LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 76% dân số sống ở nông
thôn, 73% lực lượng lao động xã hội đang làm việc và sinh sống nhờ vào các hoạt
động sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng
nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm trong
công tác xây dựng phát triển nông thôn, cải thiện, nâng cao mức sống của người
nông dân, nhất là những vùng sâu vùng xa, miền núi hải đảo. Với phương châm
"Nhà nước và nhân dân cùng làm, dân làm là chính, có sự hướng dẫn, hỗ trợ của
Nhà nước", Chính phủ đã dành nguồn vốn đáng kể cho đầu tư và phát triển hệ
thống đường giao thông nông thôn (GTNT).
Giao thông nông thôn là một trong những lĩnh vực được tập trung quan tâm
phát triển mạnh trong nhiều năm qua. Với mục tiêu giảm tỷ lệ đói nghèo, từng bước
cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế.
Vì vậy giao thông nông thôn là một phần quan trọng trong kết cấu hạ tầng kỹ thuật
của cả nước, nâng đỡ cho sản xuất, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Hệ thống giao
thông nông thôn được phát triển sẽ thúc đẩy giao lưu giữa các vùng sản xuất nông
nghiệp với các thị trấn, các cộng đồng dân cư, các trung tâm kinh tế, thúc đẩy tiêu
dùng, thúc đẩy đầu tư xây dựng ở khu vực dân cư, tạo điều kiện phát triển văn hóa
xã hội và củng cố an ninh quốc phòng.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của nhiều
ngành kinh tế xã hội và tốc độ đô thị hoá ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó là sự thay
đổi về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của huyện Châu Thành nói riêng và tỉnh Bến
Tre nói chung tác động tích cực đến quá trình đẩy mạnh xây dựng và phát triển hệ
thống GTNT. Tuy nhiê n, vớ i Nguồn lực còn hạn chế (vốn, lao động, đất đai…), sự
quan tâm của các cấp chính quyền còn chưa cao, mức sống của dân cư nông thôn nói
chung còn thấp, tỷ lệ các hộ nghèo cũng như nhận thức của người dân về việc xây dựng
hệ thống GTNT chưa cao nên ảnh hưởng đến việc phát triển mạng lưới GTNT cho
huyện Châu Thành, chưa đáp ứng một cách tốt nhất những nhu cầu xã hội của cộng
đồng dân cư nông thôn.
Hệ thống đường giao thông nông thôn là các công trình được dùng để phục
vụ cho sản xuất và đời sống của cộng đồng dân cư nông thôn. Ý nghĩa về kinh tế xã hội của hệ thống đường GTNT là rất to lớn và không thể tính được. Đây là bước
đi ban đầu để giải quyết hoàn chỉnh mạng lưới giao thông cho nhân dân tỉnh Bến
Tre nói chung và nhân dân Huyện Châu Thành nói riêng. Đảm bảo sự đi lại, giao
lưu văn hoá, đẩy mạnh sự phát triển của nông thôn nhằm tiến tới tiến trình “Công
nghiệp hoá-hiện đại hóa” đất nước từ nay đến năm 2020. Do tính chất quan trọng
của hệ thống đường GTNT đối với phát triển kinh tế và xã hội để đánh giá những
thành tựu và hạn chế của công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống đường GTNT
thời gian vừa qua và đưa ra một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước và phát triển hệ thống đường GTNT.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Quản
lý nhà nước đối với hệ thống đường giao thông nông thôn huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre ” để làm báo cáo thực tập tốt nghiệp. Với đề tài trên, qua nghiên cứu tại UBND
huyện Châu Thành, tôi đã chọn phòng Kinh tế và Hạ tầng là cơ quan thực tập, vì đây là
cơ quan chuyên môn quản lý hệ thống đường GTNT của huyện Châu Thành.
Phần 1: BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC TẬP
I. KẾ HOẠCH THỰC TẬP
THỜI GIAN
Tuần 1
Tuần 2
Tuần 3,4
Tuần 5,6
Tuần 7
Tuần 8
NỘI DUNG CÔNG VIỆC
- Báo cáo lãnh đạo phòng Kinh tế và Hạ tầng về
kế hoạch thực tập để trưởng phòng sắp xếp, bố
trí người hướng dẫn.
- Tiếp xúc, làm quen với các nhân viên, anh chị
trong cơ quan.
- Tìm hiểu qui chế cơ quan.
- Làm quen với môi trường công vụ.
- Tìm hiểu về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và các mối quan hệ của phòng Kinh tế và
Hạ tầng.
- Tiếp xúc một số công việc của cơ quan.
- Có mặt thường xuyên tại cơ quan thực tập, học
tập và hỗ trợ cán bộ, công chức trong cơ quan
các công việc được giao.
- Tìm hiểu một số quy trình nghiệp vụ của phòng
Kinh tế và Hạ tầng.
- Nghiên cứu các văn bản liên quan đến chuyên
đề thực tập.
- Liên hệ với giảng viên hướng dẫn về tên đề tài
báo cáo thực tập chính thức.
- Thực hiện các công việc do cơ quan thực tập
giao.
- Chuẩn bị tài liệu viết đề cương báo cáo thực tập.
- Thu tập tài liệu liên quan đến chuyên đề thực
tập.
- Viết sơ lược đề cương báo cáo thực tập.
- Tiếp tục hỗ trợ cơ quan hoàn thành tốt các công
việc được giao.
- Tìm hiểu các vấn đề liên quan đến chuyên đề
thực tập.
- Đi khảo sát thực tế một số hệ thống đường giao
thông nông thôn trên địa bàn huyện Châu Thành
tỉnh Bến Tre để nắm tình hình thực tế.
- Hoàn thành đề cương báo cáo thực tập gửi giảng
viên hướng dẫn.
- Tiếp tục hỗ trợ cơ quan hoàn thành tốt các công
việc được giao.
- Viết báo cáo thực tập.
- Hoàn thiện báo cáo thực tập.
- Trình lãnh đạo phòng Kinh tế và Hạ tầng nhận
xét về quá trình thực tập.
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực
tập
GHI CHÚ
II. NHỮNG CÔNG VIỆC CỤ THỂ
2.1. Nghiên cứu tài liệu
Văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Phòng Kinh tế và Hạ tầng Huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Văn bản chỉ đạo của trung ương và địa phương về quản lý hệ thống đường
GTNT.
Quy trình thủ tục xây dựng đường GTNT.
Quy trình cấp phép xây dựng nhà ở.
2.2. Hỗ trợ phòng Kinh tế và Hạ tầng một số tác nghiệp, nghiệp vụ cụ thể
Soạn thảo văn bản, in ấn tài liệu, nhập danh sách, đánh số công văn đến, công
văn đi trong ngày.
Tham gia buổi khảo sát vi phạm hành lang lộ giới đường Hồ Chí Minh.
Khảo sát một số tuyến đường bê tông có gờ giảm tốc do người dân 2 bên đường
tự làm dễ gây tai nạn giao thông.
III. KẾT QUẢ THỰC TẬP
Trong thời gian thực tập tại phòng kinh tế và Hạ tầng, tôi đã học hỏi, trau dồi cho
bản thân được một số kỹ năng như:
- Kỹ năng soạn thảo văn bản hành chính thông thường.
- Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin và xử lý công việc.
- Kỹ năng giao tiếp với cấp trên, các anh, chị trong phòng và nhất là với nhân
dân đến làm việc.
- Kỹ năng xử lý công việc.
- Kỹ năng phân tích, tổng hợp.
Biết được quy trình làm việc và giải quyết công việc tại cơ quan thực tập.
Giúp tôi biết được quy hoạch hệ thống đường GTNT của Huyện mình trong
thời gian tới.
Có cơ hội được tiếp xúc với những công việc thực tế để áp dụng những kiến
thực được học trên ghế nhà trường.
Phần 2: BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
I. TỔNG QUAN VỀ PHÒNG KINH TẾ VÀ HẠ TẦNG HUYỆN CHÂU THÀNH
1.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
1.1.1. Vị trí và chức năng
Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện (dưới đây gọi tắt là Phòng) là cơ quan chuyên
môn thuộc UBND huyện, Phòng chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công
tác của UBND huyện; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về
chuyên môn, nghiệp vụ của các Sở: Công Thương, Xây dựng, Khoa học và Công
nghệ, Giao thông vận tải. Phòng có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được dự toán
kinh phí để hoạt động và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của
pháp luật.
Phòng có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về: công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp; thương mại; xây dựng; phát triển đô
thị; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công sở; hạ tầng kỹ
thuật đô thị (gồm: cấp, thoát nước; vệ sinh môi trường đô thị; công viên, cây xanh;
chiếu sáng; rác thải; bến, bãi đỗ xe đô thị); giao thông, khoa học và công nghệ.
1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Trình UBND huyện:
Dự thảo các quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm, hàng năm
về phát triển công thương, giao thông vận tải, xây dựng, khoa học và công nghệ trên
địa bàn.
Dự thảo các chương trình, dự án đầu tư xây dựng trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước thuộc ngành xây dựng trên địa bàn huyện và các chương trình, giải pháp huy
động, phối hợp liên ngành trong thực hiện công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
trên địa bàn.
Dự thảo quyết định của UBND huyện về phân loại đường xã theo quy định của
pháp luật.
Trình Chủ tịch UBND huyện:
Dự thảo các văn bản về lĩnh vực công thương, xây dựng, giao thông vận tải,
khoa học và công nghệ thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch UBND huyện;
Dự thảo quyết định thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ theo quy định tại
Luật Khoa học và công nghệ, theo hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ và làm
thường trực Hội đồng khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện;
Giúp UBND huyện thực hiện quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của các hội và tổ chức phi chính phủ
trên địa bàn thuộc lĩnh vực công thương, xây dựng, giao thông vận tải, khoa học kỹ
thuật theo quy định của pháp luật.
Giúp UBND huyện thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm định, đăng ký,
cấp các loại giấy phép thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của Phòng về lĩnh
vực công thương theo quy định của pháp luật và theo phân công của UBND huyện:
thực hiện việc cấp, gia hạn, điều chỉnh, thu hồi giấy phép xây dựng công trình và kiểm
tra việc xây dựng công trình theo giấy phép được cấp trên địa bàn theo sự phân công,
phân cấp của UBND tỉnh.
Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về công thương, giao thông vận tải, xây
dựng cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện.
Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện việc xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa,
duy tu, bảo trì, quản lý, khai thác, sử dụng các công trình hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn
huyện theo quy định của pháp luật và phân công, phân cấp của UBND tỉnh, huyện.
Giúp UBND huyện trong việc thực hiện các cơ chế, chính sách về nhà ở và
công sở; quản lý quỹ nhà ở và quyền quản lý sử dụng công sở trên địa bàn huyện theo
phân cấp của UBND tỉnh; tổ chức thực hiện công tác điều tra, thống kê, đánh giá định
kỳ về nhà ở và công sở trên địa bàn huyện; tổ chức thực hiện việc cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu công trình xây dựng theo quy định của UBND tỉnh;
tổng hợp tình hình đăng ký, chuyển dịch quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu công trình
xây dựng trên địa bàn huyện.
Thực hiện một số nghiệp vụ khác do UBND huyện, Chủ tịch UBND huyện giao
hoặc theo quy định của pháp luật.
