Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Nâng cao văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện thanh oai, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.18 KB, 79 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN...................................................9
1.1.

Văn hóa chính trị và văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện.....................................................................................................................9
1.2.

Tiêu chí văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện.............21

Chương 2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN Ở THANH OAI, HÀ NỘI HIỆN NAY...29
2.1.

Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa, chính trị, xã

hội và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai, Hà Nội........................29
2.2.

Thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở

Thanh Oai, Hà Nội...............................................................................................38
2.3.

Đánh giá chung về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở Thanh Oai...............................................................................................49


Chương 3. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN Ở THANH OAI, HÀ NỘI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.........................................................................................56
3.1.

Những phương hướng cơ bản nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay 56
3.2.

Những giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay....................63

KẾT LUẬN....................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CBCC

Cán bộ chủ chốt

CNH - HĐH
CNXH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Chủ nghĩa xã hội


GS

Giáo sư

Nxb

Nhà xuất bản

PGS
UBND

Phó giáo sư
Ủy ban nhân dân

VHCT

Văn hóa chính trị

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng” [9, tr.66].

Để đội ngũ cán bộ thực hiện được sứ mệnh của mình thì vai trò của văn hóa
chính trị (VHCT) là hết sức quan trọng. V.I.Lênin đã từng khẳng định “mục đích của
văn hóa chính trị, của nền giáo dục chính trị là đào tạo nên những người cán bộ chân
chính, có khả năng thắng được sự dối trá và thiên kiến, và có khả năng giúp đỡ quần
chúng lao động thắng được chế độ cũ, xây được một nhà nước không có bọn tư sản,
bọn bóc lột và bọn địa chủ” [27, tr.212 - 213]. Và suy cho cùng, trình độ VHCT của
cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ cán bộ chủ chốt
(ĐNCBCC) quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động chính trị của đất nước. Họ
là tầng lớp tạo nên sắc diện văn hóa chính trị cho bản thân và hoàn thành những
trọng trách chính trị của mình góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
bộ máy nhà nước ta.
Việc nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt là một yêu cầu
khách quan đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang chuyển sang thời
kì phát triển mới - đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở
rộng giao lưu và hợp tác với nhiều nước trên thế giới. Và khi văn hóa chính trị ngày
càng trở nên quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành bại của
công cuộc đổi mới thì hơn lúc nào hết văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt
ở cấp địa phương, cụ thể là cấp huyện phải ngày càng được quan tâm nhiều hơn và
không ngừng được bồi dưỡng, hoàn thiện. Bởi lẽ đây là những cán bộ gần dân và

1


hiểu dân nhất. Họ vừa là những tấm gương văn hoá chính trị vừa phải tuyên truyền
giáo dục để văn hoá chính trị đi sâu vào đông đảo quần chúng. Đây là một vấn đề có
tính chất chiến lược, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn hiện nay cho thấy văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở
cấp quận huyện của nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu nguyện
vọng của nhân dân cũng như yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Cá biệt ở một số nơi, một

bộ phận cán bộ còn hạn chế về trình độ văn hóa chính trị, có những nhận thức, hành
động sai trái, không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội, đi ngược lại với
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin
của nhân dân, làm nghèo đất nước. Thanh Oai là một huyện ven đô, được Hà Nội
quy hoạch là vành đai xanh của Thủ đô đã và đang có những bước phát triển mạnh
mẽ nhờ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Đây cũng là vùng đất chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống của Hà Nội nói
riêng và cả nước nói chung. Vì vậy, việc nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt huyện Thanh Oai là một yêu cầu tất yếu, đáp ứng những đòi hỏi bức
thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn
huyện, đồng thời giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa phương.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, với mục đích phát huy tối đa
những điểm tích cực cũng như khắc phục triệt để những điểm còn yếu kém trong vấn
đề văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện mà cụ thể là ở huyện
Thanh Oai, Thành phố Hà Nội, tôi chọn đề tài: “Nâng cao văn hoá chính trị của
đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội hiện nay ” làm đề
tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


Văn hóa chính trị là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu cả trên thế giới và Việt
Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây ở nước ta đã có nhiều bài báo, công trình
nghiên cứu về văn hóa chính trị trên nhiều góc độ khác nhau, cụ thể có thể kể đến
những nhóm công trình sau:
Cuốn“Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước
ta hiện nay” do Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
Trong tác phẩm này, tác giả bàn về vai trò của văn hoá chính trị trong việc nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ đồng thời đưa ra một số phương hướng bồi dưỡng VHCT
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Hồng Phong trong bài “Văn hóa chính trị Việt Nam - truyền
thống và hiện đại”., Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998 đã tập trung đi sâu vào
nghiên cứu những giá trị tiêu biểu của VHCT Việt Nam truyền thống và rút ra những
vấn đề có tính phương pháp luận của việc kế thừa các di sản VHCT quá khứ trong
quá trình đổi mới hiện nay.
Trong “Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay” do
Lâm Quốc Tuấn chủ biên, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa Hà Nội, 2006 đã
hệ thống hóa và phân tích những quan điểm, luận điểm cơ bản về văn hóa chính trị,
về tính tất yếu phải nâng cao văn hóa chính trị, cũng như phương hướng, nôi dung và
những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý Việt
Nam hiện nay.
Cuốn “Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị” của tác
giả Phạm Hồng Tung, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008 tập hợp có hệ thống 14
chuyên luận, đề cập tới những vấn đề căn bản của VHCT. Trên cơ sở của cách tiếp
cận VHCT, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một loạt vấn đề của lịch sử Việt Nam cận
đại nhằm chỉ ra những khía cạnh mới, bổ sung hoặc điều chỉnh nhận thức trước đây
về những vấn đề đó.

