Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương theo luật ngân sách 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.11 KB, 25 trang )

Mục lục
Phần I. Đặt vấn đề .
Phần II. Nội dung:
1. Khái niệm.
1.1. Khái niệm thu và khái niệm chi ngân sách nhà nước.
1.2.Khái niệm phân phối thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
1.3 Sự cần thiết phải phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
ngân sách.
2. Nguyên tắc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách nhà nước.
3. Thẩm quyền quyết định phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
các cấp ngân sách .
4. Các khoản thu và chi của ngân sách nhà nước.
4.1. Các khoản thu của ngân sách trung ương .
4.2. Các khoản chi của ngân sách trung ương.
4.3. Các khoản thu của ngân sách địa phương.
4.4. Các khoản chi của ngân sách địa phương.
4.5. Phân phối thu, chi cho ngân sách cấp huyện và cấp xã.
5. Điểm mới của Luật ngân sách nhà nước năm 2015 về phân cấp
nhiệm vụ thu và chi.
Phần III. Kết luận.
Phần IV. Bảng đánh giá và xếp loại thành viên.
1


Phần I. Đặt vấn đề:
Trong tiến trình lịch sử, ngân sách nhà nước với tư cách là một phạm trù
kinh tế đã ra đời và tồn tại từ lâu. Là một công cụ Tài chính quan trọng
của Nhà nước, ngân sách nhà nước xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề
khách quan là tiền đề Nhà nước và tiền đề kinh tế hàng hoá- tiền tệ. Sự
tồn tại của nhà nước và nền sản xuất hàng hóa là tiền đề quyết định tính


tất yếu của thu ngân sách nhà nươc. Bản thân nhà nước là một tổ chức
quyền lực với nhiều hệ thống các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tổ
chức và quản lý xã hội nhưng lại không trực tiếp sản xuất ra của cải vật
chất cho xã hội. Để duy trì hoạt động của các cơ quan này và cũng chính
là nhằm thực hiện chức năng của nhà nước, đáp ứng nhu cầu cần thiết
cho xã hội, nhà nước cần phải có nguổn tài lực nhất định. Thu ngân sách
nhà nước chính là công cụ tập trung vào tay nhà nước lượng tiền cần
thiết phục vụ cho việc thực hiện các chức năng đó. Chính thông qua hoạt
động thu ngân sách nhà nước, nhà nước có thể tập trung nắm giữ được
những nguồn vốn tiền tệ cần thiết đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Và
chi ngân sách là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách. Vậy, việc phân
phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương theo Luật ngân
sách 2015.

2


Phần II. Nội dung:
1.Khái niệm:
1.1Khái niệm thu và khái niệm chi ngân sách nhà nước.
*Khái niệm thu ngân sách:
Thu ngân sách nhà nước là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền thu
nhằm huy động một bộ phận giá trị sản phẩm xã hội theo quy định của
pháp luật nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước.
- Thứ nhất, thu ngân sách nhà nước không được tiến hành một cách tùy
tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Để thực hiện hoạt
động thu ngân sách, Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật quy
định về hình thức thu cũng như nội dung thu. Mỗi khi cần đưa thêm một
khoản thu mới vào áp dụng trong thực tiễn, Nhà nước đều phải luật hóa
khoản thu đó.

- Thứ hai, hoạt động thu ngân sách nhà nước nhằm huy động một bộ
phận giá trị sản phẩm xã hội, vì vậy hoạt động này luôn gắn chặt với
thực trạng kinh tế của đất nước, với mức độ phát triển của nền kinh tế.
- Thứ ba, thu ngân sách nhà nước được thực hiện thông qua hai cơ chế
pháp lý điển hình là bắt buộc và tự nguyện, trong đó cơ chế bắt buộc
được xem là chủ yếu. Thông thường, cơ chế bắt buộc được áp dụng
trong trường hợp Nhà nước tiến hành tập trung các khoản thu từ thuế,
phí và lệ phí vào ngân sách nhà nước còn cơ chế tự nguyện lại được nhà
nước áp dụng trong trường hợp cần huy động các khoản tiền viện trợ của
nước ngoài, của các tổ chức quốc tế hay các khoản đóng góp tự nguyện
khác của công chúng cho Nhà nước.
- Thứ tư, chủ thể tham vào hoạt động thu ngân sách nhà nước gồm hai
nhóm: chủ thể đại diện cho nhà nước trong việc thực hiện quyền thu (cơ
3


quan tài chính, cơ quan thuế nhà nước, cơ quan hải quan và kho bạc nhà
nước); chủ thể đóng góp khoản thu ngân sách theo nghĩa vụ hoặc dựa
trên tinh thần tự nguyện (cá nhân và tổ chức).
Các khoản thu ngân sách gồm nhiều loại. Theo Khoản 1 Điều 5 Luật
Ngân sách nhà nước năm 2015, thu ngân sách nhà nước gồm các khoản:
thu từ thuế, lệ phí; phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước
thực hiện; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của
pháp luật.
Thuế là khoản thu mang tính cưỡng chế do Nhà nước huy động từ các tổ
chức, cá nhân và tập trung vào quỹ ngân sách nhà nước.
Lệ phí là khoản tiền tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước
được quy định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo pháp lệnh phí
và lệ phí.


