VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU TRANG
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI – 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY .............................................................6
1.1 Khái niệm chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy ...........................6
1.2 Quy định của Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma
túy ............................................................................................................................8
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH.....................................................................32
2.1 Kết quả đạt được trong công tác xét xử Tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017. .......................................................32
2.2 Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Nam Định giai đoạn 2013 – 2017 ..........................................................................34
2.3 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017 ........................................................47
2.4 Đánh giá công tác xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Nam Định giai đoạn 2013-2017 ............................................................................59
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA
TÚY ..........................................................................................................................63
3.1 Yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy. ...................................................................................................63
3.2 Giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy. ...................................................................................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và đang
thực hiện đường lối đổi mới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tuy
nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị
trường, của việc mở cửa hội nhập và xu hướng toàn cầu hóa đã nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp trong đời sống xã hội, nổi bật trong đó chính là các tệ nạn về ma
túy. Ma túy làm gia tăng tội phạm, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc
gia đình, suy thoái nòi giống dân tộc, cầu nối cho căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS.
Một trong số những loại tội phạm về ma túy đã và đang có những diễn biến vô
cùng phức tạp trong những năm trở lại đây chính là tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy.
Nam Định là một tỉnh có lịch sử phát triển đô thị sớm và thuận lợi giao
thông, giao thương buôn bán, chính vì vậy được nhiều đối tượng chọn là địa bàn
tiêu thụ và chung chuyển ma túy từ các tỉnh Tây Bắc về phân phối cho một số
tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Theo nhận định của các cơ quan chức năng, các đối
tượng mua bán trái phép chất ma túy hoạt động ngày một tinh vi hơn cũng như
hình thành các đường dây mua bán ma túy lớn hơn. Trước tình hình này, các cơ
quan chức năng tỉnh Nam Định đã và đang tập trung lực lượng xử l tội phạm
mua bán trái ph p chất ma túy và đã đạt nhiều kết quả tốt, số vụ án được phát
hiện đang tăng thêm, nhiều đường dây buôn bán ma tu bị triệt phá. ên cạnh
kết quả đó, do tội phạm về mua bán trái phép chất ma tu trên địa bàn tỉnh Nam
Định diễn biến ngày một phức tạp và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, các cơ
quan chức năng dù đã nỗ lực nhưng việc xử lý tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định và chưa đáp ứng được triệt để
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Chính vì vậy với mong muốn nghiên cứu, hoàn thiện những vấn đề lý luận
và quy định pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy cũng như khảo sát có
1
hệ thống về thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Nam Định, cùng
với sự giúp đỡ của thầy cô giáo trong khoa Luật Học viện khoa học xã hội, tác
giả xin lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật
Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học,
nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ Luật học nghiên cứu về tội phạm về ma túy, ví dụ
như: Luận án tiến sĩ luật học Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng chống các
tội phạm về ma túy ở Việt Nam ” năm 2007, Luận văn thạc sĩ Luật học Trần
Quốc Trọng: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma
túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh
Hà Nam giai đoạn 2005-2010” năm 2012, Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn
Thị Tuyết Lan: “Tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”, năm 2015… Các
công trình nghiên cứu đó đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm rõ các
vấn đề lý luận và tình hình tội phạm về ma túy, đưa ra nguyên nhân, các biện
pháp phòng ngừa và dự báo tình hình tội phạm về ma túy nói chung, tuy nhiên
đó đều là những nghiên cứu về tình hình tội phạm trên những địa bàn khác hoặc
nghiên cứu chung cả nước, trong khi đó chưa có công trình nghiên cứu chuyên
sâu về lý luận và thực tiễn riêng về tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn
tỉnh Nam Định. Chính vì vậy tác giả thực hiện luận văn này nhằm đi sâu nghiên
cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy dưới góc độ Luật hình sự,Luật tố tụng
hình sự mới nhất. Luận văn đồng thời sử dụng những số liệu và vụ án thực tế tại
Nam Định để minh họa cho những hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số yêu cầu và
giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán
trái phép chất ma túy, hướng tới công cuộc đấu tranh phòng, chống có hiệu quả
đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ của uận
n
Luận văn có mục đích nghiên cứu chính đó là làm rõ những vấn đề lý luận
và đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với Tội
mua bán trái phép chất ma túy để từ đó làm rõ những ưu điểm, những tồn tại và
đề ra giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về Tội mua bán
trái phép chất ma túy. Để đạt được những mục đích nghiên cứu, luận văn có
nhiệm vụ:
-
Nghiên cứu làm rõ các khái niệm: “Chất ma túy”, “Tội mua bán trái phép
chất ma túy” và “Các dấu hiệu pháp l đặc trưng của tội mua bán trái phép chất
ma túy”. Khái quát quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất
ma túy trong lịch sử lập pháp Việt Nam từ thời điểm chưa có
LHS đến khi
LHS năm 2015 có hiệu lực.