1.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của phòng Kinh tế và Hạ tầng UBND huyện Châu Thành được
thể hiện trong sơ đồ sau:
TRƯỞNG PHÒNG
(Phụ trách chung)
PHÓ
PHÓ TRƯỞNG
TRƯỞNG PHÒNG
PHÒNG
(phụ
(phụ trách
trách xây
xây dựng)
dựng)
Chuyên
Chuyên
viên
viên phụ
phụ
trách
trách nhà
nhà ởở
và
và công
công sở;
sở;
kế
kế toán.
toán.
Chuyên
Chuyên
viên
viên phụ
phụ
trách
trách giao
giao
thông;
thông; văn
văn
thư
thư lưu
lưu trữ;
trữ;
hạ
hạ tầng
tầng kỹ
kỹ
thuật
thuật đô
đô
thị.
thị.
Chuyên
Chuyên
viên
viên hợp
hợp
đồng
đồng phụ
phụ
trách
trách
thương
thương mại;
mại;
văn
văn thư;
thư;
trực
trực một
một
cửa
cửa điện
điện tử.
tử.
Chuyên
Chuyên
viên
viên hợp
hợp
đồng
đồng phụ
phụ
trách
trách kế
kế
toán;
toán;
thương
thương mại;
mại;
trực
trực một
một
cửa
cửa điện
điện tử.
tử.
Chuyên
Chuyên viên
viên
phụ
phụ trách
trách
công
công
nghiệp;
nghiệp; tiểu
tiểu
thủ
thủ công
công
nghiệp;
nghiệp;
khoa
khoa học
học &
&
công
công nghệ;
nghệ;
tổng
tổng hợp.
hợp.
Chuyên
Chuyên
viên
viên phụ
phụ
trách
trách xây
xây
dựng;
dựng; vật
vật
liệu
liệu xây
xây
dựng;
dựng; thủ
thủ
quỹ;
quỹ; phát
phát
triển
triển đô
đô
thị.
thị.
Chuyên
Chuyên
viên
viên phụ
phụ
trách
trách kiến
kiến
trúc;
trúc; quy
quy
hoạch
hoạch xây
xây
dựng;
dựng; phát
phát
triển
triển đô
đô thị.
thị.
1.3. Nhân sự
Phòng Kinh tế và Hạ tầng có 09 người (5 nam, 4 nữ). Trong đó, 02 công chức giữ
chức vụ lãnh đạo, 07 chuyên viên.
Về trình độ: Đội ngũ cán bộ, công chức phòng Kinh tế và Hạ tầng có bằng đại
học là 07 người, chiếm tỷ lệ 77,78%, cao đẳng là 02 người, chiếm 22,22%.
Về độ tuổi dưới 30 có 02 người chiếm tỷ lệ 22,22%, độ tuổi từ 30-40 là 06
người chiếm 66,67% và độ tuổi từ 40-50 là 01 người chiếm tỷ lệ 11,11%.
1.4. Các mối quan hệ
Đối với cấp tỉnh: Phòng Kinh tế và Hạ tầng chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn về
nghiệp vụ chuyên môn của 04 Sở, cụ thể: Sở Xây dựng, Sở Giao thông vận tải, Sở
Khoa học và Công nghệ, Sở Công thương.
Đối với cấp huyện: Phòng Kinh tế và Hạ tầng có mối quan hệ công tác với các
phòng: Tài chính – Kế hoạch, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và PTNT, Đội
quản lý đô thị, Đội Thanh tra xây dựng, Đội quản lý TT số 9, Điện lực Châu Thành và
các đơn vị khác có liên quan.
Ngoài ra, Phòng Kinh tế và Hạ tầng là cơ quan Thường trực và là Thành viên
của các Ban Chỉ đạo của huyện nên trong công tác có mối quan hệ với các ngành khác
theo nhiệm vụ được giao hoặc phát sinh.
Đối với cấp xã: Phòng Kinh tế và Hạ tầng là cơ quan đồng cấp với các xã, thị
trấn, ngoài việc thực hiện các nội dung theo chỉ đạo của UBND huyện về giải quyết
một số nội dung, vấn đề, vụ việc có liên quan, Phòng Kinh tế và Hạ tầng có trách
nhiệm hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ phụ trách Giao thông xây dựng
tại các xã, thị trấn.
1.5. Một số quy trình thủ tục của cơ quan
1.5.1. Quy trình thủ tục đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông trên địa bàn
huyện Châu Thành
Bước 1: Vào cuối năm, các xã, thị trấn làm tờ trình đề nghị đầu tư, sửa chữa,
nâng cấp các tuyến đường gửi về phòng Kinh tế và Hạ tầng.
Bước 2: Phòng Kinh tế và Hạ tầng sẽ tổng hợp các công trình cấp thiết rồi trình
UBND huyện phê duyệt cho kế hoạch năm sau.
Bước 3: Sau khi có Quyết định giao vốn, phòng Kinh tế và Hạ tầng thuê đơn vị
tư vấn khảo sát, thiết kế, thẩm tra rồi trình UBND huyện phê duyệt hồ sơ thiết kế.
Bước 4: Mời các nhà thầu có năng lực làm hồ sơ đề xuất chỉ định thầu và trình
UBND huyện phê duyệt chỉ định thầu.
Bước 5: Nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng.
1.5.2. Quy trình thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ
Bước 1: Nộp hồ sơ xin cấp phép xây dựng: Tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ trực
tiếp tại Bộ phận tiếp nhận một cửa đối với những huyện, thị có Bộ phận tiếp nhận một
cửa. Đối với những huyện, thị chưa có Bộ phận tiếp nhận một cửa thì nộp hồ sơ tại
phòng Kinh tế và Hạ tầng đối với các huyện, tại phòng Quản lý đô thị đối với các thị
xã. Bộ phận tiếp nhận kiểm tra hồ sơ, nếu hồ sơ hợp lệ thì ghi phiếu hẹn cho cá nhân,
tổ chức (trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì hướng dẫn cá nhân, tổ chức hoàn chỉnh hồ
sơ), sau đó chuyển hồ sơ trong ngày đến Phòng Kinh tế và Hạ tầng đối với các huyện,
tại phòng Quản lý đô thị đối với các thị xã thẩm định.
Bước 2: Phòng Kinh tế và Hạ tầng đối với các huyện, phòng Quản lý đô thị đối
với các thị xã thẩm định cho ra kết quả. Trường hợp hồ sơ xin cấp Giấy phép xây dựng
chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật chuyên môn thì cơ quan thẩm định hồ sơ phải có văn
bản trả lời chính thức trong vòng 07 ngày làm việc. Thời gian hoàn chỉnh hồ sơ không
tính vào thời hạn cấp Giấy phép xây dựng.
Bước 3. Tổ chức, cá nhân nhận kết quả và nộp lệ phí theo quy định tại nơi nộp
hồ sơ.
II. TỔNG QUAN VỀ CHUYÊN ĐỀ BÁO CÁO
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm về quản lý nhà nước
Quản lý Nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực
Nhà nước và sử dụng pháp luật Nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con
người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy Nhà
nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định
và phát triển của xã hội.
Khái niệm quản lý nhà nước đối với hệ thống đường giao thông nông thôn
GTNT được định nghĩa là sự di chuyển người và hàng hoá ở cấp huyện và
cấp xã. GTNT có thể chia thành 3 loại nhỏ như sau: cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu,
đường thuỷ và cảng), phương tiện vận chuyển và con người. [2]
Đường GTNT là đường thuộc khu vực nông thôn. Được định nghĩa là loại
đường giá tương đối thấp, lưu lượng xe ít, các đường nhánh, các đường phục vụ chủ
yếu cho khu vực nông nghiệp nối với hệ thống đường chính, các trung tâm phát triển
chủ yếu hoặc các trung tâm hành chính và nối tới các làng mạc các cụm dân cư dọc
tuyến, các chợ, mạng lưới giao thông huyết mạch hoặc các tuyến cấp cao hơn.
Đường GTNT bao gồm: đường huyện, đường xã, đường thôn xóm. Hệ thống
đường huyện là các đường nối từ trung tâm hành chính huyện tới trung tâm hành
chính của xã hoặc cụm các xã, các huyện lân cận. UBND cấp huyện quản lý đối
với đường trong phạm vi huyện. Hệ thống đường xã là các đường nối trung tâm
hành chính xã đến các thôn xóm hoặc các đường nối giữa các xã với nhau. UBND
xã quản lý đường trong phạm vi xã. Đường thôn xóm bao gồm các đường trong nội
bộ khu dân cư và các đường từ thôn ra đồng ruộng.
Hệ thống đường GTNT là một hệ thống các con đường bao quanh làng bản,
thôn xóm. Hệ thống đường GTNT bao gồm các tuyến đường từ trung tâm xã, đến
các trục đường QL, trung tâm hành chính huyện, đường liên xã, liên thôn, đường
làng ngõ xóm và đường chính ra đồng ruộng xây dựng thành một hệ thống giao
thông liên hoàn.[2]
Từ các khái niệm trên, Quản lý nhà nước đối với hệ thống đường GTNT là việc
thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước đã đề ra, phối hợp với các hoạt động
hàng ngày để đạt được mục tiêu của cơ quan hay tổ chức đối với hệ thống đường
GTNT nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Nâng cao điều kiện sống cho
người dân nông thôn thông qua cải tạo các đường GTNT; tăng khả năng tiếp cận cho
các vùng nông thôn với các dịch vụ, thương mại; góp phần vào chương trình xoá
đói giảm nghèo của Chính phủ. Tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan trung
ương và địa phương. Giảm tác động xấu do điều kiện hệ thống đường GTNT kém
gây ra đối với sức khoẻ của dân cư nông thôn và giảm thiểu tình trạng ô nhiễm
môi trường nông thôn.
2.1.2. Đặc điểm của hệ thống đường giao thông nông thôn
Hệ thống GTNT phục vụ cho hơn 75% dân số hiện tại và khoảng gần 60% dân
số trong tương lai những năm 2020. Chỉ tính riêng hệ thống đường huyện và
đường xã - đường cốt yếu đã là 176.863km, chiếm 60,57% so với tổng chiều dài
mạng lưới đường bộ, trong đó đường huyện 45.999km, chiếm 15,75%; đường xã
130.864km, chiếm 44,81%. Giá trị của hệ thống GTNT lên tới hàng nhiều tỷ đô la
nếu không được khai thác, quản lý, bảo dưỡng tốt sẽ là một sự lãng phí rất lớn và
ảnh hưởng đến số đông người hưởng lợi.
Hàng trăm nghìn km cầu, đường nông thôn đuợc xây dựng mới, phục hồi và
nâng cấp. Theo số liệu thống kê, đến 01/07/2011 cả nước đã có 8940 xã, chiếm 98,6%
tổng số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2,3% so với năm 2006),
trong đó đi lại được 4 mùa là 8803 xã, chiếm 97,1% ( tăng 3,5% so với năm 2006);
trong đó xã có đường ô tô đến trung tâm xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa là 7917 xã
chiếm 87,3% (tăng 17,2% so với năm 2006).
