Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.86 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ VIẾT CHINH

ĐỐI TƯỢNG CẦN CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGUYỄN MINH ĐỨC

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi. Kết quả luận văn là sự học tập,
cố gắng nỗ lực của bản thân. Vậy tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Viết Chinh



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Ban giám đốc Học viện khoa học xã hội cùng các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy,
chỉ bảo, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập. Tôi xin trân trọng cảm ơn
sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của TS Nguyễn Minh
Đức, những định hướng của thầy quyết định đến sự thành công của luận văn.
Những kết quả đã đạt được trong luận văn ngoài sự nỗ lực, cố gắng nghiên cứu
của bản thân tác giả, còn có sự kế thừa, tổng hợp tài liệu của các nhà nghiên cứu đi
trước. Tuy nhiên do điều kiện nghiên cứu, trình độ của bản thân còn hạn chế nhất
định nên luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả luận văn mong được sự giúp
đỡ và góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô và đồng nghiệp để luận văn được
hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI
TƯỢNGCẦN CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM
PHẠMSỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT............................ .................7
1.1.
Khái niệm và đặc điểm đối tượng cần chứng minh trong điều tra các
vụ án
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt..............................................................7
1.2.................................................................................................................... Phâ
n loại đối tượng cần chứng minh và phương pháp chứng minh.................. 12
1.3.
Ý nghĩa của đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm
phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt.............................................................................. 17

1.4 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng cần chứng minh trong
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt................................20
Chương 2.THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƯỢNG CẦN
CHỨNG MINHTRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH...................................36
2.1.
Tình hình, đặc điểm, kinh tế xã hội, tổ chức bộ máy của các cơ quan
điều
tra trên địa bàn tỉnh Nam Định..............................................................................36
2.2.
Những kết quả đạt được về việc xác định đối tượng cần chứng minh
trong
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Nam
Định thời gian qua (2013 - 2017)........................................................................... 39
2.3.
Nguyên nhân của những hạn chế về xác định đối tượng cần chứng
minh trong điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn


tỉnh Nam Định.......................................................................................................57

Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƯỢNG CẦN CHỨNG MINH
TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT CỦA CÁC CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM
ĐỊNH............................................................................................................... 62
3.1.
Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật
về

đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt ............................................................................................................. 62
3.2.
Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật về
đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chất
chiếm đoạt ............................................................................................................. 63
KẾT LUẬN............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU LIỆU THAM KHẢO................................................... 77


BLHS
BLTTHS

Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự

CQCSĐT
CQĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra
Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

CQANĐT Cơ quan an ninh điều tra
ĐTV


Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VAHS
VKS

Vụ án hình sự
Viện kiểm sát

VKSNDTC


Viện kiểm sát nhân dân Tối
Cao
Viện kiểm sát nhân dân

VKSND


MỞ ĐẦU
l.

Tính cấp thiết của đề tài

Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới hơn hai thập kỷ qua, Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, đẩy mạnh
công cuộc đổi mới toàn diện và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan
trọng. Đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời
tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội
ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực
hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nam Định có vị trí thuộc đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp với tỉnh Thái Bình
ở phía Đông Bắc, tỉnh Ninh Bình ở phía Nam, tỉnh Hà Nam ở phía Tây Bắc, giáp
biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía Đông và cách thủ đô Hà Nội 100 km về phía Bắc, có diện
tích 1.652,29 km2. Theo điều tra dân số ngày 01/04/2014 Nam Định có 1,805,771
người với mật độ dân số 1,196 người/km 2. Nam Định có 10 đơn vị hành chính cấp
huyện là thành phố Nam Định và 9 huyện là Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Ý
Yên, Vụ Bản, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Mĩ Lộc, trong đó có một thành
phố loại một là thành phố Nam Định và 3 huyện duyên hải thuộc Vịnh Bắc Bộ là
Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng. Người dân Nam Định chủ yếu là người Kinh,

người theo đạo thiên chúa giáo khoảng 23% . Sau khi được tái thành lập, Nam Định
đã có những bước chuyển mình đáng khích lệ, tốc độ đô thị hóa trên địa bàn tỉnh
diễn ra nhanh trên phạm vi rộng, các khu công nghiệp được hình thành đã thu hút
nhiều lao động tạo điều kiện thuậnlợi để tỉnh Nam Định phát triển mọi mặt cả về
kinh tế, văn hóa và xã hội.
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền,
công tác phòng ngừa tội phạm ở Nam Định đã đạt được kết quả đáng kể, an ninh
chính trị được giữ ổn định, trật tự an toàn xã hội có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu đạt được, Nam Định cũng gặp phải nhữngkhó khăn nhất