-
Phân tích làm rõ dấu hiệu pháp lý cụ thể của Tội mua bán trái phép chất ma
túy được quy định tại Điều 251 của LHS năm 2015. Đánh giá các tình tiết định
tội trong cấu thành tội phạm cơ bản, các tình tiết định khung hình phạt trong cấu
thành tội phạm tăng nặng trên cơ sở so sánh với LHS năm 1999.
-
Phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua
bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Khái quát thực tiễn xét xử
Tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn từ năm
2013 đến năm 2017, từ đó đề ra một số yêu cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng
các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Nam Định.
3
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
-
Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 194 LHS năm 1999, Điều 251
của
LHS năm 2015 về tội mua bán trái phép chất ma túy và những văn bản
pháp luật có liên quan dưới góc độ pháp luật hình sự.
-
Về thực tiễn: Nghiên cứu tình hình xét xử tội mua bán trái phép hoặc chất
ma túy giai đoạn 2013 – 2017 trên địa bàn tỉnh Nam Định.
. hương h
-
uận
c c hương h
nghi n cứu
Phương pháp luận của luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về đấu tranh phòng, chống tội phạm quan
điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm ma tu cũng như
thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp l như lịch sử pháp luật, luật
hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của
một số nhà khoa học pháp l chuyên ngành.
-
Các phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn
sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng t về mặt khoa học từng vấn đề
tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống
hóa, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh; tổng kết thực tiễn để hoàn thiện pháp
luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy. Tác giả dựa vào các văn
bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến nội dung đề tài, số liệu thống kê,
báo cáo tổng kết năm công tác của TAND hai cấp tỉnh Nam Định để phân tích,
tổng hợp các luận chứng, các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những điểm mới
-
đóng gó của luận
n
Về mặt lý luận, luận văn là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý
về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS Việt Nam năm
2015.
-
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có
nghĩa góp phần
nhằm làm sáng t những vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử tội mua bán trái
4
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Ngoài ra việc tìm hiểu thực tiễn
xét xử loại tội phạm này trên thực tế tại địa phương thông qua những vụ án cụ
thể có liên quan góp phần đưa ra những yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các
quy định của pháp luật hình sự về loại tội này, tạo thuận lợi cho công tác đấu
tranh và phòng chống tội phạm.
7. Cơ cấu của luận
n
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
-
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy.
-
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn
2013-2017
-
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA
BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1 Khái niệm chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy
1.1.1 Khái niệm chất ma túy
Khái niệm “chất ma túy” theo định nghĩa của các tổ chức quốc tế:
-
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc:“Ma tuý là chất hoá học có nguồn
gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng
làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc
vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng...”.
-
Theo Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc
(UNODC), “Chất ma túy” là một thuật ngữ được sử dụng đa nghĩa: trong y học, nó
đề cập đến bất kỳ chất nào có khả năng ngăn ngừa hoặc chữa bệnh hoặc tăng cường
và phục hồi thể chất hoặc tinh thần trong dược học: nó có nghĩa là bất kỳ tác nhân
hóa học nào làm thay đổi quá trình sinh hóa hoặc sinh lý của tế bào sinh vật.
-
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1982): “Ma tuý theo nghĩa
rộng nhất là mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất
cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng
những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật”.
Khái niệm "chất ma túy" theo pháp luật Việt Nam
Theo quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống ma tuý Việt Nam năm 2000
(sửa đổi năm 2008) cũng như quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLTBCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24/12/2007 thì: “Chất ma túy” là các chất gây
nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do
Chính phủ ban hành.
Qua nghiên cứu nhận thấy các LHS đều không đưa ra định nghĩa về ma
túy hay chất ma túy, đối với LHS năm 1999 chỉ tìm thấy tên cụ thể của một số
6
chất ma túy gồm: thuốc phiện, cần sa, côca, hêroin và côcain, đến
LHS năm
2015 có bổ sung thêm một số chất ma túy gồm: Methamphetamine,
Amphetamine, MDMA, XLR-11 và lá khát. Có thể nói việc quy định của BLHS
như vậy không có nghĩa là các chất ma túy khác theo các quy định của Luật
phòng chống ma túy không bị xử lý mà các chất đó được đưa vào nhóm “các
chất ma túy khác”.
