Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.85 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THU TRANG

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
THEO PHÁP LUẬT HÌNH Sự VIỆT NAM
TỪ THựC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HÌNH Sự VÀ TỐ TỤNG HÌNH Sự

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và đang thực
hiện đường lối đổi mới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tuy nhiên bên
cạnh những thành tựu đạt được, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, của
việc mở cửa hội nhập và xu hướng toàn cầu hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
trong đời sống xã hội, nổi bật trong đó chính là các tệ nạn về ma túy. Ma túy làm gia
tăng tội phạm, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình, suy thoái nòi


giống dân tộc, cầu nối cho căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS. Một trong số những loại tội
phạm về ma túy đã và đang có những diễn biến vô cùng phức tạp trong những năm
trở lại đây chính là tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
Nam Định là một tỉnh có lịch sử phát triển đô thị sớm và thuận lợi giao thông,
giao thương buôn bán, chính vì vậy được nhiều đối tượng chọn là địa bàn tiêu thụ và
chung chuyển ma túy từ các tỉnh Tây Bắc về phân phối cho một số tỉnh đồng bằng
Sông Hồng. Theo nhận định của các cơ quan chức năng, các đối tượng mua bán trái
phép chất ma túy hoạt động ngày một tinh vi hơn cũng như hình thành các đường
dây mua bán ma túy lớn hơn. Trước tình hình này, các cơ quan chức năng tỉnh Nam
Định đã và đang tập trung lực lượng xử l tội phạm mua bán trái ph p chất ma túy và
đã đạt nhiều kết quả tốt, số vụ án được phát hiện đang tăng thêm, nhiều đường dây
buôn bán ma tuý bị triệt phá. B ên cạnh kết quả đó, do tội phạm về mua bán trái phép
chất ma tu trên địa bàn tỉnh Nam Định diễn biến ngày một phức tạp và tiềm ẩn nhiều
yếu tố khó lường, các cơ quan chức năng dù đã nỗ lực nhưng việc xử lý tội phạm
mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định và chưa đáp
ứng được triệt để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Chính vì vậy với mong muốn nghiên cứu, hoàn thiện những vấn đề lý luận và
quy định pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy cũng như khảo sát có hệ
thống về thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Nam Định, cùng với sự
giúp đỡ của thầy cô giáo trong khoa Luật Học viện khoa học xã hội, tác giả xin lựa

3


chọn đề tài; “Tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật Hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định ”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều
luận văn thạc sĩ, tiến sĩ Luật học nghiên cứu về tội phạm về ma túy, ví dụ như: Luận
án tiến sĩ luật học Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma

túy ở Việt Nam ” năm 2007, Luận văn thạc sĩ Luật học Trần Quốc Trọng: “Tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma túy theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005-2010”
năm 2012, Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Tuyết Lan: “Tội mua bán, tàng
trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội”, năm 2015... Các công trình nghiên cứu đó đã có những
đóng góp quan trọng vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và tình hình tội phạm về ma
túy, đưa ra nguyên nhân, các biện pháp phòng ngừa và dự báo tình hình tội phạm về
ma túy nói chung, tuy nhiên đó đều là những nghiên cứu về tình hình tội phạm trên
những địa bàn khác hoặc nghiên cứu chung cả nước, trong khi đó chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu về lý luận và thực tiễn riêng về tội mua bán trái phép chất ma
túy từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Chính vì vậy tác giả thực hiện luận văn này nhằm đi
sâu nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy dưới góc độ Luật hình sự,Luật
tố tụng hình sự mới nhất. Luận văn đồng thời sử dụng những số liệu và vụ án thực tế
tại Nam Định để minh họa cho những hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số yêu cầu và
giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy, hướng tới công cuộc đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu chính đó là làm rõ những vấn đề lý luận và
đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với Tội mua bán
trái phép chất ma túy để từ đó làm rõ những ưu điểm, những tồn tại và đề ra giải

4


pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về Tội mua bán trái phép chất
ma túy. Để đạt được những mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ các khái niệm: “Chất ma túy”, “Tội mua bán trái phép chất
ma túy” và “Các dấu hiệu pháp l đặc trưng của tội mua bán trái phép chất ma túy”.