1


định, như dân cư nhiều thành phần, trật tự xã hội diễn biến phức tạp, nhiều loại tội
phạm hoạt động với thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó kiểm soát... Các tội phạm xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Nam Định vẫn diễn ra, thậm
chí còn có một số tội phạm tiếp tục phát sinh và phức tạp như tội: Tội cướp tài sản,
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Tội cưỡng đoạt tài sản, Tội cướp giật tài sản,
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Tội trộm cắp tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra nhiều thiệt hại cho cá nhân,
các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp và nhân dân, từ đó đã ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó công tác điều tra khám phá tội phạm của các cơ
quan chức năng còn nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp cần thiết giữa các lực lượng
tiến hành, sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân còn hạn chế. Tỷ lệ các vụ án được phát
hiện thấp, tiến trình điều tra chậm, đề nghị xử lý bắt hình sự chưa cao. Vì vậy việc
nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra xử lý các
tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là một đòi hỏi hết sức cấp bách,
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội đất nước. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Đối tượng cần chứng minh

trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn
tỉnh Nam Định ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Như vậy, có thể nói, việc nghiên cứu vấn đề “Đối tượng cần chứng
minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ
thực tiễn tỉnh Nam Định ” là vấn đề cấp thiết và không trùng lặp với các đề tài
nghiên cứu trước đó.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở nước ta cho đến nay, đề tài đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự nói
chung và trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng, không
phải là đề tài hoàn toàn mới mẻ. Liên quan đến đề tài trên đã có một số luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ luật học được thực hiện. Cụ thể như sau:

2


- Luận văn thạc sỹ luật học học: “Quá trình chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Thanh Hòe năm 1997 đã trình bầy và
phân tích một cách khoa học về lý luận chứng minh và vận dụng chứng cứ để chứng
minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam [18].
- Luận văn thạc sỹ luật học “Quá trình chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Du năm 1999 đã làm sáng tỏ những
vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận của quá trình giải quyết vụ án hình sự trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm.[13]
- Luận văn thạc sĩ luật học “Quá trình chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự ở Việt Nam ” của tác giả Phạm Thị Như Quỳnh năm 2011 đã làm sáng tỏ
một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chứng minh
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.[28]

-Luận văn tiến sĩ luật học ”Thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam” của Tiến sỹ Nguyễn Văn Đương năm 2000.[16]
-Luận văn thạc sĩ ”Hoạt động chứng minh của Tòa án trong giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh" của học viên Nguyễn Thanh Vân - Học viên cao học khóa V đợt 1 năm
2014 Học viện khoa học xã hội.[37]
-Luận văn thạc sĩ ”Đối tượng chứng minh trong các vụ án xâm phạm tính
mạng, sức khỏe theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lâm
Đồng” của học viên cao học Nguyễn Chí Khuê - Học viên cao học khóa V đợt 1 năm
2014 Học viện khoa học xã hội.[19]
Ngoài ra còn có một số luận án tiến sỹ luật học, luận văn thạc sỹ của một số
tác giả khác cũng đã đề cập đến việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án hình sự và quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự.
Ở dạng sách tham khảo và chuyên khảo tác giả các tác giả sau đã có công
trình nghiên cứu một cách rất công phu như:

3


- "Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" và "Một số vấn
đề về chứng minh trong tố tụng hình sự " của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, tạp chí kiểm
sát số 9, 2003. [30]
- Tiến sỹ Đỗ Văn Đương - Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự
năm 2006.[12]
- ”Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Chương VI, mục 6) PGS.TS
Võ Khánh Vinh chủ biên trường Đại học Huế năm 2000.[33]
- ”Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục Bộ công an, Hà nội tháng 6/2004.[1]
3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn một vấn đề cụ thể của hoạt
động chứng minh, đó là đối tượng cần chứng minh trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt để xác định xem khi tiến hành
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì phải chứng minh
những vấn đề gì, phương pháp chứng minh như thế nào, các cơ quan tiến hành tố
tụng sử dụng phương pháp gì để chứng minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:
-

Xây dựng và làm rõ đối tượng cần chứng minh trong điều

tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
-

Đánh giá, phân tích thực trạng công tác điều tra các tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Nam Định, từ đó
chỉ ra những tồn tại, hạn chế liên quan đến đối tượng chứng minh trong
điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và một số
nguyên nhân cơ bản.