LHS năm 1999 và
LHS năm 2015 đều có một chương
riêng quy định về các tội phạm về ma túy, trong các quy định này “chất ma túy”
có nghĩa không hoàn toàn đồng nhất với định nghĩa của Luật phòng, chống ma
túy mà nó có nghĩa rộng hơn, bao gồm cả những cây, cành, lá, rễ, thân, hoa, quả
của những cây có chưa chất ma túy ví dụ như: lá cây côca quả cây thuốc phiện
tươi lá, hoa, quả cây cần sa lá khát.Cách quy định như vậy của BLHS là có tiếp
thu nội dung và yêu cầu của các Công ước quốc tế về ma túy, đặc biệt là Công
ước về chống buôn bán hợp pháp các chất gây nghiện và chất hướng thần năm
1988. [35]
Tóm lại chất ma túy là chất tự nhiên hoặc tổng hợp, gây kích thích, ức chế
thần kinh, có khả năng gây ảo giác, có khả năng dẫn tới tình trạng nghiện đối
với người sử dụng. Các chất ma túy cụ thể được liệt kê trong các danh mục do
Chính phủ Việt Nam ban hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung
tại Nghị định số 126/2015/NĐ-CP gồm có 250 chất ma túy và 43 tiền chất. [4, 5]
1.1.2 Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy
dưới bất kỳ hình thức nào ví dụ như: bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma tuý
để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma tuý khác
để bán lại trái phép; hoặc dùng ma tu để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để
đổi lấy ma tuý.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm: Tội mua bán trái phép chất ma túy là
những hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế
7
độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà theo quy định của pháp luật hình
sự bị xử lý hình sự.
1.2 Quy định của Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép
chất ma túy
Tội phạm về mua bán trái phép chất ma túy luôn là loại tội phạm nguy hiểm
cần sự quản lý và theo dõi sát sao của Nhà nước. Tìm hiểu lịch sử về tội mua bán
trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam có thể nhận thấy pháp
luật hình sự Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến quản lý tội phạm về mua bán trái
phép chất ma túy từ rất sớm và mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội, pháp luật
hình sự lại có sự thay đổi tương ứng nhằm đáp ứng được các yêu cầu trong công
cuộc đấu tranh, phòng, chống loại tội phạm này. Để có cái nhìn khái quát và đầy
đủ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất
ma túy, tác giả lựa chọn việc tìm hiểu các quy định về loại tội này thông qua
từng giai đoạn cụ thể tương ứng với thời điểm ra đời các BLHS.
1.2.1 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của pháp luật giai
đoạn phong kiến và thuộc địa
Trong những thế kỷ trước, ma túy chưa được phân thành nhiều loại như
hiện nay, chủ yếu được biết đến với tên gọi “thuốc phiện” (hay á phiện, a phiến,
nha phiến) được chiết suất từ các hạt trong v mầm cây anh túc. Từ giữa thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XIX, pháp luật phong kiến Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện
một số đạo luật đầu tiên quy định về cấm trồng, sử dụng và mua bán thuốc
phiện. Dưới triều vua Mịnh Mạng và vua Tự Đức, chiếu dụ cấm thuốc phiện
được ban hành tới toàn bộ dân chúng, người vi phạm có thể bị án tử.
Thời kì những năm Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp, Việt Nam đã
bị biến thành vùng đất mà Pháp đẩy mạnh việc công khai phát triển trồng, sử
dụng và buôn bán thuốc phiện. Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công,
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
nhiệm vụ cấp bách của chúng ta lúc bấy giờ là phải tuyệt đối cấm thuốc phiện
8
bởi thuốc phiện chính là thứ mà chế độ thực dân đã đầu độc nhằm hủ hóa dân tộc
ta. Ngày 22/12/1952 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 225/TTg quy
định cụ thể những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Ngày 15/9/1955,
Thủ tướng chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 580/TTG quy định các trường
hợp phải đưa ra truy tố trước Tòa như: buôn lậu thuốc phiện có nhiều người
tham gia, thủ đoạn gian dối, có giá trị hàng phạm pháp trên 1 triệu đồng… Tiếp
đó ộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 635-VHH/HS ngày 29/3/1958 quy định về
đường lối truy tố đối với việc đặt tiền cọc mua thuốc phiện lậu và Thông tư
33/VHH-HS ngày 05/07/1958 được ban hành để hướng dẫn đường lối truy tố xét
xử buôn lậu thuốc phiện. Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành
Nghị định 76/CP về chống buôn lậu thuốc phiện và sử dụng thuốc phiện. Trên cơ
sở Nghị định này, TAND tối cao, VKSND tối cao,
NV đã ra Thông tư liên
ngành hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước.
Xét một cách khái quát, từ khi manh nha có những đạo luật dưới dạng
chiếu dụ về cấm sử dụng thuốc phiện dưới các triều phong kiến tới khi việc cấm
buôn lậu thuốc phiện được đưa vào quy định rõ trong các Nghị định và Thông tư
thời kì trước năm 1985, có thể nhận thấy pháp luật thời kỳ này dù đã bước đầu
có quyết tâm về phòng, chống ma túy tuy nhiên các văn bản pháp luật còn nằm
rải rác, quy định tương đối đơn giản, chất ma túy đề cập trong các văn bản pháp
luật mới chỉ là thuốc phiện đồng thời hình phạt đối với hành vi phạm tội chủ yếu
mới chỉ dừng lại ở phạt tiền vì vậy chưa có sự phân hóa trách nhiệm hình sự cao.
