối sống ngăn nắp, điều độ, suốt đời
không ra khỏi thành phố quê hương. Đặc biệt với nữ giới ông hết sức e dè, không dám
quyết đoán vì thế để lỡ nhiều cơ hội lập gia đình để cuối cùng phải sống độc thân. Ông
qua đời trong tư thế đang làm việc ở tuổi 80, vào ngày 12/2/1804. Cuộc đời ấy tự lập,
nhiều vinh quang đến muộn và sống một mình đã ít nhiều ảnh hưởng đến quan niệm
của ông về chủ thể nhận thức.
Sự nghiệp của I.Kant
Immanuel Kant là người sáng lập triết học cổ điển Đức. Cùng với Lessing, ông
cũng đồng thời là người xác lập phương pháp tư duy mới trong văn hóa châu Âu. Các
nhà nghiên cứu phân biệt hai thời kỳ trong hành trình tư tưởng của Kant thành thời kỳ
“tiền phê phán” và thời kỳ “phê phán”. Tên gọi hai thời kỳ này xuất hiện khi Kant thực
hiện cuộc cải tổ triết học của mình vào những năm 70 của thế kỷ XVIII. Cuộc cải tổ
này được tiến hành với mục đích xem xét khả năng tri thức của con người, chống lại
chủ nghĩa giáo điều lẫn chủ nghĩa hoài nghi vô căn cứ, mở rộng có tập trung các vấn đề
triết học trên cơ sở phát huy ưu thế của “lý trí thực tiễn”. Do vậy, thời kỳ trước cải tổ
triết học được gọi là “trước phê phán”, “tiền phê phán” bắt đầu từ năm 1746 đến năm
1769. Thời kỳ phê phán bắt đầu từ những năm 70 đến khi Kant mất.
Thời kỳ tiền phê phán
Trong thời kỳ tiền phê phán, I. Kant chú ý nhiều đến những vấn đề thuộc khoa
học tự nhiên. Tác phẩm “Ý tưởng về việc đánh giá đúng các hoạt lực ” năm 1747 được
coi là mốc đánh dấu thời kỳ này. Những công trình nghiên cứu tự nhiên, vũ trụ đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành phép biện chứng. Từ các chất liệu tư tưởng của
khoa học tự nhiên thực nghiệm, Kant nhận thức nhu cầu tất yếu giải phóng triết học
khỏi lớp vỏ tư biện và chủ nghĩa giáo điều.
Trong thời kỳ này, thế giới quan của ông được thấm nhuần ở một mức độ đáng
kể những yếu tố của chủ nghĩa duy vật tự phát và biện chứng. I. Kant chịu ảnh hưởng

của các quan điểm duy tâm thần bí của triết học Leibniz, Wolf và quan niệm duy vật


siêu hình của Newton, Descartes. Sau này ông đi đến xây dựng thế giới quan độc lập
của mình. Vì vậy, bên cạnh nhiều quan niệm duy tâm thần bí về cơ bản Kant thể hiện
như một nhà duy vật khoa học tự nhiên.
Về phương diện thế giới quan, triết học I. Kant thời kỳ tiền phê phán được xây
dựng trên luận điểm nổi tiếng: Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới từ nó,
nghĩa là hãy cho tôi vật chất tôi sẽ chỉ cho bạn thấy thế giới được sinh ra như thế nào. I.
Kant nhận thấy rằng cần phải giải phóng triết học khỏi cái vỏ học thuật tư biện và chủ
nghĩa giáo điều. Những luận điểm triết học cần phải được chứng minh bằng các tri thức
khoa học tự nhiên. Chính vì vậy trong tác phẩm đầu tay “Ý tưởng về việc đánh giá
đúng các hoạt lực ”, I. Kant đã dựa trên quan điểm vật lý học để giải quyết cuộc tranh
luận giữa phái Descartes và phái Leibniz về vấn đề nguồn gốc và thước đo của sự vận
động.
Descartes khi giải thích về nguồn gốc của vận động đã đồng nhất vật chất với
quảng tính. Ông không coi vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, mà coi vận động
chỉ là biểu hiện cụ thể, bên ngoài của các sự vật. Cách giải thích của ông đã rơi vào
quan điểm siêu hình về nguồn gốc của vận động. Leibniz thì cho rằng, mỗi sự vật đều
có một lực bản chất tiềm ẩn bên trong bản thân nó. Lực đó ở bên ngoài quảng tính,
thậm chí có trước quảng tính. Leibniz gọi đó là “hoạt lực”. Hoạt lực này rất đa dạng
trong tính cá thể, nhưng lại thuần nhất trong tính bản chất. Chúng sinh ra năng lượng
làm nguồn gốc của vận động. Theo dõi cuộc tranh luận đó, Kant đứng về phía Leibniz,
nhưng loại bỏ lớp vỏ duy tâm huyền bí, thay các khái niệm “lực bản chất”, “hoạt lực”
của Leibniz bằng các khái niệm cụ thể và dễ hiểu hơn như “lực tích cực”, “sự tự vận
động”. Kant viết: “Vật thể có lực của mình không phải do nguyên nhân bên ngoài làm
cho nó vận động. Vật thể vận động được là nhờ có một lực, nhưng lực đó không phải
do nguyên nhân bên ngoài, sau sự kích thích bên ngoài; lực đó xuất hiện từ bản chất của
vật thể” [15, 80]. Tuy không nhìn thấy sự khác nhau giữa quan điểm của Descartes
(thước đo số lượng vận động) và của Leibniz (thước đo động năng), song nét mới mà