3


Các tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh trong
cuốn “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam ”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009 tập trung nghiên cứu bản chất, nội dung của
VHCT, tìm hiểu những nhân tố hình thành tư tưởng VHCT Việt Nam trong lịch sử
và những nét đặc sắc của nó; phân tích một số giá trị VHCT truyền thống của Việt
Nam như: Tư tưởng độc lập, tự chủ, tự cường, tinh thần dân tộc, tính cố kết cộng
đồng..

Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên còn có một số bài nghiên cứu liên
quan đến văn hóa chính trị và nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ
chốt hiện nay như:
“Văn hoá chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội dung
nghiên cứu của chính trị học, một số vấn đề khoa học chính trị”; “Văn hoá chính trị
với công tác vận động quần chúng nhân dân trong tình hình hiện nay” của tác giả
Hoàng Chí Bảo,Tạp chí Dân vận số 1, 2005, nghiên cứu văn hoá chính trị trong mối
quan hệ với chính trị học và vai trò của văn hoá chính trị trong hoạt động vận động
quần chúng ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
GS.TS Hoàng Chí Bảo khi bàn về “xây dựng văn hóa trong chính trị, quan
niệm và giải pháp thực hiện” Báo điện tử Chính Phủ.Vn ngày 08/02/2015 cho rằng
xây dựng văn hóa trong chính trị làm cho văn hóa thấm sâu vào chính trị, nhờ đó
chính trị được văn hóa hóa, định hình thành văn hóa chính trị, và nền chính trị dân
chủ - pháp quyền thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân sẽ là một nền
chính trị thấm nhuần sâu sắc bản chất khoa học-cách mạng và nhân văn.
Một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo
nước ta hiện nay của tác giả Lâm Quốc Tuấn, Tạp chí Triết học số 8, 2016 đã luận
giải một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

4


VHCT của ván bộ lãnh đạo chính trị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả Lâm Quốc
Tuấn có 6 vấn đề cần chú ý trong nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo chính trị
nước ta. Đó là: 1. Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc
nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 2. Nâng
cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nắm vững cương lĩnh,
đường lối chính trị của Đảng;3. Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn
liền với việc trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học chính trị và khoa học lãnh
đạo; 4. Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc rèn luyện

đạo đức, lối sống và phát huy tính tích cực chính trị của chủ thể chính trị này; 5.
Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc không ngừng nâng
cao trình độ văn hóa chính trị của quần chúng nhân dân lao động; 6. Nâng cao văn
hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với đổi mới công tác cán bộ của Đảng.
“Văn hóa chính trị với đạo đức người cán bộ, công chức trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Thị Thu
Hà đăng trên Website Tạp chí tổ chức Nhà nước ngày 15/4/2016 đã trình bày mối
quan hệ giữa đạo đức và văn hóa chính trị; tác động tích cực và tiêu cực của cơ chế
thị trường đến văn hóa chính trị và đưa ra các giải pháp góp phần hạn chế những tiêu
cực cửa cơ chế thị trường đến đạo đức và văn hóa chính trị của cán bộ, công chức.
Ngoài ra khi bàn về văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu là đề tài luận
văn, luận án cụ thể như:
“Văn hóa chính trị Việt Nam và vai trò của nó đối với công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay của Lê Tấn Lập, luận văn thạc sĩ, 1998.Luận văn đã tìm ra những
đặc điểm rất nổi bật của văn hóa chính trị Việt Nam cũng như đưa ra những định
hướng nhằm khắc phục những mặt hạn chế vốn có của căn tính nông dân ở một nền

5


văn hóa nông nghiệp đồng thời nâng cao hơn nữa tính văn hóa chính trị trong sự
lãnh đạo của Đảng
Nguyễn Thị Lệ Thủy trong “Văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng
cán bộ của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn đổi mới hiện nay” luận văn thạc sỹ
khoa học chính trị, Hà Nội, 2000. Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ của thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ này.
Lâm Quốc Tuấn “Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay" luận án tiến sĩ Khoa học chính trị học, Hà Nội, 2005. Luận

án đã hệ thống hóa một cách cơ bản những quan niệm về bản chất, vai trò của văn
hóa chính trị cũng như cấu trúc, đặc điểm và chức năng của nó. Xác định những cơ
sở lý luận và thực tiễn đặt ra yêu cầu về nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh
đạo. Xác định những nội dung thiết yếu trong cấu trúc nhân cách văn hóa chính trị
của cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra những phương hướng và các
giải pháp nhằm nâng cao văn hóa chính trị của người cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các công trình khoa học nêu trên là những tài liệu quý giá cho việc nghiên
cứu đề tài luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống
về vấn đề thực trạng và giải pháp mang tính thực tiễn nâng cao VHCT của đội ngũ
CBCC ở địa phương cụ thể là ở huyện Thanh Oai.
Đề tài “Nâng cao văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện
Thanh Oai, TP Hà Nội hiện nay ” là sự tiếp nối những công trình đã có trên với
tính cách như là hệ quy chiếu mới, góp phần giải đáp về phương diện thực tiễn trong
quá trình xây dựng đội ngũ CBCC nói chung cũng như đội ngũ CBCC trên địa bàn
huyện Thanh Oai nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6


- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về văn hóa chính trị, văn hóa
chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện; phân tích, đánh giá thực trạng văn
hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai, thành phố Hà Nội,
luận văn đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa chính trị của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội trong thời kỳ
đổi mới hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:

+ Làm rõ khái niệm, tiêu chí, những nhân tố ảnh hưởng đến văn hóa chính trị
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
+ Phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở Thanh Oai, Hà Nội hiện nay.
+ Xác định một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai, Hà Nội trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề nâng
cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Thanh Oai, TP Hà Nội.

4. Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về chính trị, văn hóa,
văn hóa chính trị, về cán bộ và công tác cán bộ....
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: logic và lịch sử,
diễn dịch và quy nạp, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7


Đối tượng nghiên cứu là văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện.
Đề tài tập trung khảo sát trong phạm vi địa bàn huyện Thanh Oai, Hà
Nội.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

* Về mặt lý luận: Góp phần làm rõ thêm một số nhận thức về văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện: khái niệm, tiêu chí, nhân tố tác động.
* Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng văn hóa chính trị của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai, luận văn góp tiếng nói vào việc nâng
cao và phát huy văn hóa chính trị của cán bộ, mà trực tiếp là trình độ văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Thanh Oai trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
đề tài bao gồm 3 chương 8 tiết.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN
1.1. Văn hóa chính trị và văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện
1.1.1.

Văn hóa chính trị

* Văn hóa
Để làm rõ khái niệm văn hóa chính trị, trước hết cần tìm hiểu khái niệm văn
hóa. Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ văn hóa trong khoa học (1774) là Pufedorf
(một nhà nghiên cứu luật pháp người Đức) với nghĩa là toàn bộ những gì do hoạt
động xã hội của con người tạo ra và là đối lập với trạng thái tự nhiên. Nhưng khoa
học về văn hóa thực sự được khai sinh ở Đức thế kỷ XIX. Mốc đánh dấu sự kiện này

là năm 1885 khi cuốn Khoa học chung về văn hóa của Klemm được xuất bản. Trong
đó, tác giả trình bày sự phát triển toàn diện của loài người như là sự phát triển của
một cá thể đơn nhất. Ở đây, lịch sử văn hóa được đồng nhất với lịch sử xã hội, cự
tuyệt việc trình bày lịch sử như là lịch sử các vương triều.
Cho đến nay, khi nhà văn hóa trở thành mối quan tâm hàng đầu của các loại
hình nhận thức thì định nghĩa về văn hóa trở nên vô cùng phong phú. Bởi vậy,
J.Derrida đã có câu nói đầy ấn tượng: “Văn hóa là cái tên mà chúng ta đặt cho điều
bí ẩn không cùng đối với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó” [26,
tr.28]
Về mặt từ vựng, thuật ngữ “văn hóa” được dịch từ thuật ngữ “culture” của
Anh - Pháp. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng La - tinh “culturs” - nghĩa gốc là
“canh tác”, “trồng trọt”. Ở Trung Hoa nghĩa gốc Hán học của từ “văn” là cái đẹp, vẻ
đẹp do màu sắc, đường nét tạo ra. Văn hóa là làm cho trở nên đẹp, trở nên sáng, trở
nên hiệu dụng đối với con người.


Theo cách tiếp cận hệ thống, văn hóa là một hoạt động sáng tạo, là hệ thống
những giá trị do kết quả hoạt động sáng tạo của con người tạo nên. Tập thể các tác
giả cuốn Từ điển Chính trị rút gọn của Liên Xô cho rằng: “Văn hóa là trình độ phát
triển lịch sử nhất định của xã hội, là sức sáng tạo và khả năng của con người, được
biểu hiện trọng các phương thức tổ chức đời sống và hoạt động sáng tạo của con
người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên”
[dẫn lại, 21, tr.226]
Khởi nguồn quan niệm mácxít về văn hóa là tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen xuất hiện rải rác trong tác phẩm kinh điển xem văn hóa như là hình thức
biểu hiện và là kết quả lao động của con người, sau này được V.I.Lênin phát triển và
cụ thể khi bàn về cách mạng văn hóa.
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa được định nghĩa: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loại người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật,

những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, của loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu và đòi hỏi của sự sinh tồn” [18, tr.431].
Như vậy, có thể hiểu, văn hóa là phạm trù kết tinh những giá trị vật chất và
tinh thần do loài người sáng tạo nên trong lịch sử, là sự thể hiện trình độ phát triển
nhất định của xã hội, trình độ phát triển năng lục và khả năng sáng tạo của con người
biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội, quan hệ xã hội... .phản ánh
toàn bộ đời sống của con người trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
*Chính trị
Chính trị là một lĩnh vực của đời sống xã hội kể từ khi xã hội phân chia thành
giai cấp và tổ chức thành nhà nước; là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất và có