1.2.2 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình
sự năm 1985
LHS năm 1985 là LHS đầu tiên có quy định các tội liên quan đến ma
tuý tuy nhiên tại thời điểm này các quy định còn rất khái quát. Theo đó nếu hành
vi mua bán trái phép chất ma túy thực hiện trong nước thì áp dụng Điều 166:
“Người nào buôn bán, tàng trữ các chất may tuý, ngoại tệ hoặc buôn bán kim
khí quý, đá quý thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.” Khung hình phạt cao
9
nhất quy định tại Điều luật này mới chỉ dừng lại ở phạt tù 20 năm. Nếu buôn
bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì áp dụng Điều 97 quy định về tội buôn
lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Ngày 28/12/1989
Quốc hội đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LHS năm 1985,
trong đó quy định rõ hơn tại Điều 96a - Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận
chuyển trái phép các chất ma túy, đặt trong chương các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt cao nhất có thể
bị áp dụng là tử hình. Hướng dẫn khái niệm về hành vi mua bán trái phép chất
ma túy đề cập trong Điều 96a
LHS 1985, Thông tư liên ngành số 09-TTLN
ngày 10/10/1996 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ quy định như
sau: “Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi bán hay mua, tàng trữ
để bán lại bất hợp pháp (có thể là mua để bán lại chất ma tuý đó, cũng có thể là
mua để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại); cũng được coi là hành vi mua
bán trái phép chất ma tuý các hành vi trao đổi, thanh toán... bất hợp pháp bằng
các chất ma tuý.”
Trước xu hướng phát triển của xã hội và tình hình tội phạm về ma túy mỗi
năm một gia tăng với những thủ đoạn tinh vi hơn, dần trở thành vấn đề nhức
nhối đòi h i phải có sự quản lý chặt chẽ và gắt gao hơn nữa của pháp luật, Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã kịp thời đưa quy định tại Điều 61:
"... Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép
thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai
nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm...". Thể chế hóa các quy định của
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, LHS năm 1985 tại lần sửa đổi
thứ IV năm 1997, tội phạm ma túy đã được quy định thành một chương riêng
(Chương VIIA), gồm 14 điều, quy định 13 tội danh trong đó quy định về “Tội
mua bán trái phép chất ma túy” tại Điều 185đ với khung hình phạt cao nhất là tử
hình.
10
Có thể nói sau nhiều lần sửa đổi bổ sung,
LHS năm 1985 đã trở thành
LHS đầu tiên của nước ta đặt ra những quy định nghiêm khắc đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy, không chỉ dừng lại ở việc quy định khung hình phạt
cơ bản mà còn có cả những khung hình phạt tăng nặng với nhiều mức phạt
nghiêm khắc hơn. ên cạnh đó, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ đã
ban hành Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/1/1998 và Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV
ngày 05/8/1998 hướng dẫn chi tiết hơn về các hành vi liên quan đến tội phạm
này nhằm góp phần hoàn thiện hơn các quy định của LHS năm1985 về các tội
phạm về ma túy.
1.2.3 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999
LHS năm 1999 là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta.
Đây là bộ luật tương đối đầy đủ, hoàn thiện quy định chi tiết các tội phạm về ma
túy trong một chương riêng (Chương XVIII) với 10 tội riêng biệt, đáp ứng nhu
cầu cải cách tư pháp, khắc phục những tồn tại và hạn chế mà quy định tại BLHS
năm 1985 đã không còn phù hợp với điều kiện phát triển của kinh tế, xã hội. Tội
mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 LHS năm 1999 quy
định tội ghép, bao gồm 4 hành vi: tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép và
chiếm đoạt chất ma túy. Song song với việc ban hành
LHS năm 1999, Quốc
hội khóa X đã thông qua Luật phòng chống ma túy, có hiệu lực từ ngày
01/6/2001, là đạo luật đầu tiên về phòng, chống ma túy, tạo cơ sở pháp lý mạnh
mẽ để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn ma túy. Việc phối hợp
giữa các cơ quan chức năng trong việc phòng chống ma túy cũng chiếm vai trò
vô cùng quan trọng, bởi thế ngày 24/12/2007, TANDTC, VKSNDTC, BCA,
TP đã ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của LHS năm 1999
thay thế Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT và Thông tư liên tịch số
11
02/1998/TTLT. Trước tình hình thực tiễn và nhu cầu đảm bảo sự công bằng,
chính xác, khách quan đối với công tác xét xử tội phạm về ma túy, ngày
17/9/2014, TANDTC cũng ban hành Công văn số 234/TANDTC hướng dẫn các
Tòa án địa phương trong việc giải quyết án ma túy. Tiếp đó, để việc áp dụng
pháp luật được thống nhất, các cơ quan tố tụng Trung ương đã nghiên cứu và
ban hành Thông tư số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày
14/11/2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/12/2015 sửa đổi, bổ sung một số
điểm của Thông tư liên tịch số 17 và để hướng dẫn triển khai thực hiện Thông tư
này, ngày 11/12/2015, TANDTC tiếp tục ban hành Công văn 315/TANDTC-PC
và Công văn 110-CV/BCS.