*Khái niệm chi ngân sách nhà nước:
Chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực quyết định
nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo đảm nhà nước
thực hiện được các chức năng của mình.
Chi ngân sách nhà nước là hoạt động mang những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp
luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ
quan quyền lực nhà nước quyết định.

4


- Thứ hai, chi ngân sách nhà nước nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về
tài chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước
thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Thứ ba, chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi hai
nhóm chủ thể: nhóm chủ thể đại diện cho nhà nước thực hiện việc quản
lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước (Bộ tài chính,
sở tài chính - vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…); nhóm
chủ thể sử dụng ngân sách (Các cơ quan nhà nước, các đơn vị kể cả đơn
vị sự nghiệp có thu, các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà
nước…)
Chi ngân sách nhà nước gồm nhiều loại theo Khoản 2 Điều 5 Luật Ngân
sách nhà nước năm 2015, chi ngân sách nhà nước gồm: chi đầu tư phát
triển; chi dự trữ quốc gia; chi thường xuyên; chi trả nợ lãi; chi viện trợ;
các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.2.Khái niệm phân phối thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
Phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước là

việc xác định mỗi cấp ngân sách nhà nước được tập trung những nguồn
thu nào và mức độ tập trung đến đâu đồng thời đề ra nhiệm vụ chi cụ thể
cho từng cấp ngân sách. Theo pháp luật hiện hành, Quốc hội việc phân
phối thu, chi giữa các cấp ngân sách là thuộc thẩm quyền của Quốc hội
và hội đồng nhân dân tỉnh. Quốc hội quyết định khoản thu và nhiệm vụ
chi cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; hội đồng nhân
dân tỉnh quyết định nguồn thu và nhiệm vụ chi cho các địa phương
thuộc địa bàn tỉnh.

5


1.3 Sự cần thiết phải phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
ngân sách.
Khi thừa nhận hệ thống ngân sách gồm các khâu: ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương, việc phân định nguồn thu và ngân sách địa
phương, việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể giữa các khâu
này của hệ thống ngân sách là cần thiết. Phân giao nguồn thu cụ thể cho
phép định lượng được các khoản thu của từng địa phương trên địa bàn
chính quyền địa phương quản lý, từ đó có thể dự đoán được khả năng tự
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách và phần còn thiếu mà ngân
sách cấp trên phải chi điều tiết bổ sung nhằm bảo đảm khả năng cấp
phát, chi trả, thanh toán của cấp ngân sách đó hoặc phần thừa có thể điều
hòa cho các địa phương khác hoặc cho ngân sách cấp trên để đảm bảo
khả năng thanh toán, chi trả của từng cấp ngân sách cũng như của toàn
bộ hệ thống ngân sách. Đề ra nhiệm vụ chi cụ thể cho các cấp ngân sách
cũng là tiền đề giúp cho việc định lượng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân
sách để có thể chủ động bố trí kế hoạch thu, đáp ứng kịp thời nhu cầu
chi tiêu đó.
Nếu chỉ phân giao nguồn thu mà không quy định nhiệm vụ chi cho các

cấp ngân sách sẽ dẫn đến tình trạng không tận dụng được số bội thu ở
một số địa phương để điều động cho các địa phương khác còn nằm trong
tình trạng bội chi. Và kết quả là ngân sách trung ương phải gánh chịu
các khoản trợ cấp cho các địa phương bội chi trong khi đó ở một số địa
phương khác tồn quỹ ngân sách lại vượt định mức. Ngược lại, nếu chỉ
quy định nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách mà không phân bổ nguồn
thu sẽ dẫn đến tình trạng một mặt, các địa phương bị hạn chế tiềm năng
và thế mạnh trong việc huy động các nguồn tài chính phục vụ cho mục
tiêu phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương; mặt khác, việc không
được phân giao nguồn thu, các địa phương sẽ ỷ lại, trông chờ vào sự ban
phát kinh phí từ ngân sách trung ương từ đó có thể làm nảy sinh tiêu
6