4


-


Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc điều tra giải quyết các tội xâm
phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Nam Định. Đồng thời đưa ra hệ thống giải pháp về
việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. ĐỒÌ tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: “Những vấn đề cần chứng minh
trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn
tỉnh Nam Định ” (Trên cơ sở số liệu của Văn phòng Công an tỉnh Nam Định).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Luận văn nghiên cứu những vấn đề cần chứng minh trong

các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong điều tra các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Các tội xâm phạm sở hữu ở
đây tác giả đề cập đó là xâm phạm tài sản của Nhà nước, của cá nhân và
các tổ chức. Đối tượng cần chứng minh bao gồm nhiều vấn đề đó là: đối
tượng chứng minh; nghĩa vụ chứng minh; quá trình chứng minh; phạm vi
và giới hạn chứng minh, trong khuôn khổ luận văn tác giả không thể
nghiên cứu chuyên sâu tất cả những vấn đề trên, do đó luận văn chỉ dừng
lại ở góc độ nghiên cứu dưới góc độ khoa học luật TTHS đối tượng chứng
minh được quy định trong BLTTHS nói chung từ đó rút ra được đối tượng
cần chứng minh trong điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt của CQĐT. Nghiên cứu những bất cập giữa lý luận và thực
tiễn từ đó đề ra những giải pháp khắc phục
-


Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vụ án

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản nằm trong Chương các
tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 2015 xảy ra trên địa bàn
tỉnh Nam Định và thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT các cấp thuộc
Công an tỉnh Nam Định.

5


-

Phạm vi thời gian nghiên cứu: Những vụ án xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt xảy ra trên địa bàn nghiên cứu từ 01/12/2012
đến 30/11/ 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn được sử dụng bao gồm phương pháp
thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và trao đổi khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tế của luận văn
6.1.

Ýnghĩa lý luận

Với kết quả đạt được của luận văn có thể đóng góp vào lý luận về chứng
cứ và những vấn đề cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu

có tính chất chiếm đoạt dưới góc độ pháp luật TTHS và đưa ra cơ sở khoa học
của việc hoàn thiện pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh trong các vụ án
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
6.2.

Ýnghĩa thực tiễn

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác thực
tiễn điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt để nâng cao hiệu
quả áp dụng luật TTHS . Ngoài ra luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người làm công tác pháp luật, học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
7.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về đối tượng cần chứng
minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về đối tượng cần chứng minh trong
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Nam Định.

6


Chương 3: Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp
luật về đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt của các Cơ quan điều tra trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƯỢNG
CẦN CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm và đặc điểm đối tượng cần chứng minh trong điều tra các
vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.1 Khái niệm đối tượng cần chứng minh trong điều tra vụ án hình sự
Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “Đối tượng” trên đây được hiểu là một danh từ
chỉ người, vật, hiện tượng mà con người tác động tới, thuật ngữ “Chứng minh” là
một nhận thức suy luận để khẳng định tính chân lý của một luận điểm nào đó, bằng
cách dựa vào tính chân lý đã được thực tiễn xác nhận. Trong thực tiễn khi người ta
cần sự thật để chứng tỏ một vấn đề thật, giả thì người ta cần chứng minh. Như vậy
khái niệm “Đối tượng cần chứng minh” là tổng hợp những vấn đề cần phải được xác
định làm rõ để giải quyết đúng đắn một sự việc nhất định.
Thế giới khách quan là đối tượng nhận thức của con người nhằm chỉ ra được
những quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên trong từng lĩnh
vực hoạt động nhận thức có một đối tượng nhận thức riêng. Hoạt động chứng minh
trong vụ án hình sự nói chung và trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt là quá trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung vụ án và các tình tiết có liên
quan đến vụ án. Mục đích cuối cùng của việc nhận thức này cũng chính là phục vụ
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt nói riêng, thực hiện công tác đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm. Đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự nói chung là tổng hợp những
vấn đề mà các CQTHTT cần phải làm sáng tỏ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự,
đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