Nghiên cứu quy định tại Điều 194
LHS năm 1999, có thể thấy các dấu
hiệu pháp l cơ bản của tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm:.
-
Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Khách thể trực tiếp của tội mua bán trái phép chất ma túy là chế
độ thống nhất quản lý của Nhà nước về hoạt động mua bán chất ma túy. Theo
quy định tại Điều 1 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP thì ma túy là loại chất gây
nghiện, hướng thần vô cùng độc hại và nguy hiểm, do tính chất đặc biệt đó của
nó mà chỉ có Nhà nước mới có thể độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy
với những quy định hết sức nghiêm ngặt. [4]
Đối tượng tác động của tội mua bán trái phép chất ma túy chính là các chất
ma túy. Liên hợp quốc đã có các Công ước quy định rất cụ thể danh mục các
chất ma túy, các chất hướng thần, đó là: Công ước thống nhất về các chất ma túy
năm 1961 [18] Công ước về các chất hướng thần năm 1971 [19] Công ước về
chống buôn bán bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm
1988 [20]. Theo các công ước đó Liên hợp quốc chính thức công nhận có 225
chất ma túy và 22 tiền chất.
12
Các chất ma túy thường gặp và là đối tượng phổ biến của các tội phạm về
ma túy bao gồm: thuốc phiện (nhựa thuốc phiện hay còn gọi là nhựa đặc của cây
anh túc); cần sa (phần ngọn mang hoa và quả của cây cần sa mà nhựa chưa được
chiết ra); nhựa cần sa (lá của cây coca-lá chưa dùng để chiết xuất); moocphin
(chất chiết từ thuốc phiện); côcain; hêroin; chất hướng thần như amphetamine
các tiền chất ma túy; các tiền chất hướng thần; cây trồng có chứa chất ma túy
như cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chưa chất ma
túy; các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy (quả thuốc phiện ở dạng khô
và dạng tươi) … Hiện nay pháp luật Việt Nam xác định có tất cả 250 chất ma túy
và 43 tiền chất được chia thành các danh mục ban hành kèm theo Nghị định số
82/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ, sửa đổi bổ sung tại Nghị định
126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015.
Theo đó chất ma túy và tiền chất được phân chia thành 04 danh mục:
Danh mục I: Các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời
sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu
khoa học, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ như: Alphacetylmethadol, Cần sa và các chế phẩm từ cần sa, Heroine,
MDMA,…
Danh mục II: Các chất ma túy dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y thế theo quy định
của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Lá Coca, Cocaine, Acetylmethadol,
Benzenthidine,…
Danh mục III: Các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định
của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Alprazolam, Benzfetamine, Camazepam,
Phentermine,…
Danh mục IV: Các tiền chất. Ví dụ như: Alpha-phenyl acetoacetonitrile
(APAAN), Gamma-butyro lactone (GBL),…
13
-
Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao
gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội
cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả do hành vi đó gây ra các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi
phạm tội. Với tội mua bán trái phép chất ma túy, mặt khách quan của tội mua
bán trái phép chất ma túy chính là các hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Khoản 1 Điều 194 LHS năm 1999 quy định người nào mua bán trái phép
chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Hành vi mua bán trái ph p
chất ma túy tại điều luật này đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 3.3 mục II
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, là một
trong các hành vi sau đây:
a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn
gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người
khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác: Đây là hành vi phổ biến nhất của
tội mua bán trái phép chất ma túy, dù là người bán đã dùng ma túy mà mình có
dưới bất kì hình thức nào (mua, xin, nhặt, cầm hộ hoặc chiếm được… ) để bán
cho người khác thì đều nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc hưởng lợi ích nhất
định từ việc bán đó.
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi mà người
phạm tội dùng tiền, tài sản để có được chất ma túy, dùng chất ma túy có được đó
bán cho người khác kiếm lời. Trường hợp này việc có được chất ma túy của
người phạm tội xuất phát từ hành vi mua trái phép chất ma túy, các cơ quan tố
tụng chứng minh được nguồn gốc ma túy là do người phạm tội mua mà có
(không phải do xin, chiếm đoạt, hay do sản xuất mà có) đồng thời chứng minh
được mục đích của người phạm tội là dùng chất ma túy mua được đó để bán,
không quan trọng là hành vi bán đó đã thực hiện hay chưa.