Khái quát quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trong
lịch sử lập pháp Việt Nam từ thời điểm chưa có LHS đến khi B LHS năm 2015 có
hiệu lực.
- Phân tích làm rõ dấu hiệu pháp lý cụ thể của Tội mua bán trái phép chất ma túy
được quy định tại Điều 251 của B LHS năm 2015. Đánh giá các tình tiết định tội
trong cấu thành tội phạm cơ bản, các tình tiết định khung hình phạt trong cấu thành
tội phạm tăng nặng trên cơ sở so sánh với B LHS năm 1999.
- Phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán
trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Khái quát thực tiễn xét xử Tội
mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn từ năm 2013
đến năm 2017, từ đó đề ra một số yêu cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy
định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua
bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam
Định.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999, Điều 251 của
B LHS năm 2015 về tội mua bán trái phép chất ma túy và những văn bản pháp luật
có liên quan dưới góc độ pháp luật hình sự.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu tình hình xét xử tội mua bán trái phép hoặc chất ma
túy giai đoạn 2013 - 2017 trên địa bàn tỉnh Nam Định.

5


5. Phương phá p luận và cá c phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người, về đấu tranh phòng, chống tội phạm ; quan điểm

của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm ma tuý cũng như thành tựu của
các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử pháp luật, luật hình sự, tội phạm học,
luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu,
sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học pháp lý
chuyên ngành.
- Các phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử
dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương
ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống hóa,
thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh; tổng kết thực tiễn để hoàn thiện pháp luật
hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy. Tác giả dựa vào các văn bản pháp
luật của Nhà nước có liên quan đến nội dung đề tài, số liệu thống kê, báo cáo tổng
kết năm công tác của TAND hai cấp tỉnh Nam Định để phân tích, tổng hợp các luận
chứng, các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những điểm mới và đóng gó p của luận văn
- Về mặt lý luận, luận văn là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý về
tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015.
- Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa góp phần nhằm
làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử tội mua bán trái phép chất
ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Ngoài ra việc tìm hiểu thực tiễn xét xử loại tội
phạm này trên thực tế tại địa phương thông qua những vụ án cụ thể có liên quan góp
phần đưa ra những yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về loại tội này, tạo thuận lợi cho công tác đấu tranh và phòng chống tội
phạm.

6


7. Cơ cấu của luận n
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép
chất ma túy.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH Sự VỀ TỘI MUA
BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1 Khái niệm chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy
1.1.1 Khái niệm chất ma túy
* Khái niệm “chất ma túy” theo định nghĩa của các tổ chức quốc tế:
- Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Ma tuý là chất hoá học có nguồn gốc tự
nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi
tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó,
gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng...”.
- Theo Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc
(UNODC), “Chất ma túy” là một thuật ngữ được sử dụng đa nghĩa: trong y học, nó đề
cập đến bất kỳ chất nào có khả năng ngăn ngừa hoặc chữa bệnh hoặc tăng cường và
phục hồi thể chất hoặc tinh thần; trong dược học: nó có nghĩa là bất kỳ tác nhân hóa
học nào làm thay đổi quá trình sinh hóa hoặc sinh lý của tế bào sinh vật.
- Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1982): “Ma tuý theo nghĩa rộng
nhất là mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những
cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ
làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật’.
* Khái niệm ”chất ma túy” theo pháp luật Việt Nam

Theo quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống ma tuý Việt Nam năm 2000 (sửa
đổi năm 2008) cũng như quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT- BCAVKSNDTC-TANDTC ngày 24/12/2007 thì: “Chất ma túy” là các chất gây nghiện,
chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban
hành.
Qua nghiên cứu nhận thấy các BLHS đều không đưa ra định nghĩa về ma túy
hay chất ma túy, đối với B LHS năm 1999 chỉ tìm thấy tên cụ thể của một số chất ma
túy gồm: thuốc phiện, cần sa, côca, hêroin và côcain, đến B LHS năm 2015 có bổ