7


Trong mỗi vụ án hình sự khác nhau, thì đối tượng, phạm vi yêu cầu chứng minh
có sự khác nhau, tuy nhiên mọi tội phạm đều có những đặc điểm chung, quy luật

chung được khái quát những vấn đề chung nhất mà CQTHTT thường phải chứng
minh trong bất kì vụ án nào. Ví dụ: Có hành vi phạm tội xảy ra không, thời gian, địa
điểm, những tình tiết khác nhau của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện tội phạm,
có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; người thực hiện hành vi nguy hiểm có
năng lực TNHShay không, mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHScủa bị can, bị cáo; tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra. Trong luật TTHS còn quy định nội dung chứng minh có thể bao gồm những
tình tiết khác có liên quan đến vụ án, tùy thuộc vào từng tội phạm cụ thể. Hoặc
những chi tiết chỉ phải chứng minh khi phát sinh những hoạt động tố tụng có liên
quan, ví dụ căn cứ biện pháp tạm giam, biện pháp ngăn chặn.
Trong thực tế, vụ việc phạm tội xảy ra rất đa dạng và phong phú về tính chất,
mức độ, hoàn cảnh.v.v... tuy nhiên tất cả các tội phạm đều có bản chất chung và việc
giải quyết VAHS, xử lý tội phạm đều có những nguyên tắc chung nhất định, vì vậy ta
có thể rút ra được những vấn đề chung nhất mà khi giải quyết VAHS nào cũng phải
chứng minh, đó là những vấn đề thuộc bản chất vụ án, những vấn đề liên quan đến
việc xác định TNHScủa người phạm tội, đối tượng cần chứng minh này phải được
quy định trong BLTTHS. Ngoài ra, BLTTHS còn quy định phải chứng minh những
vấn đề khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn VAHS đó. Những vấn đề
luật TTHS quy định buộc phải chứng minh giống nhau theo quy định của luật TTHS,
song những tình tiết cụ thể mà các tình tiết này cấu thành vấn đề chứng minh là khác
nhau. Ví dụ: Đối với vụ án cướp tài sản, tất cả vụ án đều phải chứng minh được hành
vi phạm tội đó là hành vi gì, tuy nhiên ở mỗi vụ án cướp tài sản khác nhau thì hành
vi đó là khác nhau, có thể là hành vi dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc đe dọa dùng vũ
lực.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp
điều tra theo quy định của pháp luật không chỉ nhằm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,

8



không làm oan người vô tội mà còn nhằm mục đích đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Do đó, trong quá trình điều tra, chứng minh vụ án hình sự, CQĐT phải làm rõ
nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt, CQĐT cần phải chứng minh thêm: Nguyên nhân dẫn đến hành
vi chiếm đoạt tài sản của nạn nhân, do thiếu tiền tiêu xài hay do nguyên nhân khác;
điều kiện phạm tội cần xác định xem tội phạm được thực hiện trong điều kiện hoàn
cảnh nào .v.v... tất cả các yếu tố chứng minh trên phục vụ cho mục đích phòng chống
và ngăn ngừa tội phạm mới xảy ra.
Khi nghiên cứu khái niệm đối tượng cần chứng minh trong VAHS cho thấy,
BLTTHS không nêu khái niệm đối tượng chứng minh mà chỉ nêu những vấn đề phải
chứng minh trong VAHS. Trong khoa học luật TTHS nhìn chung các nhà khoa học
có sự thống nhất về bản chất khái niệm đối tượng chứng minh trong VAHS, những
quan điểm về cách thức thể hiện có sự khác nhau, có ba quan điểm chủ yếu về đối
tượng chứng minh như sau:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng: “Đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự
là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn,
khách quan, toàn diện vụ án hình sự. ” [26Tr166].
Quan điểm thứ hai, cho rằng: “Đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự
là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn
khách quan, toàn diện vụ án hình sự” [15Tr87].
Quan điểm thứ ba, cho rằng: “Đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự
là tổng hợp tất cả các tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự việc liên quan đến
tội phạm và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự..”. [17].
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba vì nội hàm của khái niệm thể hiện
được đầy đủ bản chất của đối tượng chứng minh trong VAHS và đã có phân biệt sự
kiện với tình tiết vụ án.
Trong VAHS, sự kiện chủ yếu (hay sự kiện quan trọng) của đối tượng cần
chứng minh ở đây chính là hành vi phạm tội và chủ thể thực hiện tội phạm, bởi nếu