cực, tùy tiện trong quá trình sử dụng vốn của ngân sách trung ương cấp
phát cho các địa phương để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chi mà địa
phương được giao phó.
2. Nguyên tắc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách nhà nước.
Nguyên tắc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách
nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình phân bố nguồn
thu và phân giải nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước. Các cấp
ngân sách khi tiến hành tập trung nguồn thu cũng như khi thực hiện
nhiệm vụ chi của ngân sách cấp mình đều phải quán triệt những nguyên
tắc như sau:
Nguyên tắc thứ nhất: ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp
chính quyền địa phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ
thể, bảo đảm cho ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo,ngân sách địa
phương chủ động hoàn thành nhiệm vụ được giao, tăng cường nguồn lực
cho ngân sách xã.

Theo nguyên tắc này việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cho
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương vẫn quán triệt chủ
trương, nguồn thu của ngân sách trung ương phải đảm bảo thực hiện
những nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia, nguồn thu của ngân
sách địa phương phải đc xác định sao cho địa phương có thể chủ động
thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lí của mình.
Vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương trong hệ thống ngân sách
thể hiện ở chỗ ngân sách trung ương được sử dụng nhằm điều tiết kinh tế
vĩ mô .

7


Ngân sách địa phương mặc dù không đóng vai trò chủ đạo trong hệ
thống ngân sách nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc thực thi các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội được giao phó trên địa bàn
mình quản lí.
Vì vậy, việc phân giao nguồn thu cho địa phương là việc làm cần
thiết. Chỉ khi được phân định nguồn thu cụ thể, địa phương mới có thể
chủ động lên kế hoạch thu nhằm hình thành nên quỹ ngân sách của địa
phương mình, làm tiền đề cho việc bố trí kinh phí, ngân sách của địa
phương để kịp thời thực hiện các nhiệm vụ chi đã được giao phó.
*Điều 39 Luật Ngân sách nhà nước(2015): Nguyên tắc phân cấp thu,
nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương:
1.Căn cứ vào nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương quy
định tại điều 37 và 38 của luật này, Hội đồng nhân dân cấp tình quyết
định phân cấp cụ thể nguồn thu nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở
địa phương theo nguyên tắc sau:
a)Phù hợp với phân cấp nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh

đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lí, dân cư, trình độ quản lí
của từng vùng, từng địa phương.
b)Ngân sách xã, thị trấn được phân chia nguồn thu từ các khoản: thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh
doanh, thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình, lệ phí trước bạ
nhà, đất
c)Ngân sách cấp huyện, ngân sách cấp xã không có nhiệm vụ chi nghiên
cứu khoa học công nghệ.
d)Trong phân cấp nhiệm vụ chi đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải
có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thong công lập các

8


cấp, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và
các công trình phúc lợi công cộng khác.
2.Căn cứ vào tỉ lệ (%) đối với các khoản thu phân chia do chính phủ
giao và các nguồn thu ngân sách địa phương hưởng 100%, Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định tỷ lệ % đối với các khoản thu phân chia
giữa ngân sách các cấp ở địa phương.

Nguyên tắc thứ hai: nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách
cấp đó bảo đảm thực hiện. Mỗi cấp ngân sách phải tự đảm đương các
nhiệm vụ chi của mình có nghĩa là khi nhiệm vụ chi của các cấp ngân
sách thay đổi do phát sinh nhiệm vụ mới hoặc do chính sách, chế độ có
sự thay đổi thì các cấp ngân sách chủ động bố trí nguồn kinh phí để thực
hiện. Nhiệm vụ chi thuộc cấp nào thì sử dụng kinh phí của cấp đó. Tuy
nhiên trong trường hợp ngân sách cấp dưới gặp khó khăn, đã sắp xếp
nguồn trong dự toán, sử dụng dự phòng, dự trữ nhưng vẫn không đủ thì
có thể được ngân sách cấp trên hỗ trợ một phần. Tự đảm đương nhiệm

vụ chi của ngân sách câp mình còn có ý nghĩa lớn nếu cơ quan quản lí
nhà nước cấp dưới thực hiên nhiệm vụ chi của mình thì phải chuyển
kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiên nhiệm vụ đó.
Ngoài hai trường hợp phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới dạng bổ sung hoặc do có sự uỷ quyền thực hiện
nhiệm vụ chi, không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm
vụ của cấp khác trừ trường hợp theo quy định của chính phủ.
Nguyên tắc thứ ba: quan hệ vật chất giữa ngân sách cấp trên và ngân
sách cấp dưới được thể hiện qua việc phân chia một số khoản thu với
việc điều tiết, bổ sung kinh phí.