vai trò ngày càng tăng, từ thời cổ đại, chính trị đã được nhiều nhà tư tưởng quan tâm
nghiên cứu. Cho đến nay vẫn có những quan điểm khác nhau về phạm trù chính trị.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất: “chính trị là hoạt động trong lĩnh vực
quan hệ giữa các giai cấp, cũng như giữa các dân tộc và các quốc gia với vấn đề
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào
công việc của nhà nước và xã hội; là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp,
của các đảng chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đề ra nhằm thõa mãn lợi ích” [21,tr.13]
*Văn hóa chính trị:
VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp
(có chính trị), nhưng điều đó không có nghĩa VHCT là phép cộng giản đơn giữa văn
hóa với chính trị, mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau
giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. Vì vậy, VHCT là đối tượng nghiên
cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn.
Xênôphôn (427 - 355TCN) với những quan điểm vể thủ lĩnh chính trị đã phác
họa nên những tiêu chí giá trị VHCT của những lãnh tụ chính trị: giỏi kĩ thuật, giỏi

thuyết phục, phục vụ những người mà anh ta chỉ huy, biết tập hợp lại và phát huy sức
mạnh của mọi người.. ..Những tiêu chí đó vẫn mang ý nghĩa thiết thực đối với việc
hình thành nhân cách chính trị cho chủ thể lãnh đạo hiện nay.
Platon (428 - 347 TCN) và Aristôt (384 - 322 TCN) khi đưa ra quan niệm coi
chính trị là khoa học và nghệ thuật, mặc dù triết lí chính trị - xã hội của các ông còn
nhiều hạn chế lịch sử nhưng vẫn chứa đựng hạt nhân hợp lý trong quan niệm vê
VHCT.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) là một đại diện tiêu biểu cho những tư tưởng gia
phương Đông cổ đại. Tư tưởng chính trị về “nhân và lễ”, “chính định danh phận”,
tôn trọng người hiền, tư tưởng về giáo dục....Mm chứa nhiều giá trị văn hóa chính trị


sâu sắc, vẫn mang ý nghĩa thời đại đối với VHCT phương Đông nói chung và VHCT
Việt Nam nói riêng.
Montexkiơ (1989 - 1755), trong các học thuyết về nguồn gốc nhà nước, về sự
phân quyền, lý luận về chính phủ và Rutxô (1712 - 1778) với tư tưởng cách mạng
dân chủ tư sản, tư tưởng về chủ quyền tối thượng của nhân dân cũng đưa ra nhiều tư
tưởng lớn về VHCT cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng, quyền lực, nghĩa vụ..
..của các chủ thể chính trị.
Người đầu tiên đưa ra khái niệm văn hóa chính trị là nhà chính trị học người
Mỹ G.Almond. Trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” đăng trên Tạp chí Chính
trị học, số 8, 1956, ông đã đề xuất thuật ngữ Văn hóa chính trị (political culture) và
dùng nó để phân tích so sánh các chế độ chính trị.
Nhiều người cho rằng, văn hóa chính trị với tư cách là một thuật ngữ trong
khoa học chính trị xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng giữa thế kỷ XX, gắn với tên
tuổi hai học giả Hoa Kỳ là Gabriel Almond và Sidney Verba. Bởi Gabriel Almond và
Verba trong cuốn Văn hóa công dân (The Civic Culture) đã trình bày cách tiếp cận
khoa học về VHCT bằng việc đưa ra một khuôn khổ lý thuyết chung, sau đó tiến
hành khảo sát so sánh tại năm quốc gia khác nhau. Hai ông cho rằng, có ba loại
VHCT là: VHCT địa phương (Parochial), VHCT thần dân (Subject) và VHCT tham

gia (Participant). Ba loại VHCT này kết hợp với nhau tạo thành văn hóa công dân.
Hai nhà chính trị học Mỹ H. Almond và H.Paul đã đưa ra định nghĩa VHCT
cho đến nay vẫn được nhiều người đồng tình: “Văn hóa chính trị là tập hợp các lập
trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào
đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hoạt động
chính trị có ý nghĩa. Những định hướng cá nhân bao gồm một số thành tố; cụ thể là:
- Định hướng nhận thức: Là hiểu biết đúng sai về các khách thể và các tư
tưởng chính trị. Những hiểu biết này có thể là hiểu biết trực quan về chính trị, cũng
có thể là tư duy chính trị đã được khoa học hóa.