14
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi mà người
phạm tội dùng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình chất ma túy, sau
đó bán lại chất ma túy xin được cho người khác nhằm kiếm lời.
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có): Hành vi người phạm tội sử dụng ma túy như
vật có giá trị tương đương với tài sản để thanh toán cho nhu cầu của mình.
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma
túy nhằm bán lại trái phép cho người khác: Hành vi phạm tội này sử dụng tài sản
không phải tiền như: vật, giấy tờ có giá, các quyền tài sản,… để đem trao đổi
thanh toán lấy chất ma túy nhằm bán lại trái ph p cho người khác.
e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi này
khác với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở điểm cơ bản là mục đích của
việc tàng trữ đó là nhằm bán trái phép chất ma túy đó cho người khác chứ không
phải là để sử dụng cho bản thân.
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi
chuyển dịch chất ma túy từ nơi này đến nơi khác hoặc từ người này sang người
khác bằng bất kì phương tiện và cách thức nào đồng thời luôn phải có mục đích
là bán trái phép chất ma túy cho người khác.
Cũng tại phần này, pháp luật cũng quy định thêm đối với người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua
bán trái phép chất ma túy vừa được liệt kê như trên đều bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm
thực hiện hành vi khách quan này vì vậy các dấu hiệu về công cụ, phương tiện
phạm tội, hậu quả do tội phạm gây ra,… không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với
loại tội phạm này.
-
Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan là những hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt
chủ quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu pháp lý: Lỗi, động cơ và mục đích.
15
Yếu tố lỗi là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định tội phạm và TNHS.
Người phải chịu TNHS theo luật hình sự Việt Nam không phải đơn thuần chỉ là
người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà còn phải đã có lỗi trong việc thực
hiện hành vi khách quan đó.
Với tội mua bán trái phép chất ma túy, người phạm tội mua bán trái phép
chất ma túy thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý, không chỉ nhận thức được
hành vi của mình là trái pháp luật, thấy được tác hại do hành vi của mình gây ra
mà còn vẫn cố tình thực hiện hành vi đó. Dù hành vi mua bán trái ph p chất ma
túy được thực hiện với động cơ hay mục đích nào thì đây là lỗi cố ý trực tiếp.
Động cơ, mục đích của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy rất đa dạng
nhưng hai yếu tố này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội mua
bán trái phép chất ma túy.
-
Chủ thể của tội phạm:
Theo quy định của LHS năm 1999, chủ thể của tội phạm là người có năng
lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Năng
lực TNHS là khả năng của một người ở thời điểm thực hiện hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội nhận thức được hành vi đó của mình là nguy hiểm và điều khiển
một cách có ý thức được hành vi đó. Từ đó năng lực TNHS là điều kiện cần thiết
để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội và chỉ có người có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm.
Nghiên cứu quy định về phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 và Điều 194
LHS năm 1999 thì: người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS phải chịu
TNHS thuộc bất kỳ khoản nào của Điều 194 LHS năm 1999. Người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1, mà chỉ chịu TNHS thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, 3 và 4 của
Điều 194 LHS năm 1999.
16
Khoản 1 Điều 194 LHS năm 1999 quy định về cấu thành tội phạm cơ bản
của tội mua bán trái phép chất ma túy, theo đó người có hành vi mua bán trái
phép chất ma túy sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Khoản 2,3,4 Điều 194
LHS năm 1999 quy định về các tình tiết định
khung tăng nặng đối với loại tội phạm này, mức hình phạt tương ứng bao gồm
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi
năm, phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Tại khoản 2 Điều 194 LHS năm 1999 có quy định các tình tiết tăng nặng
bao gồm:
a) Có tổ chức;
Đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20
LHS năm 1999), người đồng phạm bao
gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức (khoản 2
Điều 20 LHS năm 1999). Như vậy phạm tội mua bán trái phép chất ma túy có
tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với
nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy dưới sự
điều khiển thống nhất của “người tổ chức”. Người tổ chức việc mua bán trái
phép chất ma túy là người khởi xướng, cầm đầu việc mua bán trái phép chất ma
túy. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, trực tiếp thực hiện
hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Người xúi giục là người thực hiện các
hành vi tác động lên một người khác (kích động, dụ dổ, thúc đẩy, khuyến
khích,…) nhằm làm cho người đó thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma
túy. Người giúp sức là người tạo các điều kiện giúp đỡ thể hiện qua việc giúp
cung cấp địa chỉ, phương tiện, tiền hoặc các vật chất khác… nhằm giúp cho hành
vi mua bán trái phép chất ma túy được diễn ra. Phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy có tổ chức có thể có đủ những người đồng phạm, cũng có trường hợp
không đủ tất cả các loại đồng phạm, tuy nhiên luôn luôn phải có người tổ chức
17
và người thực hành. Nếu thiếu một trong hai người này thì không thể có phạm
tội có tổ chức. [19, tr. 105]
b) Phạm tội nhiều lần;
Tiểu mục 2.3 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT - BCA VKSNDTC - TANDTC -
TP có hướng dẫn cụ thể: "Phạm tội nhiều lần là
phạm từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật
(hoặc tại cùng một khoản của điều luật) tương ứng trong phần riêng LHS, đồng
thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và
người phạm tội vẫn chưa bị xét xử". Như vậy tình tiết "phạm tội nhiều lần" đối
với tội mua bán trái phép chất ma túy được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở
lên (hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy, hai lần bán trái phép chất ma túy)
mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều
luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số
lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu điều luật có quy định về số lượng
chất ma túy để định khung hình phạt.