2.1.3. Tiêu chuẩn kỹ thuật đường giao thông nông thôn
Do Bộ Giao thông vận tải qui định thì đường GTNT gồm 4 loại đường AH,
A, B và C với chiều rộng mặt đường của loại đường AH và A là 3,5m, đường loại B
là 3,0m và loại C là 2,0m. chiều rộng nền đường l o ạ i đ ư ờ n g A H l à 6,5m, AHMN
là 6,0m, loại A là 5,0m, loại B là 4,0m và đường loại C là 3,0m. Kết cấu mặt đường
và nền móng rất khác nhau tuỳ thuộc điều kiện tự nhiên và xã hội tại mỗi vùng lãnh
thổ.[18]
2.1.4. Vai trò, vị trí của quản lý nhà nước đối với hệ thống đường giao thông
nông thôn
Theo phân cấp thông lệ quốc tế, mạng lưới GTNT thuộc loại 3. Chức năng
của nó là gắn kết hệ thống GTNT tại khu vực nông thôn với mạng lưới thứ cấp
(loại 2) và mạng lưới chính yếu (loại 1) thành hệ thống giao thông liên hoàn phục
vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong GTNT thì đường bộ có vai
trò chủ đạo, quan trọng nhất sau đó là đường thuỷ nội địa.
Đường bộ nông thôn là đường từ cấp huyện trở xuống bao gồm đường
huyện, đường xã và đường thôn xóm. Song chỉ có hệ thống đường huyện và đường
xã là được phân cấp trong Nghị định 11/2010/NĐ - CP ngày 24 tháng 02 năm 2010
của Chính phủ quy định về Quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
còn mạng lưới đường thôn xóm chưa được phân cấp.
Vai trò của hệ thống đường giao thông nông thôn đối với phát triển kinh tế:
Hệ thống GTNT hoàn chỉnh tạo tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế và
thực hiện nhiệm vụ xã hội. Nó đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất trong
phạm vi lưu thông, là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc cho quá trình sản
xuất. GTNT như là một chiếc cầu nối chuyển nguyên vật liệu đến nơi sản xuất
và cũng là chiếc cầu nối để chuyển các sản phẩm đã sơ chế từ nơi sản xuất đến
nơi tiêu dùng. Nếu các con đường vận chuyển này tốt thì quá trình chu chuyển
hàng hoá diễn ra nhanh chóng khi đó thúc đẩy quá trình sản xuất từ đó thúc đẩy
phát triển kinh tế ngành, vùng.
Hệ thống GTNT hoàn chỉnh nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
thôn và thúc đẩy CNH - HĐH ở nông thôn một cách nhanh chóng. Ở các vùng
nông thôn sản phẩm họ làm ra chủ yếu là các sản phẩm thô phục vụ cho ngành
công nghiệp chế biến như gỗ, hoa quả, ngũ cốc, tôm, cua, cá,... Một số mặt hàng
cần tươi sống khi đến nơi sản xuất và tiêu dùng. Nếu như hệ thống giao thông
không tốt, nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm như vậy sẽ kìm hãm quá
trình sản xuất. Còn nếu hệ thống giao thông tốt nó sẽ thúc đẩy sự lưu chuyển này
từ đó thúc đẩy sản xuất của người dân và của nhà máy. Vì vậy mà đời sống của các
vùng nông thôn được cải thiện.
Vai trò của hệ thống đường giao thông nông thôn đối với phát triển xã hội:
Hệ thống GTNT phát triển đảm bảo cho các hoạt động đi lại của người dân
vùng đó được thuận lợi hơn. Từ đó sẽ thúc đẩy việc giao lưu văn hóa giữa các
vùng, các khu vực, giữa thành phố với nông thôn, giữa đồng bằng với miền núi.
GTNT phát triển còn tạo công ăn việc làm cho người dân nông thôn lúc
nông nhàn. Vì các công trình giao thông này được xây dựng ngay tại địa phương
và phải cần đến một lượng lao động lớn. Do đó có thể huy động một số lao động
của địa phương, giải quyết thất nghiệp cho người dân.
Ngoài ra, GTNT phát triển còn để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc trên bước đường hội nhập kinh tế trên thế giới và trong khu vực.
Sự cần thiết phải phát triển đường giao thông nông thôn:
Do tính chất quan trọng của hệ thống đường GTNT đối với phát triển kinh tế
và xã hội, do đó cần thiết phải đầu tư và phát triển GTNT.
Do tính chất phức tạp của công trình giao thông, nó lại không tập trung mà
phân bố rải rác khắp các bản làng và thôn xóm nên nó đòi hỏi phải có quy hoạch
tổng thể để xây dựng hệ thống GTNT hợp lý phục vụ cho phát triển kinh tế và xã
hội. Vì vậy mà việc đầu tư xây dựng GTNT đòi hỏi một số lượng vốn lớn mới có thể
đáp ứng được.
Việc xây dựng hệ thống đường GTNT phải được tiến hành nhanh chóng do
nó chịu ảnh hưởng của thời tiết. Nếu mùa mưa lũ kéo về sẽ gây cản trở cho quá trình
xây dựng. Do vậy mà nó đòi hỏi phải huy động tối đa các nguồn lực như vật liệu,
lao động và vốn...
Các công trình GTNT rất nhỏ lẻ do đó nguồn lao động tốt nhất cho các công
trình này là lấy tại chỗ, ở ngay địa phương đó như vậy sẽ giảm được chi phí xây
dựng. Các công trình giao thông này sẽ phát huy tác dụng ngay tại địa phương nơi
chính nó được xây dựng lên. Nó lại chịu ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết và thời
gian sử dụng do đó cần phải có công tác sửa chữa và bảo dưỡng hợp lý để phát huy
hết tác dụng.
2.1.5. Quan điểm về quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn
Phát huy nội lực của dân cư nông thôn, dựa vào nhu cầu, trên cơ sở đẩy mạnh
xã hội hóa trong đầu tư, xây dựng và quản lý, đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước đối với hệ thống đường GTNT. Nhà nước đóng vai trò hướng dẫn hỗ trợ,
có chính sách giúp đỡ các gia đình thuộc diện chính sách, người nghèo, vùng dân
tộc ít người và một số vùng đặc biệt khó khăn khác. Chính sách "Nhà nước và nhân
dân cùng làm" trong phát triển GTNT giai đoạn vừa qua đã đóng góp tích cực vào
việc phát triển GTNT song cũng cần được xem xét lại cho phù hợp với tình hình
giai đoạn phát triển tiếp theo, đặc biệt là khi nước ta đã trở thành thành viên chính
thức của tổ chức thương mại thế giới ( WTO).
2.1.6. Một số vấn đề trong khai thác, sử dụng và quản lý nhà nước đối với hệ
thống đường giao thông nông thôn
Về mặt đầu tư xây dựng công trình giao thông nông thôn
Mạng lưới đường nông thôn ở các huyện nghèo, các xã vùng sâu vùng xa
được ưu tiên phục hồi, nâng cấp, đặc biệt làm mới nhiều đoạn đường cho các xã
chưa có đường ô tô vào tới trung tâm. Tuy nhiên, việc phát triển GTNT cũng còn quá
nhiều bất cập. Vấn đề đầu tiên được Bộ giao thông vận tải đặt ra là sự hạn hẹp
của nguồn vốn so với nhu cầu to lớn của phát triển của GTNT. Mạng lưới GTNT
còn thiếu về số lượng, chưa đảm bảo chất lượng và còn xa mới đáp ứng nhu cầu.
Trong điều kiện nhiều vùng nông thôn vẫn còn rất nghèo, nhu cầu này vượt xa khả
năng có thể của nguồn vốn, và ODA vẫn sẽ là nguồn vốn quan trọng nhất trong phát
triển GTNT.
Mô hình quản lý GTNT cũng chưa được định hình và thống nhất. Năng lực
quản lý, kỹ thuật chuyên môn về GTNT còn nhiều yếu kém. Nhiều văn bản quy
phạm pháp luật về đầu tư xây dựng còn chưa thực sự hài hoà với thông lệ quốc
tế, liên tục thay đổi, trong khi năng lực của các cán bộ quản lý lại hạn chế. Chính
vì vậy, sự phối kết hợp giữa trung ương và địa phương chưa chặt chẽ, thiếu chế
độ trách nhiệm rõ ràng trong chỉ đạo và thực hiện.
Năng lực của các nhà thầu tại địa phương cũng còn nhiều bất cập. Bản thân
các nhà thầu tư nhân và địa phương chưa tiếp cận được với thông lệ quốc tế và không
có nhiều kinh nghiệm đấu thầu, triển khai thủ tục giải ngân theo chính sách hướng
dẫn của nhà tài trợ.
Về mặt khai thác các công trình giao thông nông thôn
Do việc đầu tư cơ giới cho nông nghiệp ngày càng tăng, nên các tuyến đường
GTNT hiện nay hầu như không đảm bảo về kỹ thuật (tiêu chuẩn nền, mặt đường
và tải trọng thiết kế công trình) cho việc vận tải bằng cơ giới hiện nay và trong
tương lai, hệ thống giao thông đường huyện hầu hết không có hệ thống cọc tiêu,
biển báo nên cũng đã gây ảnh hưởng đến chất lượng khai thác và sử dụng.
Về vấn đề duy tu và bảo dưỡng đường giao thông nông thôn
Dù là đường nhỏ thì việc duy tu bảo dưỡng cũng rất tốn kém tại vùng nông
thôn và mọi nỗ lực cần được bỏ ra nên tập trung vào một mạng lưới nòng cốt
được lựa chọn một cách cẩn thận, đồng thời dựa vào các nguồn lực địa phương
càng nhiều càng tốt. Sự quản lý gắn liền với những ai tham gia vào quá trình chọn
lựa tuyến đường ngay từ ban đầu, vì nếu họ không có tiếng nói thì sẽ không muốn
đóng góp.
Đường nông thôn chủ yếu là đường đất nên rất dễ bị lầy lội, sụt lún do
nước mưa, nước lũ, mương máng chảy cạnh đường hoặc bắc qua đường, nước ngầm
mao dẫn từ dưới lên hoặc hai bên vào làm đường bị hỏng. Vào mùa mưa việc bảo
dưỡng đường lại càng khó khăn hơn nữa.
Từ trước đến nay, việc bảo dưỡng duy tu chưa được coi trọng và trên thực tế
việc bảo dưỡng cũng chưa đúng kỹ thuật. Bảo dưỡng thường xuyên có nghĩa là
phải đảm bảo con đường phục vụ tốt một cách liên tục.
Còn có rất nhiều loại hỏng hóc và sự cố cần được bảo dưỡng tuy nhiên thực
tế việc bảo dưỡng vẫn chưa thực sự được quan tâm. Tình trạng hiện nay của công tác
bảo dưỡng đường GTNT là dựa vào nguồn lao động công ích và phụ thuộc vào
mức sống từng địa phương, còn lại hầu như bị thả nổi. Điều quan trọng bây giờ là
phải nâng cao ý thức của mỗi người dân trong việc bảo vệ con đường, đồng thời
thay đổi nhận thức của mọi người từ các nhà quản lý về việc nâng cấp và bảo dưỡng
thường xuyên, tránh rơi vào tình trạng thích xây mới hơn là bảo dưỡng.
Về mặt quản lý nhà nước
Từ các bộ ngành đến các địa phương trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông địa phương, GTNT vẫn chưa được quan tâm một cách đầy đủ, chưa có
quy hoạch phát triển lâu dài, vẫn còn có những chắp vá và chưa đồng bộ.
Phát triển GTNT chưa kết hợp chặt chẽ với các cụm kinh tế, cụm dân cư, định
canh, định cư và an ninh quốc phòng.