sung thêm một số chất ma túy gồm: Methamphetamine, Amphetamine, MDMA,
XLR-11 và lá khát. Có thể nói việc quy định của BLHS như vậy không có nghĩa là
các chất ma túy khác theo các quy định của Luật phòng chống ma túy không bị xử lý
mà các chất đó được đưa vào nhóm “các chất ma túy khác”. B LHS năm 1999 và B
LHS năm 2015 đều có một chương riêng quy định về các tội phạm về ma túy, trong
các quy định này “chất ma túy” có nghĩa không hoàn toàn đồng nhất với định nghĩa
của Luật phòng, chống ma túy mà nó có nghĩa rộng hơn, bao gồm cả những cây,
cành, lá, rễ, thân, hoa, quả của những cây có chưa chất ma túy ví dụ như: lá cây côca
quả cây thuốc phiện tươi ; lá, hoa, quả cây cần sa ; lá khát.Cách quy định như vậy của
BLHS là có tiếp thu nội dung và yêu cầu của các Công ước quốc tế về ma túy, đặc
biệt là Công ước về chống buôn bán hợp pháp các chất gây nghiện và chất hướng
thần năm 1988. [35]
Tóm lại chất ma túy là chất tự nhiên hoặc tổng hợp, gây kích thích, ức chế thần
kinh, có khả năng gây ảo giác, có khả năng dẫn tới tình trạng nghiện đối với người
sử dụng. Các chất ma túy cụ thể được liệt kê trong các danh mục do Chính phủ Việt
Nam ban hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung tại Nghị định số
126/2015/NĐ-CP gồm có 250 chất ma túy và 43 tiền chất. [4, 5]
1.1.2 Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất
kỳ hình thức nào ví dụ như: bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma tuý để bán cho
người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại trái

phép; hoặc dùng ma tu để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy ma tuý.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm: Tội mua bán trái phép chất ma túy là những
hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý các chất
ma túy của Nhà nước mà theo quy định của pháp luật hình sự bị xử lý hình sự.


1.2 Quy định của Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép
chất ma túy
Tội phạm về mua bán trái phép chất ma túy luôn là loại tội phạm nguy hiểm cần
sự quản lý và theo dõi sát sao của Nhà nước. Tìm hiểu lịch sử về tội mua bán trái
phép chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam có thể nhận thấy pháp luật hình sự
Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến quản lý tội phạm về mua bán trái phép chất ma túy
từ rất sớm và mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội, pháp luật hình sự lại có sự thay
đổi tương ứng nhằm đáp ứng được các yêu cầu trong công cuộc đấu tranh, phòng,
chống loại tội phạm này. Để có cái nhìn khái quát và đầy đủ các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy, tác giả lựa chọn việc tìm
hiểu các quy định về loại tội này thông qua từng giai đoạn cụ thể tương ứng với thời
điểm ra đời các BLHS.
1.2.1 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của pháp luật giai
đoạn phong kiến và thuộc địa
Trong những thế kỷ trước, ma túy chưa được phân thành nhiều loại như hiện
nay, chủ yếu được biết đến với tên gọi “thuốc phiện” (hay á phiện, a phiến, nha phiến)
được chiết suất từ các hạt trong vỏ mầm cây anh túc. Từ giữa thế kỷ XVII đến đầu thế
kỷ XIX, pháp luật phong kiến Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện một số đạo luật đầu tiên
quy định về cấm trồng, sử dụng và mua bán thuốc phiện. Dưới triều vua Mịnh Mạng
và vua Tự Đức, chiếu dụ cấm thuốc phiện được ban hành tới toàn bộ dân chúng,
người vi phạm có thể bị án tử.
Thời kì những năm Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp, Việt Nam đã bị
biến thành vùng đất mà Pháp đẩy mạnh việc công khai phát triển trồng, sử dụng và

buôn bán thuốc phiện. Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ cấp bách của
chúng ta lúc bấy giờ là phải tuyệt đối cấm thuốc phiện bởi thuốc phiện chính là thứ
mà chế độ thực dân đã đầu độc nhằm hủ hóa dân tộc ta. Ngày 22/12/1952 Thủ tướng
Chính phủ ban hành Nghị định 225/TTg quy định cụ thể những hành vi vi phạm thể