- Định hướng tình cảm: đó là cảm giác về những mối liên hệ, sự lôi cuốn, về
mâu thuẫn...với các khách thể chính trị nào đó.
- Định hướng đánh giá: là ý kiến, nhận xét về khách thể trên cơ sở căn cứ vào
những hệ thống giá trị và tiêu chuẩn để đánh giá. [27, tr.216].
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm VHCT, nhưng
trong hệ thống học thuyết của các ông đều toát lên những tư tưởng, quan điểm cơ
bản vềVHCT trên mọi khía cạnh đời sống chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động như: vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới; vấn đề xây dựng con người XHCN; vấn đề dân chủ XHCN.
Các nhà lý luận Việt Nam cũng đang trong quá trình cùng nhau xây dựng một
quan điểm đầy đủ về VHCT trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự có ý nghĩa xuất phát
điểm cho quá trình tìm tòi, nghiên cứu vừa mới mẻ, vừa phức tạp này.
Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của VHCT theo cả mô thức dân
tộc - khoa học - đại chúng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời
Nguời xác lập quan hệ văn hóa - chính trị trên nền tảng dân tộc với nội dung XHCN
trong giai đoạn cách mạng XHCN. VHCT được tạo lập trong quan hệ chính trị mới,
mà trong những quan hệ đó đánh dấu sự trưởng thành về nhân cách chính trị của
nhân dân, làm gia tăng các khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân.

Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh, các
nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt về khái niệm VHCT.
GS.TS Hoàng Chí Bảo quan niệm: “Văn hóa chính trị là chất lượng tổng hòa
của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị công dân, thúc
đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị của xã
hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự giác chủ động vào các quan hệ
chính trị xã hội của công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích
chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển” [36, tr.115 - 116]


GS.TS Phạm Ngọc Quang đưa ra khái niệm: “Văn hóa chính trị là một
phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo
trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực
cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ
bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử. Văn hóa chính
trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con người cùng những
thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những lợi ích giai cấp cơ bản của chủ
thể tương ứng” [25, tr19]
Khoa Chính trị học Học viện Báo chí Tuyên truyền định nghĩa: “Văn hóa
chính trị là một lĩnh vực biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài người trong xã hội
có giai cấp, được hiểu là trình độ phát triển của con người được thể hiện ở trình độ
hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống quyền lực theo một chuẩn giá trị xã
hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp
với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội” [21,tr.229].
Căn cứ vào phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan niệm về VHCT của các nhà
nghiên cứu lý luận gần đây, có thể hiểu theo một nghĩa khái quát nhất:
“ VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói
lên chất lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá
trị chính trị nhân văn được con người sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị,

để thực thi trong quan hệ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện
lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp phù hợp với sự phát triển lịch sử; là sự phản
ánh trình độ trưởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể chính trị trong đời
sống xã hội ”
Từ khái niệm VHCT, có thể thấy, cấu trúc VHCT được xem xét dưới hai góc
độ tiếp cận cơ bản: VHCT với tư cách là hệ giá trị và VHCT gắn liền với các chủ thể
chính trị.


Thứ nhất, với tư cách là hệ thống các chính trị: VHCT là kết quả tổng hòa
của những giá trị sau:
- Tri thức và sự hiểu biết chính trị: Đây là nền tảng của VHCT, được định
lượng một cách phổ biến bởi tri thức chính trị, là sự thống nhất giữa tri thức lý luận
và tri thức kinh nghiệm.
- Niềm tin và tình cảm chính trị: Niềm tin và tình cảm chính trị là sự bộc lộ
những phẩm chất, sắc thái cá nhân đối với lý tưởng, chế độ chính trị, nahf nước,
chính đảng, đối với các cơ quan lãnh đạo, các nhà lãnh đạo...
- Các truyền thống chính trị: Văn hóa nói chung, VHCT nói riêng trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định bao giờ cũng là sự kế thừa và phát triển những giá trị
chính trị truyền thống phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể. Các giá trị VHCT
truyền thống không chỉ là những “chất liệu” tạo nên VHCT mà còn tạo nên bản sắc
dân tộc cho VHCT
- Những lý tưởng cao đẹp mà con người phấn đấu đạt tới trong chính trị:
Những lý tưởng đó vừa đóng vai trò là động lực kích thích hoạt động chính trị, vừa
đóng vai trò là xung lực nội tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể chính trị vươn tới
những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động chính trị.
- Quá trình biến những giá trị chính trị đã được thiết lập thành lý tưởng,
niềm tin, động cơ, nhu cầu, thói quen chính trị... trong hoạt động chính trị của chủ
thể: Đây chính là quá trình thực hành VHCT trong hoạt động của chủ thể. Chỉ trên
cơ sở này mới tạo cho VHCT sự ổn định vững chắc trong đời sống chính trị.

- Những phương tiện chính trị, những chuan mực, những phương thức tổ
chức và hoạt động của quyền lực chính trị được sử dụng để đạt đến mục tiêu chính
trị.
- Hệ tư tưởng chính trị: Với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của
giai cấp cũng như phương thức, con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp,
liên minh giai cấp hoặc của nhân dân lao động nói chung (trong điều kiện của