Về tổ chức quản lý chuyên ngành từ các bộ, ban ngành đến các tỉnh, huyện
chưa có một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh, có huyện thì có phòng giao thông huyện,
có huyện thì hợp thành phòng giao thông công nghiệp hoặc giao thông xây dựng,
nhiều huyện không có đơn vị duy tu bảo dưỡng và sửa chữa đường giao thông.
Về công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn
Các địa phương chưa quan tâm đầy đủ về vấn đề duy tu bảo dưỡng vẫn còn
nặng nề trong công tác xây dựng và nâng cấp đường mới, do đó mà GTNT đã xuống
cấp nhanh chóng.
Chưa có quản lý chặt chẽ về quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật, độ bền vững của
công trình, khi có mưa lớn và lũ lụt xảy ra đã làm sụt lở đường sá, cầu cống bị
trôi, đường bị hỏng đã gây ách tắc giao thông.
Chưa thực hiện tốt công tác quản lý và duy tu sửa chữa đường và các công
trình trên đường. Trong khâu thi công nghiệm thu bàn giao, nhìn chung còn chưa
chặt chẽ, nhất là đường trong các dự án, đường của các xã tự huy động vốn.
Đa số các cán bộ huyện nói chung nắm chưa chắc tình hình đường sá trên
địa bàn huyện mình quản lý, số liệu báo cáo chưa chính xác, chưa có sổ sách theo
dõi tình trạng đường. Hệ thống đường giao thông xã không có bộ phận quản lý
giao thông rõ rệt.
Xác định các lĩnh vực ưu tiên cho hệ thống đường giao thông nông thôn
Ưu tiên cao nhất là các xã chưa có đường tiếp cận cơ bản, hoặc kết nối kém
với sự hỗ trợ của ngân sách trung ương.
Các khu vực kém phát triển hơn: tập trung vào mạng lưới đường cốt yếu,
đường tiếp cận cơ bản. Nguồn kinh phí chủ yếu là hỗ trợ từ trung ương và tăng
ngân sách địa phương trong thời gian tới.
Các khu vực kinh tế phát triển hơn: Chủ yếu là tự trang trải bằng ngân sách
địa phương và các nguồn khác (thu phí sử dụng của người hưởng lợi và đóng góp
của người dân) để đáp ứng nhu cầu cao hơn.
Về nguồn vốn cho phát triển giao thông nông thôn
Để huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển GTNT Nhà nước thực
hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, các cơ quan chức năng của
chính phủ hướng dẫn các địa phương xây dựng chương trình phát triển GTNT theo
cơ chế ban đầu là nhà nước và nhân dân cùng làm.
TT
Loại vùng
Mức đầu tư
(%)
Ngân sách địa
phương (%)
Đóng góp của
dân (%)
1
Vùng núi
80
20
0
2
Cao nguyên
60
30
10
3
Vùng đồng bằng
20
30
50
Nguồn: Viện chiến lược và phát triển giao thông vận tải
2.2. Thực trạng hệ thống đường giao thông nông thôn huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre
2.2.1. Tình hình chung về hệ thống đường giao thông nông thôn của huyện
2.2.1.1. Thực trạng hệ thống giao thông nông thôn huyện Châu Thành
2.2.1.1.1. Khái quát
Châu Thành có vị trí là cửa ngõ phía nam của tỉnh Bến Tre, tiếp giáp với tỉnh
Bình Dương và thị xã Đồng Xoài. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - Xã hội
của huyện đã có những bước phát triển và một trong những động lực thúc đẩy sự đi lên
chính là huyện luôn có chú trọng đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - Xã hội
đặc biệt là giao thông.
Do điều kiện địa hình tiếp giáp giữa miền núi cao nguyên và đồng bằng, lại
không có sông ngòi lớn nào chảy qua nên huyện không có giao thông thủy. Đường bộ
đảm nhận vai trò chính, phục vụ cho nhu cầu đi lại của người dân cũng như lưu thông
hàng hóa trong và ngoài huyện.
Với vị trí nằm ngoài bao quanh thị xã đồng xoài, nên hệ thống QL và đường tỉnh
có dạng hướng tâm về trung tâm thị xã. Cụ thể là QL 14 xuyên suốt qua huyện theo
hướng Đông –Tây về thị xã, huyện Bù Đăng trong tỉnh với các tỉnh vùng tây nguyên,
QL 13 xuyên suốt qua huyện theo hướng Bắc – Nam nối Châu Thành với Bình Dương
và Thành Phố Hồ Chí Minh và qua nước bạn Campuchia, qua huyện Lộc Ninh; ĐT 751
trong phạm vi tỉnh Bến Tre kéo dài từ cầu bà và đến Thị trấn Châu Thành, là trục đối
ngoại của tỉnh nối Châu Thành với tỉnh Tây Ninh, ĐT 756 (QL 14 (Minh Lập) – Lộc
Hiệp), ĐT 239. Với các trục hướng tâm nêu trên, hệ thống đường huyện như những
tuyến nhánh nối kết các điểm dân cư ra các trục hướng tâm và giữa các trục này với
nhau tạo ra mạng lưới giao thông liên hoàn rất thuận lợi cho người dân đi lại từ các xã
về trung tâm huyện và thị xã Đồng Xoài.
Hiện có 100% Các xã có đường ô tô đến trung tâm. Tuy nhiên, chất lượng mặt
đường chưa cao. Hầu hết là các đường cấp phối sỏi đỏ và đường đất, hệ thống rãnh
thoát nước dọc còn thiếu đồng bộ nên vào mùa mưa khả năng thoát nước kém, thường
tạo thành các dòng chảy mạnh gây sói lở nền, mặt đường, là nguyên nhân gây hư hỏng
đường đồng thời, tình trạng phương tiện vận tải hàng hóa chở quá tải đi trên các tuyến
đường huyện và xã cũng đã làm cho mặt đường nhanh chóng xuống cấp.
Theo số liệu báo cáo và khảo sát thực tế hệ thống đường bộ trên địa bàn huyện
có 680km, bao gồm:
- Tuyến QL đi qua địa bàn huyện với tổng chiều dài 40km.
- Tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 15,5km.
- 4 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 113,9km.
- 33 tuyến đường xã và liên xã với tổng chiều dài 510,6km.
Về chất lượng mặt đường:
- Có 81,05km đường BTN và láng nhựa chiếm 12,03.%.
- Đường cấp phối sỏi đỏ và đất có 592,64km chiếm đến 87,97%.
So sánh các chỉ tiêu về mật độ và tỷ lệ nhựa hóa đường bộ hiện nay của huyện
Châu Thành với các huyện khác của tỉnh, thể hiện như sau:
- Về mật độ đường so với diện tích tự nhiên cuả huyện Châu Thành đạt 1,726km
/km2.
- Về mật độ đường so với 1000 dân của huyện đạt 10,05km /1000 dân.
- Tỷ lệ nhựa hóa rât thấp, hiện chỉ là 13,03%, hầu hết là đường đất và cấp phối
sỏi đỏ, đều đã xuống cấp, khó khăn cho lưu thông nhất là vào mùa mưa.
Bảng so sánh các chỉ tiêu đường bộ trên địa bàn tỉnh Bến Tre
STT
Huyện
Mật Độ
km/km2
Mật Độ
km/1000 dân
Tỷ Lệ
Nhựa Hóa
1
Huyện Đồng Phú
0,69
8,14
8,6%
2
Huyện Hớn Quản
1,23
6.40
19,7%
3
Huyện Phước Long
0,70
6,90
21,1%
4
Huyện Lộc Ninh
0,63
0,48
25,4%
5
Huyện Bù Đăng
0,35
4,27
47,6%
6
Huyện Bù Đốp
0,77
5,77
22,7%
7
Huyện Châu Thành
1,726
10,05
2.2.1.1.2. Hệ thống giao thông đi qua địa bàn huyện
13,03%
a. Hiện trạng đường quốc lộ và đường tỉnh đi qua địa bàn huyện
Đường quốc lộ: Quốc lộ 13: Đoạn qua địa bàn huyện dài 18km, chạy từ cầu
Tham Rớt qua thị trấn Châu Thành đến ranh giới huyện Hớn Quản lộ giới 46m trong
nội thị và lộ giới 55m ngoài nội thị, đường 4 làn xe, bề rộng mặt đường B = 25m, diện
tích sử dụng 98,1ha. Quốc lộ 14: Đoạn qua địa bàn huyện dài 22km, chạy từ ngã tư thị
trấn Châu Thành đến ranh xã Minh Lập lộ giới 75m, mặt đường BTN bề rộng B =12m,
hiện đang nâng cấp mở rộng, diện tích sử dụng 160,29 ha.
Đường tỉnh: Có 2 trục chính với tổng chiều dài 15,5km, diện tích sử dụng
36,4ha bao gồm:
ĐT – 751: Đoạn qua địa bàn huyện dài 7km, đầu tuyến tại ngã tư Châu Thành
đi qua Thị trấn Châu Thành, xã Minh Long lộ giới 42m đường 2 làn xe, mặt đường
BTN bề rộng B = 7 - 10m, diện tích sử dụng 19,44ha.
ĐT 756: Đoạn qua địa bàn huyện dài 8,5km, đầu tuyến tại QL 14 (xã Minh Lập)
đi Lộc Hiệp lộ giới 42m đường 2 làn xe, mặt đường BTN bề rộng B = 6m, diện tích sử
dụng 16,96ha.
b. Hiện trạng hệ thống đường huyện
Có 14 tuyến, tổng chiều dài 113,9km, diện tích sử dụng đất 139,4ha.
ĐH1
139.4
5
16
3.2
2
x
Rất xấu
Xấu
TB
Tình trạng
mặt
đường
Tốt
2
Cấp phối, đất(km)
Tân Quan - Nha Bích (Đoạn 1)
BTN (km)
113.9
Kết cấu
DT chiếm đất (ha)
ĐƯỜNG HUYỆN
Lộ giới
Tên đường
Chiều rộng
(m)
Mặt
Mã
số
hiện trạng (km) Chiều dài
Bảng tổng hợp hệ thống đường huyện
Tân Quan - Nha Bích (Đoạn 2)
12.2
16
19.52
Tân Quan - Phước An (Đoạn 1)
2.5
12
3
Tân Quan - Phước An (Đoạn 2)
3.5
12
4.2
Minh Hưng - Minh Hòa - Minh
Thạnh (Đoạn 1)
2
16
3.2
Minh Hưng - Minh Hòa - Minh
Thạnh (Đoạn 2)
11.1
16
17.76
11.1
ĐH4
Đường 239
8.7
5
16
13.92
8.7
ĐH5
Ấp Mỹ Hưng
6.2
5
11
6.82
6.2
x
ĐH6
Đường Hòa Vinh
4.8
5
12
5.76
4.8
x
ĐH7
Đường Đồng Hưu - Minh
Thành
6.9
5
12
8.28
6.9
ĐH8
Đường Minh Thành - Bàu Nàm
7.2
5
12
8.64
7.2
x
ĐH9
Ranh Minh Hưng - Châu Thành
4.6
5
10
4.6
4.6
x
ĐH10 Đường đi Ấp 6
8.8
5
9
7.92
8.8
x
ĐH11
Đường Minh Thắng - Tân Quan
6.4
5
9
5.76
6.4
x
ĐH12
Trung tâm hành chính đi Tân
Quan
1.9
5
12
2.28
1.9
x
ĐH13
Nha Bích-Minh Thành-Minh
Hưng
6.5
5
12
7.8
6.5
x
18.6
5
9
16.74
18.6
x
3.5
12.2
x
2.5
x
ĐH2
ĐH3
ĐH14 Ngọc Lầu
5
3.5
2
x
x
x
x
c. Hiện trạng hệ thống đường xã và thị trấn
Thị trấn Châu Thành: Thị trấn Châu Thành là trung tâm kinh tế hành chính
của huyện với diện tích tự nhiên 3.196,8ha. Hệ thống đường xã có 13 tuyến lớn nhỏ
đan xen tổng chiều dài 25,37km, lộ giới 5 - 22.5m, diện tích bao chiếm 53,34ha có
chiều rộng từ 3 - 10m, chất lượng đường trung bình, mặt đường BTN cấp IV và nhiều
tuyến đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự nhiên đạt 1,157km/km 2.