lệ quản lý thuốc phiện. Ngày 15/9/1955, Thủ tướng chính phủ tiếp tục ban hành Nghị
định 580/TTG quy định các trường hợp phải đưa ra truy tố trước Tòa như: buôn lậu
thuốc phiện có nhiều người tham gia, thủ đoạn gian dối, có giá trị hàng phạm pháp
trên 1 triệu đồng... Tiếp đó B ộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 635-VHH/HS ngày
29/3/1958 quy định về đường lối truy tố đối với việc đặt tiền cọc mua thuốc phiện lậu
và Thông tư 33/VHH-HS ngày 05/07/1958 được ban hành để hướng dẫn đường lối
truy tố xét xử buôn lậu thuốc phiện. Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban
hành Nghị định 76/CP về chống buôn lậu thuốc phiện và sử dụng thuốc phiện. Trên
cơ sở Nghị định này, TAND tối cao, VKSND tối cao, BNV đã ra Thông tư liên ngành
hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước.
Xét một cách khái quát, từ khi manh nha có những đạo luật dưới dạng chiếu dụ
về cấm sử dụng thuốc phiện dưới các triều phong kiến tới khi việc cấm buôn lậu
thuốc phiện được đưa vào quy định rõ trong các Nghị định và Thông tư thời kì trước
năm 1985, có thể nhận thấy pháp luật thời kỳ này dù đã bước đầu có quyết tâm về
phòng, chống ma túy tuy nhiên các văn bản pháp luật còn nằm rải rác, quy định tương
đối đơn giản, chất ma túy đề cập trong các văn bản pháp luật mới chỉ là thuốc phiện
đồng thời hình phạt đối với hành vi phạm tội chủ yếu mới chỉ dừng lại ở phạt tiền vì
vậy chưa có sự phân hóa trách nhiệm hình sự cao.
1.2.2 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự
năm 1985
B LHS năm 1985 là B LHS đầu tiên có quy định các tội liên quan đến ma tuý
tuy nhiên tại thời điểm này các quy định còn rất khái quát. Theo đó nếu hành vi mua
bán trái phép chất ma túy thực hiện trong nước thì áp dụng Điều 166:

“Người nào buôn bán, tàng trữ các chất may tuý, ngoại tệ hoặc buôn bán kim khí
quý, đá quý thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. ” Khung hình phạt cao nhất quy
định tại Điều luật này mới chỉ dừng lại ở phạt tù 20 năm. Nếu buôn bán, vận chuyển
ma túy qua biên giới thì áp dụng Điều 97 quy định về tội buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Ngày 28/12/1989 Quốc hội đã thông qua luật


sửa đổi, bổ sung một số điều của B LHS năm 1985, trong đó quy định rõ hơn tại Điều
96a - Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, đặt trong
chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc,
loại hình phạt cao nhất có thể bị áp dụng là tử hình. Hướng dẫn khái niệm về hành vi
mua bán trái phép chất ma túy đề cập trong Điều 96a B LHS 1985, Thông tư liên
ngành số 09-TTLN ngày 10/10/1996 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ
quy định như sau: “Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi bán hay mua,
tàng trữ để bán lại bất hợp pháp (có thể là mua để bán lại chất ma tuý đó, cũng có
thể là mua để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại); cũng được coi là hành vi mua
bán trái phép chất ma tuý các hành vi trao đổi, thanh toán... bất hợp pháp bằng các
chất ma tuý. ”
Trước xu hướng phát triển của xã hội và tình hình tội phạm về ma túy mỗi năm
một gia tăng với những thủ đoạn tinh vi hơn, dần trở thành vấn đề nhức nhối đòi h i
phải có sự quản lý chặt chẽ và gắt gao hơn nữa của pháp luật, Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã kịp thời đưa quy định tại Điều 61: "... Nghiêm cấm
sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất
ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội
nguy hiểm...". Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
năm 1992, B LHS năm 1985 tại lần sửa đổi thứ IV năm 1997, tội phạm ma túy đã
được quy định thành một chương riêng (Chương VIIA), gồm 14 điều, quy định 13 tội
danh trong đó quy định về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” tại Điều 185đ với
khung hình phạt cao nhất là tử hình.
Có thể nói sau nhiều lần sửa đổi bổ sung, B LHS năm 1985 đã trở thành BLHS

đầu tiên của nước ta đặt ra những quy định nghiêm khắc đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy, không chỉ dừng lại ở việc quy định khung hình phạt cơ bản mà còn có cả
những khung hình phạt tăng nặng với nhiều mức phạt nghiêm khắc hơn. ên cạnh đó,
TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/1/1998 và Thông tư liên tịch số