Kant có được ở đây là đề xuất cách nhìn khác, theo đó triết học cần phải dựa vào tri


thức vật lý và bản chất vốn có của thế giới, chứ không phải dựa vào sự trừu tượng hóa
toán học.
Năm 1754, I. Kant bắt đầu quan tâm đến vấn đề vũ trụ luận. Câu hỏi đầu tiên
ông đặt ra là: Trái đất của chúng ta đang ở tuổi thiếu niên hay đã già? Phải chăng trái
đất đang dần bị diệt vong bởi vì tuổi già của nó. Tiếp đó trong tác phẩm “Sự ma sát của
thủy triều” ông đã giải thích mối quan hệ giữa hiện tượng thủy triều và chu kỳ của mặt
trăng.
Năm 1755, I. Kant viết tác phẩm “Lý giải mới những nguyên lý đầu tiên của
nhận thức siêu hình”. Những nguyên lý đó làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho
sự ra đời của tác phẩm “Lịch sử tự nhiên và lý thuyết bầu trời ”. Tác phẩm này được
Ăngghen đánh giá là tác phẩm thiên tài vì trái đất và tất cả hệ thống mặt trời hiện ra
như là một cái gì đã hình thành trong thời gian.
Quan điểm phát triển, dù còn chịu sự chi phối của siêu hình học cũ, đã được
Kant trình bày khá rõ ràng. Thứ nhất, theo Kant, vũ trụ hình thành theo những nguyên
nhân tự nhiên và trải qua quá trình lâu dài. Các chu kỳ phát triển trong tự nhiên được
Kant ví như hình ảnh chim đại bàng “tự đốt cháy mình, để một lần nữa xuất hiện tươi
trẻ từ đống tro tàn” [15, 218]. Thứ hai, mỗi vật thể vũ trụ không chỉ có nguồn gốc tự
nhiên, mà còn có sự kết thúc tự nhiên, nghĩa là chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng
thái khác. Kant đã biến Thái dương hệ vĩnh viễn và bất biến của Newton, với “cú hích
của Chúa” thành một quá trình lịch sử, đó là quá trình xuất hiện mặt trời và tất cả các
hành tinh từ khối tinh vân đang xoay chuyển. Ở Kant, nguyên lý phát triển trong hình
thức chưa hoàn thiện của nó đã được thể hiện, điều mà trước đó chưa đặt ra trong học
thuyết của Descartes và Newton. Thứ ba, trong tác phẩm quan trọng nhất ở thời kỳ tiền
phê phán này Kant đã phác thảo một số nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến. Theo ông, vũ trụ là một hệ thống lớn, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ; các hệ thống
nhỏ này lại bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn. Mỗi hệ thống là một thang bậc trong sự
phân cấp, giữa chúng có sự tương tác qua lại, tạo nên sự cân bằng ổn định chung của

toàn hệ thống. Nếu có sự xê dịch của một yếu tố nào đó, sẽ dẫn đến tình trạng mất cân


×