Xã Nha Bích: Nha Bích là một xã trung du miền núi nằm trên QL 14 về phía
đông thị trấn Châu Thành và cách trung tâm huyện khoảng 17km gồm có 6 ấp với diện
tích tự nhiên 4.976,7ha. Hệ thống đường xã có 19 tuyến có tổng chiều dài 42,52km, lộ
giới 6m, diện tích bao chiếm 38,76ha có chiều rộng từ 6m, nền rộng 7m, chất lượng
đường trung bình chủ yếu là đường cấp phối, vào mùa mưa nhiều đoạn đường lầy lội,
trơn trượt, mật độ đường so với diện tích tự nhiên đạt 0,89km/km2.
Xã Minh Thành: Minh Thành là một xã trung du miền núi nằm trên QL 14 về
phía đông Thị trấn Châu Thành, cách trung tâm huyện khoảng 10km gồm có 5 ấp với
diện tích tự nhiên 5.157,7ha. Hệ thống đường xã có 32 tuyến lớn nhỏ đan xen có tổng
chiều dài 35,41km, lộ giới 6 - 12m, diện tích bao chiếm 82ha có chiều rộng từ 6 - 7m,
nền rộng 6- 7m, chất lượng đường trung bình chủ yếu là đường cấp phối sỏi đỏ, vào
mùa mưa nhiều đoạn đường lầy lội, trơn trượt, mật độ đường so với diện tích tự nhiên
đạt 1,133km/km2.
Xã Minh Lập: Minh Lập nằm về phía đông thi trấn Châu Thành và phía tây
tỉnh Bến Tre, cách trung tâm huyện khoảng 16km gồm có 7 ấp với diện tích tự nhiên
4.993ha. Hệ thống đường xã có 38 tuyến lớn nhỏ đan xen tổng chiều dài 43,46km, lộ
giới 7m, diện tích bao chiếm 69,93ha có chiều rộng 7m, nền rộng 7m, chất lượng
đường trung bình chủ yếu là đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự
nhiên đạt 0,92km/km2.
Xã Minh Hưng: Minh Hưng nằm về phía bắc huyện Châu Thành, cách trung
tâm huyện khoảng 6km gồm có 10 ấp với diện tích tự nhiên 6208.7ha. Hệ thống đường
xã có 99 tuyến lớn nhỏ đan xen tổng chiều dài 98,89km, lộ giới 5 - 10m, diện tích bao
chiếm 135,51ha có chiều rộng từ 5 – 10m, chất lượng đường trung bình chủ yếu là
đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự nhiên đạt 1,99 km/km2.
Xã Minh Long: Minh Long nằm về phía tây huyện Châu Thành, cách trung
tâm thị trấn huyện Châu Thành khoảng 06km gồm có 6 ấp với diện tích tự nhiên
3756,9ha. Hệ thống đường xã có 40 tuyến lớn nhỏ đan xen tổng chiều dài 47,35km, lộ
giới 5 -10m, diện tích bao chiếm 99ha có chiều rộng từ 5 – 10m, chất lượng đường
trung bình chủ yếu là đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự nhiên
đạt 1,715km/km2.
Xã Minh Thắng: Minh Thắng nằm về phía đông huyện Châu Thành, cách
trung tâm huyện khoảng 16km gồm có 7 ấp với diện tích tự nhiên 3.743ha. Hệ thống
đường xã có 18 tuyến lớn nhỏ đan xen tổng chiều dài 40,86km, lộ giới 4 - 18m, diện
tích bao chiếm 75,21ha có chiều rộng từ 4 – 10m, chất lượng đường trung bình chủ
yếu là đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự nhiên đạt
1,872km/km2.
Xã Quang Minh: Quang Minh nằm về phía bắc huyện Châu Thành, cách trung
tâm thị trấn huyện Châu Thành khoảng 20km gồm có 5 ấp với diện tích tự nhiên
2.906ha. Hệ thống đường xã có 10 tuyến, tổng chiều dài 32,95km, lộ giới 3 -10m, diện
tích bao chiếm 161,2ha có chiều rộng từ 3 – 10m, chất lượng đường trung bình chủ
yếu là đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự nhiên đạt 0,85km/km 2.
Xã Thành Tâm: Thành Tâm nằm về phía tây huyện Châu Thành, cách trung
tâm thị trấn huyện Châu Thành khoảng 3km gồm có 6 ấp với diện tích tự nhiên
4053.92ha. Hệ thống đường xã có 13 tuyến lớn nhỏ đan xen tổng chiều dài 37,30km,
lộ giới 5.5 - 7m, diện tích bao chiếm 52,22ha có chiều rộng từ 5.5 – 7m, chất lượng
đường trung bình chủ yếu là đường cấp phối sỏi đỏ, mật độ đường so với diện tích tự
nhiên đạt 0,933km/km2.
2.2.1.2. Thực trạng vốn đầu tư xây dựng công trình đường giao thông nông thôn
huyện Châu Thành
Sản phẩm của ngành xây dựng là sản phẩm cố định, trải dài theo tuyến, quá
trình thi công di động và mang tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào thời tiết trong quá
trình xây dựng công trình. Đây là một bất lợi cho ngành xây dựng giao thông dẫn
đến tăng và phát sinh chi phí trong quá trình xây dựng.
Việc thu hồi vốn xây dựng một cách trực tiếp là hết sức khó khăn và thời
gian thu hồi vốn kéo dài, vì vậy khả năng thu hồi vốn trực tiếp từ ngành xây dựng
giao thông không có tính thuyết phục với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thông thường việc thu hồi vốn đầu tư vào ngành giao thông vận tải được thực hiện
gián tiếp thông qua thu thuế và các khoản thu khác do Nhà nước đảm nhận. Vì vậy
trong thời gian qua nguồn vốn cho xây dựng giao thông chủ yếu là ngân sách Nhà
nước gánh vác.
Tuy lượng vốn đầu tư vào giao thông thì lớn, thời gian thu hồi vốn lâu và ít
lợi nhuận song đó là việc làm hết sức cấp bách và rất cần thiết trong giai đoạn hiện
nay để thực hiện công việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với quan niệm
của Đảng là đầu tư xây dựng giao thông không chỉ thu lợi nhuận mà còn mang
tính phục vụ văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng. Hơn thế nữa nó còn có vai trò
quan trọng là một ngành có nhiều liên quan đến nhiều ngành khác, hỗ trợ thúc đẩy
nền kinh tế quốc dân.
Nguồn vốn sự nghiệp giao thông của huyện Châu Thành qua các năm gần đây
đã có sự điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu sửa chữa, xây mới các tuyến đường GTNT
phục vụ đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân. Điều đó được thể hiện qua Quyết
định giao chỉ tiêu, kế hoạch vốn sự nghiệp các năm như sau:
Đơn vị tính: triệu đồng
ST
T
Năm
Công trình
chuyển tiếp
Công trình
khởi công mới
Trả nợ tất
toán
1
2011
1.250
0
0
1.250
2
2012
1.700
1.700
0
3.400
3
2013
1.600
2.400
0
4.000
4
2014
2.000
2.000
900
4.900
Tổng vốn
2.2.1.3. Đánh giá về hiện trạng mạng lưới giao thông huyện
Nhìn chung mạng lưới đường huyện cơ bản đã nối thông từ huyện tới trung tâm
các xã và các khu dân cư tập trung trên địa bàn huyện. Nhu cầu đi lại, vận chuyển
hàng hóa của nhân dân và giao lưu kinh tế bước đầu có cải thiện. Tuy nhiên tỷ lệ
đường cấp phối còn khá cao làm ảnh hưởng tới việc đi lại của người dân nhất là vào
mùa mưa.
Về mạng lưới đường xã, các trục đường cơ bản đã được hình thành theo các
hướng tuyến liên xã, nhưng hệ thống đường nội xã, liên ấp phục vụ cho vận chuyển
hàng hóa và đi lại trong quá trình sản xuất và đời sống hàng ngày còn thiếu và nhiều
bất cập, phân bố chưa đồng đều. Hệ thống đường đất, đường mòn hình thành tự phát,
hướng tuyến ngoằn nghèo, nhiều đoạn bán kính cong quá nhỏ và hẹp, là trở ngại quá
trình cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng tới việc trao đổi mua bán các
sản phẩm nông nghiệp do các phương tiện có sức chuyên chở lớn không thể lưu thông.
Qua khảo sát nhiều tuyến đường cấp phối đã hư hại, thậm chí có những đoạn hư
hỏng không thể đi được, người dân phải đi vào đường tránh tự phát. Những đường
tránh tự phát thường là vào trong các rẫy, nhỏ hẹp dạng đường mòn, khó đi và dễ xảy
ra tai nạn, hoặc phải đi đường vòng qua các xã khác gây ảnh hưởng giao thông cho
những người dân sống ở khu vực đó. Những yếu tố về kinh tế, giáo dục và y tế cộng
đồng đều bị chi phối và ảnh hưởng.
Châu Thành là một huyện hầu như các tuyến đường xã thuộc khu vực đồi núi,
qua các con suối, hệ thống thoát nước không đảm bảo và cơ sở hạ tầng giao thông
thiếu nghiêm trọng gây nên những nguy hại không lường trước được cho người dân
khi lưu thông. Những suối này không đảm bảo thoát nước trong mùa mưa nên gây
nguy hại cho đường khu vực bên suối. Người dân không ra vào khu vực sống được do
những bất cập này để lại. Đồng thời hai bên đường cỏ, cây dại tranh nhau mọc rất
nhiều che chắn tầm nhìn và bề mặt một số con đường hiện hữu.
Bên cạnh đó việc huy động vốn để xây dựng GTNT ở một số địa phương vùng
sâu, nơi có mật độ dân cư thấp, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nguồn vốn huy
động đạt rất thấp ,không đủ để đầu tư xây dựng công trình. Nguồn lực đầu tư là
nguyên nhân chính làm cản trở quá trình phát triển GTNT của huyện. Một số đoạn khó
đi lại khi đường xá hư hại một số người dân tự phát sửa chữa nhưng do cơ sở hạ tầng
thoát nước không đảm bảo nên vào mùa mưa lại hư hại.
Trong phương hướng quy hoạch sẽ tận dụng nâng cấp, mở rộng và kéo dài các
tuyến hiện có, làm mới một số đường có tính chiến lược và quan trọng phục vụ cho
phát triển kinh tế - Xã hội. Nắn thẳng những đoạn, đường có bán kính cong nhỏ, phát
triển thêm một số đường liên xã. Đặc biệt chú ý đến hệ thống thoát nước giao thông.