9


không có yếu tố này thì sẽ không có căn cứ để khởi tố VAHS; những sự việc khác có
mối quan hệ chặt chẽ với sự kiện chủ yếu của đối tượng chứng minh như lỗi của chủ
thể thực hiện tội phạm, hình thức lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHScủa người phạm tội.v.v. là những tình tiết của vụ án.
Trên cơ sơ phân tích về đối tượng chứng minh và sự tiếp thu những điểm hợp
lý, khắc phục sự hạn chế trong khái niệm đối tượng chứng minh của một số tác giả,
dưới góc độ khoa học luật TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm đầy đủ về đối
tượng chứng minh trong vụ án hình sự như sau: Đối tượng cần chứng minh trong
điều tra vụ án hình sự là tổng hợp tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết
mà những vấn đề này được luật TTHS quy định các cơ quan THTT phải làm rõ để
xác định bản chất của vụ án và những nội dung khác có liên quan đến vụ án, trên cơ
sở đó các cơ quan THTT ra các quyết định phù hợp với quy định của luật hình sự,
luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng
ngừa tội phạm. [ 22]
1.1.2.

Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt
* Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XVI BLHS năm 2015
bao gồm: Tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài
sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản, tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ
trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan tổ chức,
doanh nghiệp.

Như vậy: “Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ
nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”.
* Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nằm trong chương XVI
phần các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015 với 08 Điều bao gồm: Điều 168
tội cướp tài sản, Điều 169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Điều 170 tội cưỡng

10


đoạt tài sản, Điều 171 tội cướp giật tài sản, Điều 172 tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản, Điều 173 tội trộm cắp tài sản, Điều 174 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Điều 175
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Từ những phân tích các khái niệm trên, có thể thấy các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt có dấu hiệu riêng là dấu hiệu “Chiếm đoạt” hay còn gọi là dấu
hiệu “Tư lợi”, dấu hiệu “Chiếm đoạt” ở đây là chiếm đoạt tài sản, so với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt hay còn gọi là “Không tư lợi” như các
tội: Tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước,
cơ quan tổ chức, doanh nghiệp.
Từ phân tích khái niệm các tội xâm phạm sở hữu nói chung, chúng ta có thể
đưa ra khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như sau: “Các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu bằng
việc chiếm đoạt nên trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm
đoạt. Trong đó chiếm đoạt là hành vi cố ý dịch chuyển trái pháp luật tài sản đang
được sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình ”.[24]
1.1.3. Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Dưới góc độ của luật TTHS thì điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn hoạt
động của TTHS sự bắt đầu từ khi có Quyết định khởi tố VAHS đến khi lập bản kết
luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra khi có đủ căn cứ theo quy định

của luật TTHS. Trong giai đoạn này, CQĐT có thẩm quyền có trách nhiệm tiến hành
các hoạt động theo quy định của BLTTHS để thu thập chứng cứ, làm rõ có hay
không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những vấn đề khác
có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Trên cơ sở quy định của BLTTHS và thực tiễn hoạt động điều tra VAHS, khoa
học điều tra hình sự xác định: “ Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá
trình trình tố tụng, do Cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm
thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm”. Định nghĩa trên đã chỉ ra những
điểm cơ bản nhất, phản ánh bản chất của hoạt động điều tra. [14].

11


Trên cơ sở phát triển khái niệm điều tra VAHS của khoa học điều tra hình sự,
có thể xác định: “Điều tra vụ án hình sự về vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt là hoạt động của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình tự, thủ tục
của luật TTHS đối với những vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy
ra, đã được khởi tố nhằm mục đích chứng minh sự thật khách quan của vụ án theo
yêu cầu pháp luật ”.
Như vậy đối tượng của hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt là những vụ án hình sự về các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt đã xảy ra, đã được khởi tố. Chủ thể của hoạt động điều tra vụ án hình sự
về các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là CQĐT và các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định về phân công, phân cấp
điều tra. Hoạt động điều tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục của luật TTHS, quá
trình điều tra, chủ thể điều tra được áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp
luật để làm rõ sự thật vụ án. Bản chất của hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt là quá trình nhận thức, chứng minh sự thật khách quan
của vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra theo yêu cầu của pháp

luật.
1.1.4. Khái niệm đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Thông qua việc nghiên cứu khái niệm đối tượng cần chứng minh trong vụ án
hình sự nói chung, khái niệm các tội xâm phạm sở hữu và khái niệm các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, ta có thể rút ra khái niệm đối tượng chứng
minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như sau:
Đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt là tổng hợp những sự kiện và các tình tiết của vụ án phải được
CQĐT xác định bằng chứng cứ để giải quyết đúng đắn các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt.