9


Việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới cũng nhằm
hỗ trợ cho các địa phương thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu trên địa bàn,
bổ sung từ ngân sách cấp trên được thực hiện trong hai trường hợp: bổ
sung cân đối thu, chi ngân sách và bổ sung có mục tiêu. Bổ sung cân đối
thu, chi ngân sách đươc áp dụng khi ngân sách cấp dưới đã huy động hết
nguồn lực mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của mình.
Sau mỗi thời kì ổn định ngân sách, các địa phương phải tính khả năng
tự cân đối, phát triển ngân sách địa phương nhằm giảm dần sô bổ sung
từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỉ lệ % điều tiết số thu nộp về ngân sách
cấp trên.
Như vậy nguyên tắc phân phối nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp
ngân sách là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình phân bố nguồn thu
và phân giao nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước.
3. Thẩm quyền quyết định phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
các cấp ngân sách .
NSNN gồm 2 bộ phận: Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.

Ngân sách địa phương gồm ngân sách của các cấp cính quyền địa
phương (Đ6 L.NSNN 2015)
Ngân sách trung ương, ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được
nhà nước phân phối cụ thể
Phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước là
việc xác định mỗi cấp ngân sách được tập trung cho những nguồn thu
nào và mức độ tập trung tới đâu đồng thời đề ra những nhiệm vụ chi cụ
thể cho từng cấp ngân sách. Chính quyền các cấp ở địa phương sẽ được
phaan giao những quyền hạn và trách nhiệm cụ thể trên các lĩnh vực xây
dựng, quyết định và thực hiện ngân sách cấp mình.

10


Theo pháp luật hiện hành, việc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
các cấp ngân sách là thuộc thẩm quyền của Quốc Hội và Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh.
Quốc Hội có thẩm quyền quyết định các nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Theo quy định của
L.NSNN, K5 Đ19: QH quyết định phân bổ ngân sách trung ương,; K6
Đ19: QH quyết định tỷ lệ % phân chia giữa ngân sách trung ương và
ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu quy định tại K2 Đ35
của Luật này.
Sỡ dĩ QH được giao cho thẩm quyền này là vì QH là cơ quan đại diện
của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước,
được Hiến pháp và pháp luật quy định thẩm quyền tối cao trong việc
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong đó có lĩnh vực tài
chính ngân sách. Ngân sách trung ương được phân cấp các khoản thu và
nhiệm vụ chi quan trọng và được QH quyết định đảm bảo tính chặt chẽ,
nhất quán và thống nhất trong quá trình thực hiện.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho ngân sách các cấp ở địa phương thuộc địa bàn mình quản lý
phù hợp với đặc thù, khả năng và nhu cầu của địa phương mình với điều
kiện phải tuân thủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật. theo quy
định L.NSNN 2015, Điểm c K9 Đ30: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết
định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở
địa phương theo quy định tại K3Đ9 của luật này; Điểm d K9 Đ30: Hội
đòng nhân dân quyết định tỷ lệ % phân chia giữa ngân sách các cấp
chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng
từ các khoản thu quy định tại K2Đ37 luật này.
Việc trao quyền cho cơ quan quyền lực cấp tỉnh phân giao các nguồn
thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách ở địa phương cho thấy ở mức
11


độ nhất định, cấp ngân sách địa phương có sự độc lập, tự chủ trong tổ
chức, điều hành ngân sách địa phương mình. Tuy nhiên sự độc lập, tự
chủ này không được vượt quá quy định của pháp luật. Việc phân cấp cụ
thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương do Hội
đồng nhân dân quyết định phải dựa trên nguyên tắc quy định tại khoảng
1 điều 39 Luật ngân sách nhà nước 2015: Phù hợp với phân cấp nhiệm
vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh đối với từng lĩnh vực và đặc điểm
kinh tế, địa lý, dân cư, trình độ quản lý của từng vùng, từng địa phương;
Ngân sách xã, thị trấn được phân chia nguồn thu từ các khoản: thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp, thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh
thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình, lệ phí trước bạ nhà, đất;
Ngân sách cấp huyện, ngân sách cấp xã không có nhiệm vụ chi nghiên
cứu khoa học và công nghệ; Trong phân cấp nhiệm vụ chi đối với thị xã,
thành phố thuộc tỉnh phải có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường
phổ thông công lập các cấp, điện chiếu sáng, cấp thaots nước, giao thông

đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi công cộng khác
Việc phân giao nguồn thu cụ thể cho ngân sách địa phương cho phép
định lượng được các khoản thu của từng địa phương trên địa bàn chính
quyền địa phương quản lý, từ đó có thể dự đoán được khả năng tự đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách và phần còn thiếu mà ngân sách
cấp trên phải chi điều tiết bổ sung nhằm đảm bảo khả năng cấp phát, chi
trả, thanh toán của cấp ngân sách đó hoặc phần còn thừa có thể điều hòa
cho các địa phương khác hoặc cho ngân sách cấp trên để bảo đảm khả
năng thanh toan, chi trả của từng cấp ngân sách cũng như toàn bộ hệ
thống ngân sách.
Bên cạnh đó, việc đề ra nhiệm vụ chi cụ thể cho ngân sách cấp địa
phương cũng là tiền đề giúp cho việc định lượng nhu cầu chi tiêu của
cấp ngân sách để có thể chủ động hơn trong kế hoạch chi tiêu, đáp ứng
kịp thời nhu cầu chi tiêu đó.
12


Như vậy, Luật Ngân sách hiện hành đã đề cao trach nhiệm, quyền hạn
của chính quyền nhà nước cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trong công tác quản lý, điều hành các cấp ngân sách ở địa phương. Có
thể nói hiện nay, quyền hạn của chính quyền nhà nước cấp tỉnh tương
xứng với vai trò của tỉnh trong tổ chức và điều hành ngân sách trên địa
bàn tỉnh. Do được phân bổ nguồn thu và giao phó nhiệm vụ chi cụ thể ,
có thể thấy ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã là những bộ phận
cấu thành , những khâu độc lập của ngân sách địa phương chứ không
phải là các đơn vị dự toán của ngân sách tỉnh.

4. Các khoản thu và chi của ngân sách nhà nước.
4.1. Các khoản thu của ngân sách trung ương .
Ngân sách trung ương nắm giữ các nguồn thu quan trọng nhất và phải

đảm đương các nhiệm vụ chi chủ yếu của quốc gia. Các khoản thu của
ngân sách trung ương gồm hai nhóm lớn gồm
Các khoản thu được tập trung toàn bộ vào ngân sách trung ương: được
quy định tại khoản 1 điều 35 luật ngân sách nhà nước 2015
Các khoản thu trung ương được hưởng toàn bộ gồm những khoản thu từ
các loại thuế gián thu có liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu; từ thuế
tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp, từ các khoản thuế và thu từ dầu
khí; từ tiền thu hồi vốn, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trưng ương;
thu từ xử phạt hành chính; từ dự trữ tài chính quốc gia; thu nhập từ vốn
góp của nhà nước và từ tiền viện trợ không hoàn lại cho Chính phủ Việt
Nam; thu từ kết dư ngân sách trung ương ( kết dư ngân sách trung ương
là số chênh lệch giữa tổng số thu ngân sách trung ương và vay bù đắp
bội chi lớn hơn tổng số chi ngân sách trung ương ) ......

13


Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương: được quy định tại khoản 2 điều 35 luật ngân
sách nhà nước 2015
Các khoản thu trung ương và địa phương được hưởng theo tỷ lệ phần
trăm gồm:
Thuế giá tri gia tăng: không kể thuế giá trị gia tăng từ hàng hóa xuất
nhập khẩu
Thuế thu nhập doanh nghiệp: không kể thuế thu nhập doanh nghiệp
từ hoạch toán toàn ngành
Thuế thu nhập cá nhân , thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi
trường....
Tỉ lệ phân chia ngân sách trung ương ngân sách địa phương giữ cố định
trong giai đoạn từ 3-5 năm với mục tiêu giúp chính quyền địa phương có

sự ổn định trong nhiệm vụ ngân sách của mình.
4.2. Các khoản chi của ngân sách trung ương.
Các khoản chi của ngân sách trung ương được quy định tại điều 36 của
Luật ngân sách nhà nước (2015) bao gồm 9 khoản mục cơ bản:
-Chi cho đầu tư pháp triển:
Là những khoản chi hết sức cần thiết phải thực hiện thường xuyên
hàng tháng, hàng năm để duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước bao
gồm: Đầu tư cho các dự án, đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
cung cấp sản phẩm,dịch vụ công ích, các khoản chi đầu tư phát triển
khác.....
- Chi dự trữ quốc gia

14


-Chi thường xuyên của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính
phủ.....
Là những khoản chi để hình thành tài sản cố định như mua sắm tài sản
cố định các công trình kinh tế mũi nhọn như quốc phòng , an ninh và trật
tự an toàn xã hội , y tes, giáo dục....
- Chi trả nợ lãi các khoản tiền do chính phủ vay
- Chi viện trợ
- Chi cho vay theo quy định của pháp luật
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chinh trung ương
- Chi bổ sung cân đối ngân sách
4.3. Các khoản thu của ngân sách địa phương.
Nguồn thu của ngân sách địa phương được chia thành bốn nhóm lớn:
ngoài hai nhóm thu tương tự cấp ngân sách trung ương, địa phương còn
được bổ sung từ ngân sách cấp trên và thu từ huy động vốn của các tổ
chức, cá nhân.