CNXH), hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh
thần xã hội đóng vai trò hạt nhân của VHCT, giữ vị trí trung tâm, có tác dụng chi
phối các nhân tố khác trong VHCT cũng như toàn bộ nền VHCT nói chung của một
thể chế chính trị.
Thứ 2, VHCT với tư cách là sản pham hoạt động chính trị của các chủ thể
chính trị: cá nhân và tổ chức
Với tư cách là chủ thể, phản ánh trình độ và kết quả của con người trong nhận
thức và hoạt động chính trị, VHCT là sự thông nhất và tác động qua lại của VHCT
cá nhân và VHCT tổ chức.
- VHCT cá nhân
Cá nhân là con người tồn tại với tư cách là một cá thể trong xã hội. Cá nhân
liên hệ với xã hội và chính trong đời sống cộng đồng mà nó đạt được sự hình thành
nhân cách.
VHCT cá nhân được thể hiện qua sự ứng xử, giao tiếp tranh luận. Qua đó bộc
lộ thái độ, lòng trung thành, trình độ giác ngộ chính trị, năng lực trí tuệ, đạo đức tác
phong cũng như một động cơ chính trị hướng về một lợi ích chính trị, một mục tiêu
lý tưởng nhất quán, cơ bản và lâu dài.
VHCT cá nhân còn bộc lộ đầy đủ ở năng lực khả năng hoạt động sáng tạo
trong việc tham gia các quá trình chính trị hiện thực, tham gia vào quá trình xây
dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, vào việc tác động tới chính
sách ở nhiều mức độ và phạm vi khác nhau, ở khả năng hoạt động cộng đồng...
- VHCT tổ chức

Tổ chức là một kiểu xã hội liên kết được con người lập ra để đi tới một mục
đích chung nào đó mà từng cá nhân riêng lẻ trong tính biệt lập của nó sẽ không thể
đạt được. Nó là phương thức cơ bản để phối hợp ý chí và hành động tạo ta sức mạnh
lũy thừa so với sức mạnh cá nhân.


Do đó, VHCT của tổ chức phụ thuộc vào văn hóa của từng cá nhân, vào văn
hóa của người thủ lĩnh, vào trình độ dân trí nói chung, vào trình độ tổ chức của tổ
chức và suy đến cùng còn tùy thuộc vào bản chất chính trị, trình độ chín muồi của
chế độ dân chủ.
Trong VHCT của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nổi bật lên vai trò của
một tổ chức hạt nhân gắn liền với vai trò lãnh đạo chính trị đó là các đảng chính trị.
Trình độ văn hóa của các đảng chính trị đóng vai trò quyết định về sự phát triển của
VHCT của cả hệ thống tổ chức nằm trong hệ thống chính trị, kể cả sự phát triển về
văn hóa của toàn thể xã hội.
Xem xét chiều sâu khái niệm VHCT, tức là cấu trúc VHCT để giúp chúng ta
xác định rõ vị trí VHCT của một chủ thể xác định (VHCT của ĐNCBCCCH) trong
tổng thể VHCT nói chung, từ đó định hướng những chuẩn mực giá trị tương ứng quy
định phẩm chất, trình độ và năng lực VHCT của chủ thể đó.
1.1.2.

Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện

Trong nghiên cứu cũng như trong hoạt động thực tiễn, quan niệm và việc xác
định đội ngũ CBCC của một cấp, một ngành, một địa phương vẫn chưa thống nhất
hoàn toàn. Do đó, để có quan niệm đội ngũ CBCCCH cần làm rõ các khái niệm,
thuật ngữ liên quan như “cán bộ ”, “chủ chốt ”, “cán bộ chủ chốt ”, “đội ngũ cán
bộ chủ chốt ”.
*Cán bộ
Thuật ngữ cán bộ xuất hiện và được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ chính

trị ở các nước thuộc hệ thống XHCN, bắt đầu từ thời Lênin sau cách mạng tháng
Mười, khi đảng cộng sản đã cầm quyền và nước Nga xô viết đã ra đời, thể chế quản
lý nhà nước đã định hình và đi vào hoạt động.
Ở nước ta, khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội vào những năm
30 của thế kỉ XX, để chỉ một lớp người, những chiến sĩ cách mạng chịu hy sinh, gian
khổ, đấu tranh giành độc lập dân tộc và sau này trong thời kì kháng chiến chống thực


dân Pháp, được dùng phổ biến để chỉ những người thoát ly, tham gia hoạt động
kháng chiến, để phân biệt với nhân dân.
Trong một thời gian dài khái niệm cán bộ gần như được dùng thay thế cho
khái niệm công chức. Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những
người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, Đảng, đoàn thể, quân đội
Theo Hồ Chí Minh; “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình
của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng”
[19, tr.269].
Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa: “1. Người làm công tác có
nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước; 2. Người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan một tổ chức, Phân biệt với người thường, không có chức vụ” [37,
tr109]
Như vậy, với nghĩa thứ nhất, cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước, có trình độ được đào tạo từ cao đẳng, đại học
trở lên. Số có trình độ đào tạo thấp hơn gọi là nhân viên.
Với nghĩa thứ hai, cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức. Đây chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, là những người có
chức vụ, phân biệt với người thường không có chức vụ.
Từ những cách hiểu trên có thể đi đến một quan niệm chung nhất như sau:
Cán bộ là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, làm việc trong các tổ
chức, cơ quan của hệ thống chính trị và những người giữ chức vụ trong tổ chức, cơ

quan của hệ thống chính trị.
Cho đến bây giờ thì cán bộ vẫn là một danh xưng đẹp trong ý thức của nhân
dân ta, xã hội ta, mặc dù có những biến đổi nhất định theo sự vận động của thực tiễn.
Tuy nhiên, trước sự phát triển nền kinh tế - xã hội và tiến trình đổi mới hệ thống
chính trị của đất nước, khái niệm cán bộ đang có sự phát triển và đang có nhu cầu bổ