12


1.1.5 Đặc điểm đối tượng cần chứng minh trong điều tra các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.5.1

Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có các dấu hiệu đặc trưng sau:
- Các dấu hiệu về khách thể của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt: Đối tượng tác động của tội phạm trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt là:
+ Đối với các tội: Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Tội
cưỡng đoạt tài sản có khách thể được bảo vệ là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu.
Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm phạm quan hệ
nhân thân đó. Trong đó quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu

nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành.
+ Đối với các tội: Tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội
trộm cắp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có khách thể là quan hệ sở hữu.
Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm: Các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác
và chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý của chủ sở hữu hoặc người quản lý
tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt có những đặc điểm riêng so với tài sản thuộc đối tượng tác động của các
tội phạm khác như tội: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 Bộ luật hình sự 2015). Những
đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đó là: + Tài sản phải
được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị vật chất cụ thể. Tài sản thể hiện dưới
dạng phi vật chất như quyền sử dụng đất, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.
Tài sản không có giá trị vật chất cụ thể như nguồn nước tự nhiên, sinh vật dưới biển,
thú trong rừng thì không phải là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu có

13


tính chất chiếm đoạt. Mặt khác tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt phải có giá trị sử dụng. Tài sản không có giá trị sử dụng như
thuốc tân dược hết thời hạn sử dụng mang tiêu hủy, động vật chết đã đem chôn thì
không phải là đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
+ Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
phải có chủ sở hữu cụ thể. Tài sản không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu
đã tự nguyện từ bỏ trước khi xảy ra hành vi chiếm đoạt thì không phải là đối tượng
của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
+ Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có

thể có nhiều dạng khác nhau như những vật thể cụ thể, song cũng có thể là các giấy
tờ mà thông qua đó người phạm tội có thể nhận được một số tiền hoặc tài sản như:
Phiếu gửi xe, giấy tờ ký gửi, cầm đồ tài sản, thẻ thanh toán.
+ Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là
những tài sản thông thường có thể trao đổi, mua bán một cách hợp pháp.
- Các dấu hiệu về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt: Để chiếm đoạt được tài sản thì tội phạm có các hành vi khách quan khác
nhau, có thể là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành
vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được (đối
với tội cướp tài sản); hành vi bắt cóc con tin và hành vi đe dọa chủ tài sản (đối với
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi uy
hiếp tinh thần người khác (đối với tội cưỡng đoạt tài sản); hành vi nhanh chóng
chiếm đoạt (đối với tội cướp giật tài sản), hành vi công khai chiếm đoạt tài sản (đối
với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản), hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản (đối với tội
trộm cắp tài sản) và hành vi lừa dối nhằm chiếm đoạt tài sản (đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản).
- Các dấu hiệu về mặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt tài sản: Mục đích mà kẻ phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
là cố ý chiếm được tài sản. Tức người phạm tội biết hành vi của mình nguy hiểm cho
xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện.

14


Như đã trình bày trên, người thực hiện hành vi vi phạm các tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt đều có ý thức chiếm đoạt. Xuất phát từ khách thể được bảo
vệ mà hành vi khách quan của tội này không có dấu hiệu chiếm đoạt cho nên dấu
hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy dấu hiệu mục đích
chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ
sở phân biệt các tội này với các tội khác do Bộ luật hình sự quy định có hành vi

khách quan tương tự như hành vi phạm tội của các tội này.
- Các dấu hiệu về mặt chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt tài sản: Chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt nói riêng là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng
không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội
phạm mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội
phạm.
BLHS không quy định năng lực trách nhiệm hình sự là gì, mà chỉ quy định
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21) và tuổi chịu trách nhiệm
hình sự (Điều 12). Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu chủ thể của các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt phải là người ở một độ tuổi nhất định và là
người nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình.
Như vậy, từ những phân tích trên đây có thể hiểu: Theo Từ điển tiếng Việt,
chiếm đoạt là chiếm của người làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế, ở
khái niệm này chiếm đoạt được xem là hành vi dùng vũ lực, quyền uy để lấy tài sản
của người khác có chủ đích.
1.1.5.2 Đặc điểm của hoạt động điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Thứ nhất, Điều tra vụ án hình sự về các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt là quá trình chứng minh sự thật vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt đã xảy ra. Quá trình điều tra, CQĐT có trách nhiệm làm rõ các nội dung
thuộc đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt.