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
Dựa vào hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT - BCA - VKSNDTC - TANDTC – BTP, tình tiết "lợi dụng chức vụ
quyền hạn" được hiểu là người phạm mua bán trái phép chất ma túy đã dựa vào
chức vụ, quyền hạn mà mình được đảm nhiệm để thực hiện hành vi phạm tội.
Điều 277 LHS năm 1999 cũng có quy định: Người có chức vụ là người
do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và
có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ
Như vậy đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, tình tết lợi dụng chức
vụ, quyền hạn có thể được hiểu là việc người phạm tội dựa vào chức vụ, quyền
18
hạn mà mình đảm nhiệm để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn thì
cũng không thuộc trường hợp phạm tội này. Thực tiễn cho thấy do tính chất siêu
lợi nhuận của ma túy mà không ít người có chức vụ trong các cơ quan có chức
năng phòng chống ma túy lại chính là những người tham gia vào các đường dây
buôn bán ma túy. Sự góp mặt của họ như một hình thức bảo kê đối với tội phạm,
thông qua những chức vụ, quyền hạn của mình, họ có thể bao che, cung cấp
thông tin, tạo điều kiện cho tội phạm tiến hành hành vi phạm tội trót lọt. Do vậy
việc LHS quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn là tình tiết khung tăng
nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy là rất cần thiết và hợp lý
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
Tình tiết này được hưỡng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Thông tư liên
tịch số 17/2007/TTLT - BCA - VKSNDTC - TANDTC - BTP cụ thể: người
phạm tội đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc công tác
để thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để mua bán trái phép chất
ma túy là trường hợp người phạm tội thông qua danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà
mình là thành viên để mua bán trái phép chất ma túy. Việc lợi dụng này thường
xảy ra đối với trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất
định trong cơ quan, tổ chức, song cũng có thể chỉ đơn thuần là do người không
hề có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhưng tự mượn danh nghĩa, lợi
dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức của mình để thực hiện hành vi phạm tội.
đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
Đây là tình tiết quy định tính chất phạm vi về không gian của hành vi phạm
tội. Không gian này được xác định theo lãnh thổ quốc gia. Mua bán trái phép
chất ma túy qua biên giới là việc mua bán ma túy từ nước này sang nước khác,
dưới bất kỳ hình thức nào, chỉ quy định “qua biên giới”, không giới hạn chỉ qua
biên giới Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam, hay biên giới giữa
19
các nước khác với nhau. Chính vì vậy đối với trường hợp phạm tội này, ngoài
việc truy cứu TNHS đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới
Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam, còn có thể truy cứu TNHS
đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy từ một nước không phải là Việt
Nam sang một nước thứ ba. Ví dụ: Mua bán ma túy từ Trung Quốc sang Thái
Lan, từ Singapore sang Campuchia,… Việc truy cứu TNHS đối với những người
mua bán trái phép chất ma túy trong trường hợp này phải căn cứ vào Điều 6
LHS năm 1999 về Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm
tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó
người nào vận chuyển ma túy qua biên giới cho người khác mà biết mục đích
của người đó là mua bán trái ph p chất ma túy thì cũng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới với vai trò là đồng
phạm. Tội phạm chỉ hoàn thành khi người phạm tội đã vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy qua biên giới, nếu người phạm tội có mục đích đưa chất ma túy
qua biên giới nhưng vì l do nào đó mà người phạm tội chưa đưa được chất ma
túy qua biên giới thì không áp dụng tình tiết này
e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;
Tình tiết này quy định trường hợp sử dụng trẻ em vào việc phạm tội mua
bán trái phép chất ma túy là trường hợp người phạm tội đã dụ dỗ, mua chuộc,
hăm dọa, khống chế, lôi kéo hoặc dùng bất kì thủ đoạn nào để người dưới 16
tuổi thực hiện một hoặc nhiều hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm
đoạt chất ma túy. Nếu xúi giục trẻ em thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy mà người bị xúi giục là trẻ em
chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người phạm tội vẫn bị coi là sử
dụng trẻ em vào việc phạm tội.