Thứ nhất, các khoản thu mà ngân sách địa phương được hưởng toàn bộ
gồm: các loại thuế và các khoản tiền liên quan đến đất và tài nguyên
như thuế môn bài, thuế sử dụng đất nông nghiệp,thuế chuyển quyền sử
dụng đất lệ phí trước bạ,... quy định tại khoản 1 điều 37 luật NSNN
2015
Thứ hai, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương tại khoản 2 điều 37 luật NSNN
2015
Thứ ba, các khoản thu bổ sung từ ngân sách trung ương gồm các khoản
thu bổ sung để cân đối thu, chi ngân sách địa phương và các khoản thu
15


bổ sung có mục tiêu giúp địa phương thực hiễn những nhiệm vụ mà
pháp luật quy định.
Thứ tư, các khoản thu từ huy động vốn của các tổ chức, cá nhân để đáp
ứng nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm
vi cấp tỉnh đảm nhiệm nhưng ngân sách cấp tỉnh không đủ kinh phí để
thi công công trình. Đây là những công trình thuộc danh mục đầu tư
trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định
nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh trong năm dự
toán.

4.4. Các khoản chi của ngân sách địa phương.
Các khoản chi của ngân sach địa phương được quy định tại điều 38 Luật
ngân sách nhà nước 2015
Các khoản chi của ngân sách địa phương cũng gồm nhiều loại và được
chia thành năm nhóm lớn: chi đầu tư phát triển (các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế- xã hội do địa phương quản lý), chi thường xuyên, chi trả
nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư xây dựng của địa

phương, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh và chi bổ sung cho
ngân sách cấp dưới. So với nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương,
nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương có nhẹ hơn cả về khoản mục chi
cũng như nội dung của từng khoản mục chi. Ví dụ: địa phương không có
nhiệm vụ chi viện trợ và chi cho vay như trung ương. Điều đó còn thể
hiện trong nội dung của từng khoản mục chi vì trong từng khoản mục,
nội dung chi của trung ương bao gồm cả những khoản chi mà nội dung
chi của địa phương không có.
4.5. Phân phối thu, chi cho ngân sách cấp huyện và cấp xã.

16


Việc phân giao cụ thể nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
sách huyện và xã do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định – hội đồng nhân
dân tỉnh có quyền chủ động phân phối thu, chi cho ngân sách cấp dưới
trên cơ sở căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương mình quản lí
và phải quán triệt các nguyên tắc pháp lý nhất định. Điều 39 Luật ngân
sách nhà nước năm 2015 đề ra bốn nguyên tắc pháp lý định hướng quyết
định phân phối thu, chi của hội đồng nhân dân tỉnh:
Thứ nhất, việc phân bổ nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
sách địa phương phải phù hợp với phân cấp nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và phù hợp với đặc điểm của từng vùng cũng như
đối với trình độ quản lý của từng địa phương ( điểm c khoản 1 Điều 39
Luật ngân sách nhà nước năm 2015 ).Thật vậy, trình độ kinh tế- xã hội,
quốc phòng, an ninh của mỗi vùng là khác nhau cũng như trình độ quản
lý của từng địa phương là khác nhau. Có địa phương mạnh về lĩnh vực
kinh tế - xã hội này, có địa phương mạnh về lĩnh vực kinh tế - xã hội
khác và quốc phòng, an ninh cũng vậy, hay nói cách khác, tùy thuộc vào
điều kiện của từng địa phương, cấp địa phương mà việc phân bổ nguồn

thu, nhiệm vu chi cũng có sự khác nhau và phải dựa vào đó để thực hiện.
Đây chính là yếu tố thể hiện vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương ở
việc điều hòa vốn cho các địa phương giúp cho ngân sách địa phương
hoàn thành các mục tiêu kinh tế- xã hội của mình đồng thời hỗ trợ vốn
cho các địa phương miền núi, vùng dân tộc và thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chế độ đối với
gia đình chính sách, người có công, cán bộ hưu trí.
Thứ hai, Ngân sách xã thị trấn được phân chia nguồn thu từ các khoản :
thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh
doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình ; lệ phí trước bạ
nhà đất.