15


Thứ hai, Điều tra vụ án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt phải làm rõ tài sản bị xâm hại. Việc xác định đúng giá trị tài sản bị chiếm đoạt
có ý nghĩa quan trọng trong xác định tội phạm cũng như định khung xử lý phù hợp

với quy định của BLHS. Mặt khác, làm rõ đặc điểm tài sản bị xâm hại còn có ý nghĩa
trong việc truy tìm tài sản trong vụ án.
Ngoài việc xác định giá trị tài sản như trên, trong điều tra các vụ án hình sự về
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt còn phải làm rõ chủ sở hữu, người
quản lý các tài sản bị chiếm đoạt tức là xác định người bị hại trong vụ án.
Thứ ba, Trong điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, chủ
thể điều tra phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp trong đó chủ yếu là các hoạt động
theo trình tự, thủ tục của luật TTHS.
1.1.5.3 Đặc điểm đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Trên cơ sở việc nghiên cứu đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt và đặc điểm của hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt thì đặc điểm của đối thượng cần chứng minh trong điều tra
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đó là:
- Thứ nhất: Đối tượng chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau, mà mỗi
sự kiện, tình tiết nói riêng và tổng thể của chúng nói chung, đều phải được nghiên
cứu, làm sáng tỏ một cách khách quan đầy đủ toàn diện và chính xác. Hoạt động
chứng minh là hoạt động mà ở đó các chủ thể chứng minh sẽ sử dụng các phương
tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, đúng đắn của vấn đề nào đó nhằm tìm ra
chân lý. Như vậy, nếu hiểu theo cách này thì việc chứng minh trong TTHS là việc sử
dụng phương tiện chứng minh để làm sáng tỏ tình tiết cả vụ án hình sự. Hiểu cách
khác, hoạt động chứng minh trong TTHS là việc xác định chứng cứ chứng minh tất
cả các sự kiện, các tình tiết có ý nghĩa.
-Thứ hai: Đối tượng cần chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt mà luật TTHS quy định cần làm sáng tỏ là căn cứ để các

16



CQTHTT giải quyết đúng đắn vụ án và đề ra biện pháp phòng ngừa tội phạm. Hành
vi phạm tội là hành vi trên thực tế đã xảy ra, hành vi đó các chủ thể tiến hành tố tụng
chưa biết nhưng cần phải làm rõ và chứng minh, tất cả các hoạt động chứng minh
đều nhằm mục đích làm rõ sự thật khách quan của VAHS, mục đích đó suy cho cùng
là nhằm giải quyết VAHS, chứng minh hành vi đó có phải tội phạm hay không để có
căn cứ khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS, chứng minh ai là người thực hiện
hành vi nguy hiểm, có lỗi hay không có lỗi, người đó có đủ năng lực chịu TNHS
không để làm căn cứ khởi tố bị can, từ đó có các biện pháp giải quyết vụ án phù hợp.
Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, xác định đúng đối tượng là căn cứ xử lý đúng đắn
vụ án không những giai đoạn điều tra mà ở những giai đoạn tiếp theo như truy tố, xét
xử. Nếu xác định sai đối tượng chứng minh sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sau
đó. Việc xác định đúng đối tượng chứng minh và chứng minh đầy đủ những sự kiện,
tình tiết cần thiết còn giúp cho việc nghiên cứu, phân tích từ đó đề ra các giải pháp
phòng ngừa tội phạm hiệu quả.
- Thứ ba: Đối tượng cần chứng minh trong điều tra vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt là những sự kiện, tình tiết do CQTHTT phải làm sáng tỏ,
những vấn đề chưa biết đó được quy định trong luật TTHS. Mỗi vụ án hình sự xảy
ra, có rất nhiều sự việc và các tình tiết liên quan, đó là cơ sở để làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án hình sự, cũng có những sự kiện, tình tiết mặc dù thực tế xảy ra
gắn liền với vụ án, cũng như không có giá trị làm căn cứ đường lối xử lý vụ án, hoặc
giúp giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan toàn diện. Vì vậy, phải xác định
sự kiện, tình tiết nào CQTHTT cần chứng minh và sự kiện, tình tiết nào không cần
chứng minh là hết sức cần thiết, nhằm tránh việc chứng minh một cách không khoa
học, chứng minh tràn lan, chứng minh cả những vấn đề không cần thiết gây lãng phí
thời gian, tiền bạc của Nhà nước.
1.2 Phân loại đối tượng cần chứng minh và phương pháp chứng minh
1.2.1. Phân loại đối tượng chứng minh
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, có nhiều cách phân loại khác nhau về những
vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự


17


Cách phân loại thứ nhất: Căn cứ vào vai trò của vấn đề phải chứng minh trong
việc xác định trách nhiệm pháp lý đối với người bị buộc tội, có thể phân chia thành
hai nhóm: nhóm những vấn đề phải chứng minh có tính chất buộc tội và nhóm những
vấn đề chứng minh có tính chất gỡ tội. Nhóm những vấn đề phải chứng minh có tính
chất buộc tội bao gồm: Những dấu hiệu cấu thành tội phạm, hình thức lỗi, phương
thức, thủ đoạn phạm tội, những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo. Nhóm những vấn đề phải chứng minh có tính chất gỡ tội bao gồm: có hay
không có tình tiết bác bỏ sự buộc tội đối với bị can, bị cáo, những tình tiết giảm nhẹ
TNHS, những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.v.v...
Cách phân loại thứ hai: Căn cứ vào vị trí, ý nghĩa của những vấn đề phải chứng
minh trong mối quan hệ với việc giải quyết vụ án có thể phân loại những vấn đề phải
chứng minh trong VAHS thành: Những vấn đề phải chứng minh nằm trong các yếu
tố cấu thành tội phạm; Những vấn đề phải chứng minh nằm trong những tình tiết có
ảnh hưởng đến TNHS và hình phạt; Nhóm tình tiết khác có giá trị chứng minh đối
với VAHS.
& Những vấn đề cần chứng minh nằm trong các yếu tố cấu thành tội phạm
Những vấn đề cần chứng minh nằm trong yếu tố cấu thành tội phạm chính là chứng
minh những vấn đề thuộc về mặt khách quan của tội phạm, khách thể của tội phạm,
mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm. Chứng minh vấn đề này là trả
lời những vấn đề: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, đó là hành vi phạm tội gì,
do ai thực hiện tội phạm, người thực hiện tội phạm có lỗi hay không, có đủ năng lực
TNHS hay không.v.v.
& Những vấn đề cần chứng minh nằm trong những tình tiết có ảnh hưởng đến
trách nhiệm hình sự và hình phạt
Những vấn đề cần chứng minh nằm trong những tình tiết có ảnh hưởng đến
TNHS và hình phạt bao gồm chứng minh những vấn đề: Tính chất và mức độ của
hành vi phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS; các

tình tiết miễn trách TNHS, miễn hình phạt; các tình tiết làm căn cứ loại trừ TNHS.
& Những tình tiết khác có giá trị chứng minh đối với vụ án hình sự

18


Những tình tiết khác có giá trị chứng minh đối với VAHS là những tình tiết
không nằm trong các yếu tố cấu thành tội phạm, đồng thời cũng không ảnh hưởng
đến TNHS và hình phạt nói chung, nhưng lại có giá trị chứng minh nhất định đối với
VAHS. Nếu chứng minh được các tình tiết đó sẽ giúp cho các CQTHTT giải quyết
vụ án đảm bảo đúng đắn, chính xác, khách quan và toàn diện.
1.2.2. Phương pháp chứng minh
Theo từ điển tiếng việt thì: Thuật ngữ “Phương pháp ” là việc đi tìm cách
thức để đạt được mục đích đề ra. Thuật ngữ “Chứng minh” là một nhận thức suy
luận để khẳng định tính chân lý của một luận điểm nào đó, bằng cách dựa vào tính
chân lý đã được thực tiễn xác nhận.
Như vậy phương pháp chứng minh là cách thức tìm ra những căn cứ để khẳng
định tính chân lý đã được thực tiễn xác nhận.
Trong tố tụng hình sự: Phương pháp chứng minh trong vụ án hình sự là cách
thức mà CQTHTT tìm ra chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự
đã xảy ra trên thực tế.
1.2.3. Phương tiện chứng minh
- Khái niệm phương tiện chứng minh
Có rất nhiều khái niệm về phương tiện chứng minh nhưng hiểu theo nghĩa
chung nhất và bao quát nhất là: Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp
luật quy định, các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết sự kiện
của vụ án hình sự.
- Đặc điểm phương tiện chứng minh
Phương tiện chứng minh trong VAHS chủ yếu thể hiện qua các giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử VAHS, trong đó các CQTHTT áp dụng mọi biện pháp hợp pháp

để thu thập chứng cứ, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Mỗi tài liệu được coi là chứng cứ chỉ có
giá trị chứng minh khi bảo đảm được tính hợp pháp của nó, tức là cơ quan tiến hành
tố tụng khi thu thập chứng cứ đều phải theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật quy
định. Ở giai đoạn nào phải do pháp luật tố tụng quy định và điều chỉnh về trình tự

19


×