sung nội hàm, phạm vi của nó. Theo đó, đội ngũ cán bộ không chỉ giới hạn trong hệ
thống chính trị, trong phạm vi các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, đoàn
thể như hiện nay.
* Chủ chốt, cán bộ chủ chốt
Từ đội ngũ được Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “1. Tổ chức gồm nhiều người
tập hợp lại thành một lực lượng; 2. Tập hợp số đông cùng chức năng, nghề nghiệp”
[37, tr.134]. Như vậy, thuộc tính căn bản của một đội ngũ là: nhiều người, có phạm
vi, giới hạn nhất định. Đội ngũ những con người xác định thì có những đặc điểm,
tính chất, vị trí, vai trò xác định và có mối liên hệ với các yếu tố bên trong, bên
ngoài....Từ đó, nó quy định thành phần, số lượng cụ thể của đội ngũ đó, như: đội ngũ
y, bác sỹ của ngành y tế; đội ngũ kỹ sư nhà máy ; ĐNCBCC của địa phương...
Từ những khái niệm “cán bộ”, “chủ chốt”, “đội ngũ” đã phân tích trên có
thể đưa ra cách hiểu về ĐNCBCC như sau: ĐNCBCC của một tổ chức, cơ quan,
đơn vị là tập hợp những cán bộ quan trọng nhất, có vai trò nòng cốt trong tổ chức,
cơ quan, đơn vị đó.
ĐNCBCC bao gồm nhiều CBCC nhưng không phải là phép cộng đơn giản
các cá nhân đó mà nó được hình thành, tổ chức theo một yêu cầu, chuẩn mực nhất
định, có số lượng, thành phần, cơ cấu phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức,
làm nhân lên sức mạnh của từng cá nhân tạo thành sức mạnh của tổ chức.
*Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Từ những khái niệm đã trình bày trên đây, có thể đưa ra cách hiểu về
ĐNCBCCCH như sau: ĐNCBCCCH là những người có chức vụ, có vai trò nòng cốt
trong hệ thống chính trị cấp huyện, có tác động, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của

hệ thống chính trị cấp huyện, góp phần quyết định vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh,xây dựng Đảng....ở địa phương.
* Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện


Từ sự phân tích về VHCT và ĐNCBCCCH, có thể hiểu: VHCT của
ĐNCBCCCH là một bộ phận cấu thành của VHCT, nói lên chất lượng tổng hợp
những giá trị chính trị được ĐNCBCCCH, nói lên chất lượng tổng hợp những giá
trin chính trị được ĐNCBCCCH sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị địa
phương nhằm thực hiện một cách hiệu quả quá trình lãnh đạo, quản lý và chịu trách
nhiệm về mọi nhiệm vụ chính trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa
bàn tỉnh mà họp phụ trách, là sự phản ánh trình độ trưởng thành nhân cách chính
trị của ĐNCBCCCH trong đời sống xã hội.

1.2. Tiêu chí văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện
1.2.1.

Tri thức chính trị

Tri thức chính trị được định lượng một cách phổ biến bởi trình độ học vấn về
chính trị, dù rằng nó chỉ mới một khía cạnh, một chỉ báo về giá trị tinh thần trong
chỉnh thể VHCT. Đối với đội ngũ CBCCCH, tiêu chí đánh giá một người có tri thức
chính trị là người có:
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
- Trình độ lý luận chính trị
- Kiến thức quản lý nhà nước
- Kiến thức quản lý kinh tế, quản lý đô thị
- Kiến thức bổ trợ tin học, ngoại ngữ

Đây là phẩm chất bao trùm, là cơ sở quan trọng nhất trong cấu trúc VHCT
của ĐNCBCCCH.
1.2.2.

Bản lĩnh chính trị

Có thể đánh giá bản lĩnh chính trị của ĐNCBCCCH thông qua những tiêu chí
sau:
- Sự giác ngộ về lý tưởng, lòng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.


- Ý chí đấu tranh chống ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và các quan điểm,
học thuyết phi khoa học; tinh thần, ý thức đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng.
- Tinh thần đấu tranh phê và tự phê, dám đối mặt với những sai lầm, khuyết
điểm.
- Sự nhạy cảm nắm bắt cái mới, phát hiện vấn đề; khả năng đánh giá đúng và
định hướng đúng.
- Thái độ trước những khó khăn, thử thách; sự kiên định lập trường, quan
điểm trước những diễn biến phức tạp của hiện thực xã hội.
1.2.3.

Năng lực hoạt động chính trị

Một cán bộ chủ chốt cấp huyện có năng lực hoạt động chính trị là
người:
- Có khả năng tổ chức công việc; tổ chức bộ máy; tổ chức, quản lý nhân sự
(xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan, đơn vị; xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ...)
- Có năng lực quản lý, điều hành; Năng lực này thể hiện ở khả năng ra quyết

định lãnh đạo, quản lí.
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao:
+ Hoàn thành nhiệm vụ, chức trách của bản thân.
+ Đơn vị phụ trách hoàn thành tốt nhiệm vụ.
+ Có kết quả, sản phẩm cụ thể minh họa cho việc hoàn thành nhiệm vụ đó.
- Năng lực phát huy nguồn nhân lực và sử dụng người tài
Năng lực này thể hiện ở:
+ Khả năng tác động nhằm tập hợp quần chúng nhằm phát huy tính tích cực
tự giác, tự nguyện tham gia vào các quá trình chính trị, xã hội.
+ Biết phát huy năng lực của cấp dưới, nhận biết được tố chất của từng
người, biết phân việc, ủy quyền;
+ Có khả năng phát hiện và sử dụng nhân tài.