Việc nâng cấp xây dựng các cống thoát nước là cần thiết, đóng vai trò quan trọng, đi
đôi với việc sửa chữa và làm mới các con đường.
Nhìn chung hiện trạng giao thông huyện Châu Thành còn tồn tại những khó
khăn bất cập cần có những tầm nhìn quy hoạch giao thông chuyên sâu và thực sự hữu
ích, góp phần giải quyết đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, thỏa mãn nhu cầu vận
tải và góp phần đưa Châu Thành đi lên vươn tới một tầm cao mới.
2.2.1.4. Thực trạng về nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách của huyện
a. Luồng tuyến vận tải
Do huyện không có bến xe khách, nên khách có nhu cầu đi lại liên tỉnh sẽ đến
bến xe khách tỉnh Bến Tre tại thị xã Đồng Xoài hoặc đón xe ngay trên QL14, QL 13.
Cũng như các huyện khác của tỉnh Bến Tre, lượng khách có nhu cầu đi lại với nhiều
tỉnh trong cả nước, trong đó luồng khách đi về Thành Phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
Đông Nam Bộ chiếm tỷ lệ rất lớn. Hiện huyện không có tuyến vận tải hành khách cố
định nội huyện, người dân có nhu cầu đi lại phần lớn sử dụng phương tiện cá nhân,
chủ yếu là xe máy.
Về vận tải hàng hóa, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đặc biệt là thành phố
Hồ Chí Minh luôn là thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Bến Tre
nói chung và của huyện Châu Thành nói riêng. Đồng thời cũng là nơi cung cấp lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, máy móc, thiết bị và vật tư nông nghiệp cho huyện.
Từ các mối quan hệ nêu trên hình thành nên hai tuyến vận tải hàng hóa như sau:
- Hàng hóa vận chuyển đến huyện: Bao gồm các mặt hàng lương thực, hàng tiêu
dùng, máy móc thiết bị và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp …được vận chuyển từ
các tỉnh khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến huyện. Luồng hàng hóa đi,
đến huyện chủ yếu được vận chuyển trên các tuyến đường tỉnh.
- Hàng hóa vận chuyển đi từ huyện: Bao gồm các mặt hàng nông sản, nguyên
liệu thô đã qua sơ chế biến đến các chợ đầu mối, nhà máy chế biến, cảng biển chủ yếu
tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương.
- Về luồng hàng nội huyện: Được vận chuyển từ trung tâm huyện đến các xã
giữa các xã, được vận chuyển trên các tuyến đường huyện và đường xã.
b. Phương tiện vận tải
Theo số liệu thống kê, năm 2008 trên địa bàn huyện có 346 xe tải do lực lượng
cá thể đăng ký hoạt động với tổng trọng tải là 865 tấn, trọng tải bình quân 2,5tấn/xe.
Tỷ lệ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2004 – 2008 đạt 28,7%/năm. Trong những năm
gần đây một số hộ đã tự đầu tư xe tải nhẹ tự vận chuyển nông sản tới các nhà máy chế
biến và điểm thu mua để đảm bảo lợi nhuận. Ngoài số xe được đăng kinh doanh, trên
điạ bàn huyện hiện vẫn còn các xe cải tiến đang hoạt động. Đây là những phương tiện
do người dân tự chế từ máy nông nghiệp không được cấp giấy lưu hành,nhưng vẫn lưu
thông trên các tuyến đường. Loại phương tiện lưu thông trên đường là một trong
những nguyên nhân gây hư hại mặt đường. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng các xe
cải tiến đã vận chuyển khối lượng không nhỏ hàng nông sản, vật tư nông nghiệp trên
địa bàn huyện đặc biệt là vùng sâu có đường bộ kém phát triển.
Thống kê phương tiện vận tải hàng hóa do huyện Châu Thành quản lý
Tăng bình
Chỉ tiêu
Đơn vị 2004 2005 2006 2007 2008
quân
Số phương tiện
Chiếc
126
127
268
313
346
28,7%
Tấn phương tiện
Tấn
632
637
704
835
865
8,2%
Trọng tải bình
Tấn/xe
5,0
5,0
2,6
2,7
2,5
-16,0%
quân
c. Sản lượng vận tải
Vận tải hàng hóa trên địa bàn huyện hầu hết do lực lượng tư nhân đảm nhiệm.
Theo số liệu thống kê năm 2008 tổng khối lượng do các đơn vị vận tải cá thể đăng ký
hoạt động trên địa bàn huyện đảm nhận đạt 108,9 ngàn tấn, lượng luân chuyển đạt
10,17 triệu tấn/km, cự ly vận chuyển bình quân là 94,3km.
Về nguyên lý, sản lượng vận tải do lực lượng vận tải của huyện vận chuyển tối
đa chỉ đạt 80 – 90% khối lượng theo thống kê. Do vậy sẽ có một lượng hàng hóa vận
chuyển đi đến huyện do lực lượng vận tải bên ngoài huyện đảm nhận.
Sản lượng vận tải thực hiện giai đoạn
Chỉ tiêu
Vận chuyển
(1.000 tấn)
Luân chuyển
(triệu tấn/km)
Cự ly vận chuyển
bình quân (km)
2004
2005
2006
2007
2008
Tăng bình
quân
93,96
94,20
95,00
106,00
108,09
3,6%
8,47
8,50
9,00
10,00
10,17.
4,7%
90,1
90,2
94,7
94,3
94,3
1,1%
d. Công trình phục vụ vận tải
Về vận tải hàng hóa, hầu hết nông sản được người dân hợp đồng với nhà xe vận
tải từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Đối với những khu vực mà đường xá không cho
phép xe có trọng tải lớn lưu thông, nông sản được người dân vận chuyển bằng xe công
nông từ vườn tới vị trí thuận lợi hơn cho nhà xe, thường là những bãi đất trống dọc
theo các trục giao thông chính trên địa bàn huyện. Do quy mô nguồn hàng không tập
trung với khối lượng lớn nên chưa hình thành bến xe tải trên địa bàn huyện.
Về vận tải hành khách, hiện tại trên địa bàn chưa có xe khách. Người dân có
nhu cầu đi lại sẽ đón xe khách theo dọc các trục QL14, QL13… hoặc về bến xe khách
tỉnh Bến Tre tại thị xã Đồng Xoài.
2.2.2. Quản lý nhà nước của UBND cấp huyện về hệ thống đường giao thông
nông thôn
Quản lý hệ thống đường GTNT là một bộ phận quan trọng trong công tác
quản lý của nhà nước về đường GTNT. Nếu công tác quản lý đường GTNT không làm
tốt sẽ gây lãng phí rất lớn, các công trình giao thông xuống cấp nhanh do đó công tác
quản lý phải được thông suốt từ trung ương đến địa phương, đến huyện đến xã và
đến từng thôn xóm.
2.2.2.1. Cơ chế quản lý của cấp huyện về hệ thống đường giao thông nông thôn
Huyện dựa vào quy hoạch được duyệt cần sắp xếp ưu tiên thống nhất với Sở
kế hoạch và đầu tư để ghi kế hoạch đầu tư cho từng địa phương.
Cơ chế hỗ trợ đối với các dự án GTNT trên địa bàn huyện Châu Thành thì
được hỗ trợ như sau: Các xã có nhu cầu xây dựng đường GTNT mới trình UBND
huyện xem xét và hỗ trợ 70% kinh phí dự án từ nguồn quỹ của UBND huyện, 30%
kinh phí dự án do nhân dân hưởng lợi từ dự án đóng góp để xây dựng.
2.2.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý của cấp huyện về hệ thống đường giao thông
nông thôn
Đối với UBND thành phố: Dựa vào ngân sách thành phố phân bổ cho đường
GTNT phối hợp cân đối với các địa phương, huyện theo quy hoạch phát triển chung
của thành phố và các huyện. Hoàn thiện việc xây dựng các cơ chế chính sách, quy
trình quy phạm, các tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật GTNT.
Tổ chức kỹ thuật, quản lý an toàn giao thông vận tải trên địa bàn nông thôn.
Sở Giao thông công chính tham mưu cho UBND thành phố về xây dựng quy hoạch,
quy hoạch mạng lưới giao thông gắn với việc phát triển kinh tế của huyện. Hướng
dẫn quản lý thống nhất chất lượng kỹ thuật các công trình giao thông. Hướng dẫn
việc khai thác hợp lý các nguồn vật liệu tại chỗ nhằm giảm chi phí, nâng cao chất
lượng công trình, xây dựng cơ chế, biện pháp tạo vốn sử dụng hợp lý nguồn vốn hỗ
trợ cho GTNT. Xác định các thứ tự ưu tiên, theo dõi giúp đỡ các địa phương chỉ
đạo phong trào GTNT và tổng kết rút kinh nghiệm.
Đối với cấp huyện: Xuất phát từ việc phân cấp đường GTNT là đường từ
huyện tới đường liên xã, liên thôn nên sự lãnh đạo, chỉ đạo quản lý và điều hành ở
các huyện, xác định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển đường GTNT
trong phạm vi huyện quyết định. Các biện pháp cụ thể về huy động các nguồn lực
cho giao thông, chỉ đạo các chiến dịch làm đường GTNT trên địa bàn. Kêu gọi vốn
đầu tư cho các công trình, quyết định về các vấn đề đất đai, giải toả có liên quan đến
việc phát triển đường giao GTNT, phân cấp việc sửa chữa đường cho các xã, thị trấn.
2.2.2.3. Trách nhiệm quản lý của cấp huyện về hệ thống đường giao thông nông
thôn
Quy định về tổ chức quản lý đường bộ nói chung và hệ thống đường GTNT
nói riêng đã được nêu trong Nghị định 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010
của Chính phủ ban hành Cụ thể:
- Đối với các tuyến đường tỉnh, đường đô thị: Việc phân loại và điều chỉnh
hệ thống đường tỉnh, đường đô thị do Chủ tịch UBND thành phố quyết định sau khi
đã có văn bản thoả thuận của Bộ Giao thông vận tải. Hệ thống các tuyến đường
tỉnh, đường đô thị do thành phố quản lý đồng thời UBND thành phố có trách nhiệm
tổ chức xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển hệ thống đường tỉnh, đường đô
thị, đường huyện, đường xã, phù hợp với quy hoạch kết cấu cơ sở hạ tầng giao
thông đường bộ chung của thành phố và cả nước, phê duyệt và trình duyệt theo cấp.
Sở Giao thông vận tải là cơ quan tham mưu chính cho UBND thành phố trong
việc quản lý, bảo dưỡng và khai thác hệ thống đường tỉnh, đường đô thị; đồng thời
thường xuyên cung cấp các vấn đề liên quan đến chuyên môn của ngành cho UBND
thành phố và chịu hoàn toàn về mặt kỹ thuật đồng thời hỗ trợ cho phòng Hạ tầng
kinh tế huyện về các vấn đề có liên quan đến ngành giao thông vận tải nói chung
và GTNT nói riêng.