17


Thứ ba, Ngân sách cấp huyện ngân sách cấp xã không có nhiệm vụ chi
cho nghiên cứu khoa học và công nghệ
Thứ tư, khi phân giao nhiệm vụ chi cho ngân sách cấp thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, phải có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng công trình công cộng
phục vụ cho ngành giáo dục, cho hoạt dộng giao thông đô thị và cho các
công trình phúc lợi khác(điểm d khoản 1 Điều 39 Luật ngân sách nhà
nước năm 2015) Bởi đây đều là những hoạt động, những nhu cầu thiết
yếu nhất của con người trong đời sống hàng ngày. Phải tập trung đầu tư
phát triển cho các hoạt động này thì mới có thể phát triển được đất nước
nói chung và tại mỗi địa phương nói riêng. Đây còn là những công trình
thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân
cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp
tỉnh của ngân sách cấp tỉnh trong năm dự toán. Ngoài ra các khoản thu
được tỉnh phân bổ, chính quyền xã và các cấp tương đương được phép
huy động các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân để xây

dựng các công trình kết cấu hạ tầng của địa phương mình. Tuy nhiên,
việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn thu này phải tuân thủ quy định
của pháp luật. Liên hệ thực tế, Ờ các xã, chính quyền nhân xã hàng năm
khi có kế hoạch xây dựng một đoạn đường nào đó mà không nằm trong
dự án của nhà nước thì cơ quan nhà nước ở địa phương đó bàn bạc, thăm
hỏi ý kiến nếu được sự đồng ý thì cơ quan chính quyền mới phát động,
tuyên truyền để thu hút sự ủng hộ của toàn thể bà con trong địa phương
của mình. Chính vì lẽ đó, việc huy đông, quản lý và sử dụng nguồn thu
này vẫn phải tuân thủ những quy định của pháp luật.

18


5. Điểm mới của Luật ngân sách nhà nước năm 2015 về phân cấp
nhiệm vụ thu và chi.
So sánh trên 3 khía cạnh
- Về phân cấp nguồn thu
- Về phân cấp nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP
- Về bội chi NSĐP
Ngoài ra có thể so sánh thêm:
- Về số bổ sung cân đối trong thời kỳ ổn định ngân sách
- Về số bổ sung có mục tiêu từ ngân sách câp trên cho ngân sách cấp
dưới
- Về dự phòng ngân sách
- Về thẩm quyền quyết định ngân sách địa phương.

19


Luật ngân sách nhà nước 2002

Về phân
cấp
nguồn
thu giữa
Ngân
sách
trung
ương và
ngân
sách địa
phương

(Điều 34, Luật Ngân sách Nhà
nước 2002)
- Khoản thuế thu nhập doanh
nghiệp đơn vị hạch toán toàn
ngành, theo Luật NSNN năm 2002
là khoản thu NSTW hưởng 100%;
- Luật NSNN năm 2002 chưa quy
định rõ, dẫn đến có khoản xử phạt
vi phạm hành chính nộp toàn bộ
vào NSNN, có khoản để lại một
phần cho đơn vị thực hiện xử phạt
vi phạm hành chính để trang trải
chi phí, phần còn lại nộp ngân
sách;
- Trong các nguồn thu của ngân
sách xã, thị trấn, ngân sách xã, thị
trấn được hưởng tối thiểu 70% các
khoản thu thuế chuyển quyền sử

dụng đất; thuế nhà, đất; thuế môn
bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;
thuế sử dụng đất nông nghiệp thu
từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà,
đất;
- Trong các nguồn thu của ngân
sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
ngân sách thị xã, thành phố thuộc
tỉnh được hưởng tối thiểu 50%
khoản thu lệ phí trước bạ, không
kể lệ phí trước bạ nhà, đất;

Luật ngân sách nhà nước
2015
(Điều 39, Luật Ngân sách Nhà
nước 2015)
- Luật NSNN năm 2015 quy
định là khoản thu phân chia
giữa NSTW và NSĐP ;
- Quy định toàn bộ tiền thu từ
xử phạt vi phạm hành chính,
phạt, tịch thu khác phải nộp
vào NSNN và phân cấp rõ do
cơ quan nhà nước thuộc cấp
nào thu thì ngân sách cấp đó
hưởng;
- Phân định cụ thể và rõ ràng
đối với các khoản thu hồi vốn
của Nhà nước đầu tư tại các tổ
chức kinh tế; thu cổ tức, lợi

nhuận được chia tại công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên có
vốn góp của Nhà nước do cơ
quan nhà nước đại diện chủ sở
hữu; thu phần lợi nhuận sau
thuế còn lại sau khi trích lập
các quỹ của doanh nghiệp nhà
nước do cơ quan nhà nước đại
diện chủ sở hữu.
- Ngoài ra nó còn điểm mới