1.2.4.

Đạo đức cách mạng

Đạo đức cách mạng là một trong những biểu hiện của VHCT cá nhân. Phẩm
chất đạo đức vừa là một phương diện quan trọng quyết định giá trị bản thân người
CBCC, vừa là nguồn gốc chủ yếu sinh ra những ảnh hưởng mang tính tự nhiên đối
với người khác. Phẩm chất đạo đức của CBCC được thể hiện qua tiêu chí cụ thể sau:
- Xác định và luôn thể hiện sự cố gắng, tận tụy, nhiệt huyết trước trách
nhiệm, bổn phận mà Đảng, Nhà nước, tổ chức giao phó cho bản thân.
- Có các đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; không tham lam,
ích kỷ, hẹp hòi; có tinh thần và trách nhiệm chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
quan liêu, thể hiện trực tiếp hiện nay là thái độ đối với lãng phí, tham nhũng; đối với
người thân trong chống tham nhũng, tư lợi.
- Ý thức tổ chức, kỷ luật, phục tùng nguyên tắc, nội quy, quy chế của tổ
chức, cơ quan, đơn vị.

- Ý thức đấu tranh, rèn luyện vươn tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ; lối
sống, nếp sống của người cán bộ (giản dị, trong sáng, lành mạnh, gương mẫu....)
- Quan hệ tốt với đồng chí, đồng nghiệp, với nhân dân; có tinh thần đoàn kết,
thân ái; tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ..
1.2.5.

Phong cách làm việc

Phong cách làm việc của người cán bộ là tổng thể những phương pháp, biện
pháp, cách thức riêng có, tiêu biểu, ổn định mà người cán bộ sử dụng hàng ngày để
thực hiện nhiệm vụ của mình. Nó được thể hiện qua các tiêu chí cụ thể sau:
- Có sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động,
sáng tạo, nhạy bén với cái mới.
- Sự sâu sát cơ sở, gần gũi, liên hệ mật thiết với nhân dân; tác phong nói đi
đôi với làm; có khả năng giao tiếp tốt, có sự thu hút, lôi cuốn.
- Có tác phong dân chủ; không áp đặt, độc đoán, gia trưởng, song có tính
quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, chia sẻ trách nhiệm.


- Ứng xử có văn hóa: Tôn trọng phẩm chất của con người; khiêm tốn, giản dị
và chân thành; tế nhị; linh hoạt và tự chủ; hiện đại và dân tộc....

1.3. Những nhân tố tác động đến văn hóa chính trị của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện
1.3.1.

Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế là nhân tố có tính chất quyết định mạnh mẽ nhất đến trình
độ cũng như vai trò của VHCT của một dân tộc, một nước, một khu vực. Tính chất,

trình độ phát triển của nền kinh tế ảnh hưởng lớn đến VHCT; một nền kinh tế tự
cung, tự cấp, cát cứ địa phương lạc hậu, thấp kém tất yếu sẽ dẫn đến thói quen, suy
nghĩ lạc hậu, bảo thủ, chủ nghĩa kinh nghiệm, nhận thức chính trị thấp và không
đồng đều; Đó là những biểu hiện thấp kém về VHCT. Một nền kinh tế phát triển cao
có thể cung cấp cho con người những điều kiện tiếp nhận các giá trị tiến bộ, văn
minh, hiện đại; thúc đẩy tính năng động, chủ động nhạy bén, góp phần nâng cao bản
lĩnh chính trị của các chủ thể trong quan hệ xã hội. Hình thành, nâng cao giá trị
VHCT cho đội ngũ cán bộ cần phải có môi trường kinh tế - xã hội phát triển lãnh
mạnh. Những yếu kém hạn chế trong xây dựng kinh tế ảnh hưởng đến nhân cách
chính trị của những người cán bộ nói chung cũng như ĐNCBCCCH nói riêng.
Đối với ĐNCBCCCH. VHCT chịu sự tác động của môi trường kinh tế quốc
tế, nền kinh tế trong nước và trực tiếp là sự phát triển kinh tế tại địa bàn huyện mà họ
phụ trách. Nó được thể hiện ở sự tác động của nền kinh tế trí thức, quá trình toàn cầu
hóa nền kinh tế; thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cùng với sự phát triển và những biến dộng kinh tế trong nước và tại địa bàn
huyện.
1.3.2.

Môi trường chính trị

Môi trường chính trị nói chung, tính chất, trình độ thiết chế chính trị ảnh
hưởng lớn đến VHCT, vì nó quy định mức độ tổ chức, cơ cấu của hệ thống quyền
lực, đặc biệt là tổ chức, cơ cấu của hệ thống quyền lực, đặc biệt là tổ chức quyền lực


×