Bán ma túy cho trẻ em là dùng ma túy mà mình có được bằng bất kì hình
thức nào để bán cho người dưới 16 tuổi để lấy tiền, tài sản hoặc bất kì lợi ích nào
khác
20
p) Tái phạm nguy hiểm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 LHS năm 1999 thì những trường hợp
sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: "a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng do cố , chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố
b) Đã tái phạm, chưa được xóa
án tích mà lại phạm tội do cố ý".
Tình tiết tái phạm nguy hiểm đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
được hiểu là người bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
cố , chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 LHS năm 1999 hoặc đã tái phạm
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Nếu người
đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố , chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy
định tại khoản 3, khoản 4 Điều 194 LHS năm 1999 thì tình tiết "tái phạm nguy
hiểm" được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS, không phải là tình tiết định
khung tăng nặng theo quy định tại điểm p, khoản 2 Điều 194 LHS năm 1999.
Tại các điểm g, h, i, k, l, m, n, o khoản 2 Điều 194 LHS năm 1999 và các
điểm quy định tại khoản 3, 4 Điều 194 LHS năm 1999 đều có điểm chung là
quy định về các dấu hiệu định khung tăng nặng liên quan đến trọng lượng, thể
tích các chất ma túy. Ở mỗi mức khác nhau, các nhóm ma túy được quy định về
trọng lượng, thể tích khác nhau và với mỗi mức tăng dần về trọng lượng, thể tích
đó lại tương ứng với một mức hình phạt tăng cao tương ứng.
Quy định về hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
Điều 26
LHS năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước b hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án
quyết định.” Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị kết án có
thể bị tước b hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền tài sản về chính trị và quyền
21
sống. Bên cạnh đó hình phạt cũng để lại hậu quả pháp l là án tích cho người bị
kết án trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật.
Đối với tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Điều 194
LHS năm 1999, hình phạt áp dụng với loại tội này bao gồm hình phạt chính và
hình phạt bổ sung. Hình phạt chính bao gồm bốn khung hình phạt theo mức độ
tăng dần về sự nghiêm khắc như sau:
Khung hình phạt cơ bản (quy định tại khoản 1 Điều 194): quy định hình
phạt tù từ hai năm đến bảy năm
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều 194): quy định hình
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai (khoản 3 Điều 194): quy định hình phạt
tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm
Khung hình phạt tăng nặng thứ ba (khoản 4 Điều 194): quy định hình phạt
hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Về hình phạt bổ sung (khoản 5 Điều 194): phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tóm lại BLHS năm 1999 là ộ luật thể hiện bước nhảy vọt trong việc hoàn
thiện các quy định pháp luật nói chung và cả quy định về tội phạm ma túy nói
riêng. Đây là bộ luật thể hiện sự tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, ban hành
kèm theo nó là một hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn rất đa dạng và
phong phú, quy định một cách tương đối toàn diện, tạo nên công cụ pháp lý sắc
bén, hiệu quả, góp phần ổn định trật tự, xóa b và bài trừ dần những tệ nạn ma
túy ra kh i xã hội.
1.2.4 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình
sự 2015
LHS năm 2015 có sự kế thừa tương đối các quy định của
LHS năm
1999 bởi vậy có thể khái quát định nghĩa tội mua bán trái phép chất ma túy như
22
sau: Tội mua bán trái phép chất ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện môt cách cố ý, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà
nước về chất ma túy.
Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội mua bán trái phép chất ma túy.
Khoản 1 Điều 251 LHS năm 2015 quy định cấu thành cơ bản của tội mua
bán trái phép chất ma túy với khung hình phạt là từ hai đến bảy năm tù. Về mặt
cấu trúc, các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy quy định trong LHS năm 2015 cũng tương tự như LHS năm
1999, được phân thành 4 yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ
quan như đã phân tích ở trên.
-
Khách thể của tội phạm: Là chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về
hoạt động mua bán các chất ma túy. So với BLHS năm 1999, LHS năm 2015
sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có quy định thêm nhiều chất ma túy hơn, cụ thể đã
bổ sung các chất như: Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11,
lá khát (lá cây Catha edulis); không chỉ còn là lá, hoa, quả cây cần sa mà còn bổ
sung thêm rễ, thân, cành cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma
túy do Chính phủ quy định.
-
Mặt khách quan của tội phạm: Là hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Đây là hành vi có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như dưới
hình thức hành vi mua bán theo nghĩa thông thường, hành vi xin, cất giữ, vận
chuyển để bán hoặc hành vi trao đổi, thanh toán bằng chất ma túy..v..v.. Tội
phạm hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi khách quan này vì vậy các dấu
hiệu về công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả do tội phạm gây ra,… không
phải là dấu hiệu bắt buộc đối với loại tội phạm này.
-
Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất
ma túy chính là yếu tố lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Lỗi của người phạm tội
23