20


- Trong phân cấp nhiệm vụ chi đối
với thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Về phân phải có nhiệm vụ chi đầu tư xây
cấp
dựng các trường phổ thông quốc
nhiệm vụ lập các cấp, điện chiếu sáng, cấp
chi giữa thoát nước, giao thông đô thị, vệ
ngân
sinh đô thị và các công trình phúc
sách
lợi công cộng khác.
trung
ước

ngân

sách địa
phương

Về
bội
chi Ngân
sách địa
phương

- Luật NSNN năm 2002 cho phép
ngân sách cấp tỉnh được phép huy
động bản chất là vay nhưng không
quy định là bội chi;
- Quy định khống chế mức huy
động trên chi đầu tư XDCB
(Ví dụ: đối với thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh không
vượt quá 60% số thu NSĐP được
hưởng theo phân cấp; đối với các
địa phương có số thu NSĐP được
21

trong Thu từ hoạt động xổ số
kiến thiết
Cháu cũng có thể đưa phần này
vào
(Phần này ông ghi ở dưới cùng
của bài)
- Trong phân cấp nhiệm vụ chi
đối với thị xã, thành phố thuộc

tỉnh phải có nhiệm vụ chi đầu
tư xây dựng các trường phổ
thông công lập các cấp, điện
chiếu sáng, cấp thoát nước,
giao thông đô thị, vệ sinh đô
thị và các công trình phúc lợi
công cộng khác.
- Chỉ phân cấp nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học cho cấp
tỉnh, còn các cấp huyện, xã
không có nhiệm vụ chi cho
nghiên cứu khoa học.
- Luật NSNN năm 2015 đã
thay đổi rất cơ bản về nội dung
này, theo đó quy định ngân
sách cấp tỉnh được bội chi và
bội chi của ngân sách cấp tỉnh
được tổng hợp vào bội chi
NSNN, do Quốc hội quyết
định;
- Quy định khống chế mức giới
hạn vay của NSĐP tính trên số
thu NSĐP được hưởng theo
phân cấp


hưởng theo phân cấp lớn hơn chi
thường xuyên của NSĐP không
vượt quá 30% thu ngân sách được
hưởng theo phân cấp; đối với các

địa phương có số thu NSĐP được
hưởng theo phân cấp nhỏ hơn
hoặc bằng chi thường xuyên của
NSĐP không vượt quá 20% thu
ngân sách được hưởng theo phân
cấp).

22


Phần III. Kết luận:
Tóm lại, giữa các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước có
mối quan hệ với nhau và mối quan hệ đó được thể hiện rõ tính độc lập
tương đối giữa ngân sách các cấpthông qua việc giao các nguồn thu và
nhiệm vụ chi cho các cấp Ngân sách và cho phép mỗi cấp có quyền
quyết định Ngân sách của mình:
+ Nguồn thu của ngân sách cấp nào thì cấp đó sử dụng.
+ Nhiệm vụ chi của ngân sách cấp nào thì cấp đó phải đảm nhiệm.Thứ
hai,tính phụ thuộc giữa ns cấp dưới và ngân sách cấp trên.
+ Ngân sách cấp trên có thể chi bổ sung cân đối cho ngân sách cấp dưới
để địa phương hoàn thành nhiệm vụ.
+ Ngân sách cấp trên có thể chi bổ sung có mục tiêu để địa phương có
thể thực hiện được chính sách mới nhằm đảm bảo sự phát triển đồng đều
giữa các địa phương.
Như vậy, phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà
nước là việc xác định mỗi cấp ngân sách được tập trung những nguồn
thu nào và mức độ tập trung đến đâu đồng thời đề ra nhiệm vụ chi cụ thể
cho từng cấp ngân sách. Pháp luật đã quy định rất cụ thể về các nguồn
thu, nhiệm vụ chi các cấp, thẩm quyền quyết định phân phối và các
nguyên tắc phân phối. Việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của

các cấp giúp đạt hiệu quả trong việc quản lý và thống nhất điều hành
việc thực hiện ngân sách nhà nước.
Qua việc phân tích quy định pháp luật về phân phối nguồn thu nhiệm vụ
chi của các cấp ngân sách, giúp ta có thể hiểu được nguyên lí, tư tưởng
hình thành xây dựng, tạo ra việc phân chia này, qua đó đánh giá sự phù
23


hợp các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động phân chia xem có
mâu thuẫn với các quy định chung, đã phù hợp hay chưa và có những
hướng hoàn thiện để các quy định này ngày càng hiệu quả trên thực tiễn,
góp phần đảm bảo hoạt động thu, chi ngân sách của trung ương và địa
phương.

24


25


×