- Đối với các tuyến đường huyện: Các tuyến đường huyện do UBND huyện
quản lý và chịu trách nhiệm về xây dựng, khai thác và duy tu sửa chữa thường xuyên
của các tuyến đường theo quy định của UBND tỉnh. Riêng vấn đề quản lý, sử dụng
đất trong và ngoài hành lang an toàn giao thông đối với các tuyến đường trong
huyện, UBND huyện có trách nhiệm phổ biến tới từng xã trong huyện về tổ chức
thực hiện biện pháp bảo vệ hành lang an toàn đường bộ và những quy định của
pháp luật về vấn đề này; đồng thời xử lý kịp thời các trường hợp lấn chiếm hoặc sử
dụng trái phép đất hành lang an toàn đường bộ.
- Đối với các tuyến đường xã: UBND xã có trách nhiệm quản lý khai thác
và tổ chức bảo dưỡng các tuyến đường bộ được giao trên địa bàn xã. Đồng thời
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhân dân trong xã các quy định về phạm vi đất
dành cho đường bộ và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ song song với
việc sử dụng đất trong và ngoài hành lang an toàn đường bộ theo quy định của pháp
luật.
Hàng năm xã xây dựng kế hoạch và lập các dự án đầu tư nâng cấp các tuyến
đường trong xã và trình UBND huyện phê duyệt và huyện có kế hoạch đầu tư, đồng
thời thường xuyên báo cáo định kì về GTNT của xã theo yêu cầu của phòng Hạ tầng
kinh tế huyện. UBND xã cần bố trí cán bộ chuyên trách về giao thông có trình độ
và nghiệp vụ về giao thông.
Đối với đường thôn xóm và đường sản xuất, đường nội đồng: các tuyến
đường này do UBND xã chịu trách nhiệm quản lý, song UBND xã có thể phân công
cho trưởng thôn, xóm. Trưởng thôn, xóm có trách nhiệm lập kế hoạch về sửa chữa,
nâng cấp hàng năm đối với những tuyến đường trên địa bàn thôn, xóm và thông
qua hội nghị với toàn dân, sau đó trình UBND xã quyết định.
Huyện quản lý đối với các tuyến đường trong phạm vi toàn huyện. Giao nhiệm
vụ cho cơ quan chuyên môn của huyện trực tiếp quản lý các đường tỉnh, đường đô thị
được tỉnh giao và quản lý hệ thống đường huyện.
Bảng phân cấp trách nhiệm quản lý đường giao thông nông thôn của Huyện
Cơ quan quản lý
Loại đường
Cơ quan quản lý cấp trung
ương
+ Bộ Giao thông vận tải
Quản lý hệ thống đường QL trên cả nước
+ Cục đường bộ Việt Nam
Quản lý các đoạn tuyến QL do Bộ giao thông vận
tải giao
+ UBND tỉnh, thành phố
Quản lý một số đoạn tuyến QL do Cục đường bộ
trình Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải
Cơ quan quản lý cấp địa
phương
+ UBND tỉnh, thành phố
Quản lý các hệ thống đường bộ địa phương, tổ
chức quản lý các hệ thống đường tỉnh, đường đô thị
+ Sở giao thông vận tải
Quản lý các đoạn tuyến QL, đường đô thị, đường
tỉnh.
+ UBND huyện
Quản lý đường trong phạm vi huyện
+ UBND xã
Quản lý đường xã trong phạm vi xã
+ Cộng đồng dân cư
Quản lý đường trong phạm vi thôn, xóm, đường
nội đồng
2.2.2.4. Phân cấp quản lý của cấp huyện về hệ thống đường giao thông nông
thôn
Căn cứ vào tình trạng đường giao thông liên xã thuộc huyện quản lý, thì việc
phân cấp quản lý được huyện thực hiện theo nguyên tắc:
- Việc sử dụng, duy tu bảo dưỡng các tuyến đường liên xã giao trách nhiệm cho
UBND xã, thị trấn thực hiện quản lý theo địa giới hành chính.
- Các xã, thị trấn được quyền sử lý các đơn vị, cá nhân vi phạm nhằm bảo vệ
an toàn hệ thống đường và đảm bảo giao thông thông suốt trong mọi tình huống.
- Bảo đảm tốt công tác duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, hạn chế đến mức
thấp nhất tình trạng xuống cấp của đường.
Quản lý sử dụng và chế độ duy tu bảo dưỡng của cấp Huyện về hệ thống
đường giao thông nông thôn
Các đơn vị quản lý GTNT trên địa bàn huyện phải giữ nguyên các công trình
đã xây dựng, không được xây dựng cơi nới thêm.
Tuỳ theo từng tuyến đường cho phép các loại xe có trọng tải từ 5 - 7 tấn được
qua lại, các xe có trọng tải lớn phải xin phép UBND các địa phương quản lý và
tuân theo những quy định về giao thông đường bộ.
Các đơn vị được giao quản lý các tuyến đường có trách nhiệm duy tu, bảo
dưỡng thường xuyên và phải đạt được các yêu cầu kỹ thuật:
- Nền đường: Bảo đảm ổn định không bị sói, sạt lở.
- Mặt đường: Bằng phẳng, không có ổ gà, không đọng nước khi mưa.
- Công trình: Không bị tắc, sói lở và phải được tiêu thoát nước thường xuyên.
Tiền vật liệu cho duy tu, bảo dưỡng được cân đối giữa ngân sách huyện và
theo kế hoạch phân cấp ngân sách của thành phố và huyện. Các tuyến đường mới được
nâng cấp sau thời gian nghiệm thu đưa vào sử dụng từ 12, 18 và 24 tháng tuỳ theo
từng loại đường.
Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của nhà nước hỗ trợ cho dân làm nền đường,
trong đó tỉnh hỗ trợ nhựa đường, công tác lu lèn, hỗ trợ xe lu, gầm cầu, thuốc nổ.
Tạo vốn cho GTNT là nội dung quan trọng quyết định kết quả cuối cùng
của công tác phát triển GTNT của huyện trong những năm qua. Việc giải quyết vốn
dựa trên quan điểm: phát triển GTNT là sự nghiệp chính đáng của toàn dân, dân làm
là chính, nhà nước hỗ trợ và tổ chức thực hiện theo phương châm dân biết, dân làm,
dân sử dụng và dân quản lý. Quan điểm này phải được thể hiện thông qua sự giải
quyết các vấn đề từ nguồn vốn để tổ chức thực hiện đến việc bảo dưỡng, quản lý
công trình.
2.3. Đánh giá công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống đường giao thông
nông thôn huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre
2.3.1. Mặt đạt được
Xây dựng đường GTNT là một trong những tiêu chí nằm trong chương trình
nông thôn mới nên được UBND huyện tập trung đầu tư xây dựng nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội của địa phương.
Ủy ban nhân dân huyện đã xây dựng và hoàn thiện xong các đề án quy hoạch
GTNT trên địa bàn, quy hoạch GTNT huyện Châu Thành – tỉnh Bến Tre đến năm
2020 và tầm nhìn sau 2020. Đây là cơ sở để chính quyền các cấp triển khai đề án đồng
bộ trên địa bàn huyện và xã, huy động được tối đa các nguồn lực cần thiết cho sự phát
triển của hệ thống giao thông cũng như phát triển chung của toàn huyện; đồng thời
triển khai giúp người dân nắm bắt hướng đi, thu hút sự quan tâm của toàn dân địa
phương vào công cuộc phát triển chung.
Hiện có 100% Các xã có đường ô tô đến trung tâm tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong việc đi lại và giao thương.
Đã có sự tham gia của người dân vào công tác quản lý và giám sát hệ thống
đường GTNT cũng như thu hút được sự tham gia đóng góp của nhân dân vào các công
trình giao thông làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Người dân địa phương rất phấn khởi về các dự án làm đường giao thông của
huyện và của xã, bởi vì lợi ích to lớn mà đường giao thông sẽ mang lại cho họ. Có
nhiều hộ cho rằng cuộc sống sống của gia đình họ được cải thiện nhờ có đường
GTNT. Sức lao động trong nông thôn được giải phóng và họ không phải gồng gánh
trĩu nặng như trước đây nữa. Nhiều người dân đã được chăm sóc sức khoẻ tại trạm y tế
của xã nhất là những phụ nữ và trẻ em. Việc đi đến bệnh viện, ra chợ hay đi đến
trường học trở nên thuận tiện hơn nhiều, giảm được nhiều thời gian và chí phí. Thị
trường cũng như việc buôn bán của người dân được cải thiện.
2.3.2. Mặt chưa đạt được
Huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre là một huyện miền núi trung du nên rất khó
khăn trong việc quy hoạch và phát triển hệ thống đường GTNT. Do địa hình tiếp giáp
giữa miền núi cao nguyên và đồng bằng nên vào mùa mưa nước chảy mạnh gây sói lở
làm ảnh hưởng đến chất lượng cũng như tuổi thọ của hệ thống GTNT.
Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là hệ thống giao thông đường
xã đang là những khó khăn cho việc đi lại và vận chuyển hàng. Hệ thống cơ sở hạ tầng
đặc biệt là đường xá không đạt yêu cầu về chất lượng và số lượng: Chưa đồng bộ, liên
hoàn. Tỷ lệ nhựa hóa rất thấp, hiện chỉ là 12,03%, hầu hết là đường đất và cấp phối sỏi
đỏ, đều đã xuống cấp, khó khăn cho lưu thông nhất là vào mùa mưa.
Nguồn lực còn hạn chế (vốn, lao động, đất đai…), mức sống của dân cư nông
thôn nói chung còn thấp và tổng mức phí mà họ phải đóng cho địa phương còn cao, tỉ
lệ các hộ nghèo còn ở mức cao cũng như nhận thức của người dân nông thôn còn
chưa cao nên việc xây dựng các con đường GTNT cho người dân nông thôn còn gặp
rất nhiều khó khăn về đền bù giải phóng mặt bằng làm chậm tiến độ thi công.
Hệ thống chính sách nhất là chính sách đầu tư của mọi thành phần kinh tế còn
cần phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả đầu tư, kết hợp với tuyên truyền giáo
dục nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng để họ từ chỗ thụ động trông chờ vào
nhà nước trở nên tự giác tham gia tích cực vào các chương trình làm đường GTNT.
Mức bồi thường và những quyền lợi của người dân bị ảnh hưởng bởi dự án đường GTNT
chưa được đảm bảo làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Các quy hoạch chung về hệ thống đường GTNT chưa được công bố rộng rải để
người dân được biết và tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến.
Thu nhập bình quân của người dân nông thôn còn thấp mà các khoản phí
đóng góp thì lại cao nhưng chất lượng các con đường thì lại chưa cao, thời gian
thi công thì kéo dài và theo thời gian nó xuống cấp nhanh chóng. Các nguồn lực
cho việc bảo dưỡng định kỳ tại địa phương lại rất ít. Nên các con đường bị xuống
cấp gây bụi bặm và đá văng trúng người khi ô tô, xe máy chạy qua.
Đặc thù của các công tình GTNT là phân tán và trải rộng trên các địa bàn.
Việc thi công xây dựng còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu địa
hình và nguồn vốn của địa phương. Bên cạnh đó chưa có chính sách huy động sự
tham gia đóng góp của các thành phần kinh tế để cùng với người dân xây dựng các
công trình giao thông mà vẫn áp dụng cách tiếp cận dựa vào cung cấp là chính. Cơ
chế chúng ta chưa thực sự rộng mở, vẫn rắp theo khuôn khổ và không có tính năng
động để điều chỉnh cho sát với thực tế yêu cầu.
Việc quản lý hiện nay vẫn mang nặng tính chất áp đặt từ trên xuống, không
bám sát thực tế và do vậy còn thiếu các qui định rõ ràng, không phù hợp với thực tế
đang phát triển. Việc xây dựng quy định chỉ mang tính tương đối, không phù hợp với
điều kiện, thực tế của nhiều vùng hoặc đôi khi chỉ mang tính chất cho có. Bên cạnh đó
vẫn còn thiếu các hướng dẫn cụ thể để có thể quản lý tốt lĩnh vực xây dựng, quản lý và
khai thác các công trình GTNT.
Cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, năng lực cán bộ quản lý, điều hành còn hạn
chế làm ảnh hưởng đến quá trình xây dựng, quản lý hệ thống đường GTNT một cách
khoa học và hợp lý.
Công tác kiểm tra giám sát quá trình duy tu bảo dưỡng sửa chữa chưa thường
xuyên. Chưa có kế hoạch và biện pháp cụ thể để tổ chức quản lý, khai thác hiệu quả
các công trình giao thông.
Quy mô đường còn nhỏ hẹp, cầu cống vừa thiếu về số lượng vừa kém về
chất lượng và hạn chế về tải trọng; chất lượng đường còn kém (cả về nền và hệ
thống cống rãnh thoát nước), chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của các
chủng loại phương tiện vận tải có tải trọng lớn và nhu cầu đi lại ngày càng cao của
nhân dân.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Huyện Châu Thành có địa hình chủ yếu là đồi núi, lượng mưa trung bình hàng
năm lớn nên ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng và quản lý hệ thống đường GTNT.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của trung ương và địa phương thể hiện
nhiều mặt hạn chế như: còn mang nặng tính áp đặt từ trên xuống, không phù hợp với
thực tế phát triển…
Chưa được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Đội ngũ quản lý còn kiêm nhiệm nhiều do chưa đủ về số lượng cũng như còn
hạn chế về năng lực.
Năng lực của các nhà thầu tại địa phương cũng còn nhiều bất cập chưa đạt
được yêu cầu trong tình hình mới.
Tổ chức bộ máy quản lý chưa có một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh.
Công tác tổ chức nghiệm thu, bàn giao công trình giao thông nông thôn chưa
được thực hiện theo đúng quy trình, nguyên tắc.
Công tác phân công, phân cấp trong quản lý hệ thống GTNT chưa được UBND
huyện Châu Thành quan tâm đúng mức.
Vốn đầu tư cho hệ thống đường GTNT còn hạn chế, kể cả vốn từ ngân sách nhà
nước cũng như vốn huy động của địa phương.
2.4. Một số giải pháp và kiến nghị về quản lý hệ thống đường giao thông nông
thôn của huyện trong thời gian tới
2.4.1. Định hướng
2.4.1.1. Định hướng việc đầu tư xây dựng công trình giao thông nông thôn trên
địa bàn Huyện
Ban quản lý dự án xã, thôn được sử dụng kinh phí thu từ các công trình giao
thông công cộng, từ nguồn phân bổ của huyện, tiền hỗ trợ từ các tổ chức, đơn vị tài
trợ (nếu có)… để duy tu và bảo dưỡng các công trình GTNT, đảm bảo cho công
trình ngày càng bền vững và phát huy hiệu quả.
GTNT do nhà nước và nhân dân cùng đầu tư xây dựng, được nhà nước
xem xét cấp kinh phí hỗ trợ trong các trường hợp: Cải tạo, nâng cấp, mở rộng
qui mô hoặc khôi phục công trình bị thiên tai phá hoại, theo dự án đầu tư xây
dựng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vốn để xây dựng công trình GTNT
theo qui định của Nhà nước và pháp luật. Người dân được tham gia vào các giai đoạn
của dự án như: giai đoạn chuẩn bị dự án, lập kế hoạch, thiết kế xây dựng, giám sát thi
công và quản lý sử dụng. Trước khi khởi công xây dựng công trình phải hình thành
tổ chức quản lý sử dụng và duy tu bảo dưỡng công trình để người dân có thể làm
chủ hoặc tham gia làm chủ đầu tư xây dựng.
2.4.1.2. Định hướng về công tác quản lý công trình giao thông nông thôn Huyện
Nâng cao năng lực cán bộ quản lý, điều hành. Tiếp tục rà soát điều chỉnh qui
hoạch, kế hoạch đầu tư theo định hướng phát triển hợp lý, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ đổi mới. Tăng cường kiểm tra giám sát quá trình duy tu bảo dưỡng sửa
chữa thường xuyên đảm bảo quản lý khai thác bền vững, có hiệu quả và bảo vệ hành
lang giao thông nói chung và GTNT nói riêng, giữ gìn môi trường sinh thái xung quanh
các con đường giao thông của huyện và của các xã.
- Chủ tịch UBND các xã, thị trấn củng cố, kiện toàn ban quản lý công trình
giao thông, tổ chức kiểm tra, quản lý và khai thác hợp lý, sử dụng các công trình
giao thông đúng mục đích đảm bảo cho giao thông thông suốt và không bị ách tắc.
- Kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm công trình,
các hành vi lấn chiếm đường GTNT để sử dụng vào mục đích cá nhân.
- Phòng Kinh tế và Hạ tầng hướng dẫn UBND các xã, thị trấn, các Ban quản lý
công trình giao thông về quy trình khai thác, bảo vệ, duy tu và bảo dưỡng công trình;
đề xuất kế hoạch và biện pháp cụ thể để tổ chức quản lý, khai thác hiệu quả các
công trình giao thông.
2.4.2. Các giải pháp quản lý nhà nước đối với hệ thống đường giao thông nông
thôn huyện Châu Thành
2.4.2.1. Huy động vốn cho các công trình giao thông nông thôn một cách hợp
lý
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định để thực hiện mục tiêu mà các dự án đề ra. Xây
dựng các công trình giao thông nguồn vốn lại chiếm rất lớn so với các công trình xây
dựng khác của kết cấu hạ tầng nông thôn như: điện, đường, trường, trạm. Thực tế
cho thấy rằng muốn có một con đường về đến tận thôn, xóm để xe ô tô có thể đi
được thông suốt quanh năm thì phải cần đến hàng tỷ đồng. Nên để xây dựng hoàn
chỉnh mạng lưới GTNT sẽ rất tốn kém và phải huy động từ nhiều nguồn vốn khác
nhau.
Vấn đề đầu tư vốn để xây dựng mạng lưới đường GTNT trong huyện là cần
thiết nhằm tạo tiền đề phát triển nền kinh tế xã hội cũng như phát triển các ngành
khác. Do vậy, lãnh đạo huyện cần quan tâm đến các vấn đề sau: Tranh thủ sự hỗ trợ
từ ngân sách Trung ương, thành phố; Huy động sự đóng góp của các cơ sở kinh tế
đóng trên địa bàn huyện; Huy động các nguồn vốn của các đơn vị thi công các tuyến
đường; Tạo điều kiện thuận lợi để tư nhân bỏ vốn đầu tư các công trình (áp dụng
hình thức BOT); Huy động dân trong huyện đóng góp bằng nhiều hình thức khác
nhau: tiền, ngày công, vật liệu …
Cơ cấu nguồn vốn dành cho hệ thống đường GTNT trong huyện, dự kiến:
- Vốn các chương trình dự án: 30%; Vốn ngân sách huyện, tỉnh: 40%; Vốn
dân đóng góp: 30%
Trong điều kiện đất nước ta nền kinh tế còn ở vị thế rất thấp. Nhân dân, nhất là
người nông dân còn nghèo, các sản phẩm họ làm ra còn ít lại rẻ. Các vấn đề sản
xuất để thoát nghèo cần rất nhiều đến sự hỗ trợ của các ngành kinh tế khác và của
nhà nước về cơ chế và chính sách. Nên việc huy động hàng chục tỷ đồng để phát
triển củng cố mạng lưới GTNT là cả một vấn đề cần phải tính toán và cân nhắc.
Song nếu không lấy giao thông là khâu đột phá thì khó, và thậm chí không tạo được
một nền sản xuất hàng hoá cho nông nghiệp - nông thôn. Nên các cấp đảng bộ và
chính quyền địa phương đã xác định là phải tranh thủ huy động vốn từ các nguồn
đầu tư cho các dự án theo chương trình mục tiêu quốc gia, dự án hỗ trợ của nước
ngoài, nguồn vốn huy động trong dân, nguồn vốn ngân hàng nông nghiệp, ngân
hàng phục vụ người nghèo để xây dựng cơ sở hạ tầng và mở rộng sản xuất hàng
hoá kinh doanh dịch vụ.
Vốn lại là một trong những yếu tố quan trọng đến quyết định mức đầu tư của
một công trình. Hiện nay nguồn vốn để đầu tư cho phát triển GTNT còn rất hạn
hẹp, do đó chính phủ và Bộ giao thông vận tải cùng với các cấp địa phương đã có
nhièu chính sách thu hút vốn cho GTNT. Do nguồn ngân sách của nhà nước và
của địa phương còn hạn hẹp vì vậy mà chính sách thu hút vốn đầu tư ở đây chủ yếu
thực hiện theo phương châm là “Nhà nước và nhân dan cùng làm”. Nhà nước hỗ trợ
vật tư, kỹ thuật, nhân dân đóng góp ngày công lao động. Hình thức đóng góp của
nhân dân có thể bằng công lao động quy định hàng năm hoặc tiền tuỳ từng vùng,
từng khu vực cụ thể theo khả năng của từng địa phương.
Trong việc huy động vốn để xây dựng hệ thống đường trục xã, trục thôn,
xóm, đường nội đồng phải giữ nguyên tắc huy động vốn ở thôn nào, xã nào thì xây
dựng ở ngay thôn, xã đó. Thời gian, mức huy động phải căn cứ vào mùa vụ và sản
lượng, giá cả nông sản đến định xuất thu hàng năm. Các cấp cũng cần bàn với dân
về quy mô xây dựng, công khai các hạng mục đầu tư để xác định nguồn vốn cần có.
Nguồn vốn trong dân là một nguồn vốn lớn còn chưa được khai thác hết
tiềm năng của nó. Do vậy, khi huy động được nguồn vốn này cần phải có những
chính sách phù hợp như là cho họ thấy được lợi ích của việc đầu tư vào công trình
GTNT. Khuyến khích tư nhân bỏ vốn xây dựng rồi để cho họ thu lợi từ công trình
đó dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Hình thức này chỉ áp dụng đối
với việc xây dựng công trình cầu. Cho họ quyền thu lệ phí từ việc xây dựng
nhưng phải nộp một phần lệ phí thu được vào ngân sách của địa phương để phục
vụ cho công tác duy tu, sửa chữa và bảo dưỡng đường GTNT. Ngoài ra chính phủ
còn phát hành trái phiếu chính phủ để lấy vốn huy động cho đầu tư vào GTNT.
Đây là hình thức phổ biến đối với việc huy động vốn từ dân chúng của nhà nước
trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ người dân. Nguồn vốn này sẽ được giao xuống
cấp thành phố sau đó phân bổ cho các huyện và các xã.
Một biện pháp nữa để có thể có được nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng
nông thôn nói chung và GTNT nói riêng là nhà nước nên có những chính sách
khuyến khích sự đóng góp tự nguyện của những người xa quê mà làm ăn khá giả