02/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 05/8/1998 hướng dẫn chi tiết hơn
về các hành vi liên quan đến tội phạm này nhằm góp phần hoàn thiện hơn các quy
định của LHS năm1985 về các tội phạm về ma túy.
1.2.3 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999
B LHS năm 1999 là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta. Đây
là bộ luật tương đối đầy đủ, hoàn thiện quy định chi tiết các tội phạm về ma túy trong
một chương riêng (Chương XVIII) với 10 tội riêng biệt, đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp, khắc phục những tồn tại và hạn chế mà quy định tại BLHS năm 1985 đã không
còn phù hợp với điều kiện phát triển của kinh tế, xã hội. Tội mua bán trái phép chất
ma túy được quy định tại Điều 194 B LHS năm 1999 quy định tội ghép, bao gồm 4
hành vi: tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép và chiếm đoạt chất ma túy. Song
song với việc ban hành B LHS năm 1999, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật phòng
chống ma túy, có hiệu lực từ ngày 01/6/2001, là đạo luật đầu tiên về phòng, chống ma
túy, tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn ma
túy. Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc phòng chống ma túy cũng
chiếm vai trò vô cùng quan trọng, bởi thế ngày 24/12/2007, TANDTC, VKSNDTC,
BCA, B TP đã ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của B LHS năm 1999 thay
thế Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT và Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT.
Trước tình hình thực tiễn và nhu cầu đảm bảo sự công bằng, chính xác, khách quan
đối với công tác xét xử tội phạm về ma túy, ngày 17/9/2014, TANDTC cũng ban hành
Công văn số 234/TANDTC hướng dẫn các Tòa án địa phương trong việc giải quyết

án ma túy. Tiếp đó, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, các cơ quan tố tụng
Trung ương đã nghiên cứu và ban hành Thông tư số 08/2015/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
30/12/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17 và để hướng


dẫn triển khai thực hiện Thông tư này, ngày 11/12/2015, TANDTC tiếp tục ban hành
Công văn 315/TANDTC-PC và Công văn 110-CV/BCS.
Nghiên cứu quy định tại Điều 194 B LHS năm 1999, có thể thấy các dấu hiệu
pháp lý cơ bản của tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm:.
- Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Khách thể trực tiếp của tội mua bán trái phép chất ma túy là chế độ
thống nhất quản lý của Nhà nước về hoạt động mua bán chất ma túy. Theo quy định
tại Điều 1 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP thì ma túy là loại chất gây nghiện, hướng
thần vô cùng độc hại và nguy hiểm, do tính chất đặc biệt đó của nó mà chỉ có Nhà
nước mới có thể độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy với những quy định hết
sức nghiêm ngặt. [4]
Đối tượng tác động của tội mua bán trái phép chất ma túy chính là các chất ma
túy. Liên hợp quốc đã có các Công ước quy định rất cụ thể danh mục các chất ma túy,
các chất hướng thần, đó là: Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 [18] ;
Công ước về các chất hướng thần năm 1971 [19] ; Công ước về chống buôn bán bất
hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988 [20]. Theo các công
ước đó Liên hợp quốc chính thức công nhận có 225 chất ma túy và 22 tiền chất.
Các chất ma túy thường gặp và là đối tượng phổ biến của các tội phạm về ma
túy bao gồm: thuốc phiện (nhựa thuốc phiện hay còn gọi là nhựa đặc của cây anh
túc); cần sa (phần ngọn mang hoa và quả của cây cần sa mà nhựa chưa được chiết ra);
nhựa cần sa (lá của cây coca-lá chưa dùng để chiết xuất); moocphin (chất chiết từ
thuốc phiện); côcain; hêroin; chất hướng thần như amphetamine ; các tiền chất ma
túy; các tiền chất hướng thần; cây trồng có chứa chất ma túy như cây thuốc phiện, cây
cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chưa chất ma túy; các nguyên liệu thực vật có

chứa chất ma túy (quả thuốc phiện ở dạng khô và dạng tươi) ... Hiện nay pháp luật
Việt Nam xác định có tất cả 250 chất ma túy và 43 tiền chất được chia thành các danh


mục ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính
phủ, sửa đổi bổ sung tại Nghị định 126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015.
Theo đó chất ma túy và tiền chất được phân chia thành 04 danh mục:
Danh mục I: Các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã
hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học,
điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như:
Alphacetylmethadol, Cần sa và các chế phẩm từ cần sa, Heroine, MDMA,...
Danh mục II: Các chất ma túy dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y thế theo quy định của
cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Lá Coca, Cocaine, Acetylmethadol,
Benzenthidine,...
Danh mục III: Các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ
quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Alprazolam, Benzfetamine, Camazepam,
Phentermine,...
Danh mục IV: Các tiền chất. Ví dụ như: Alpha-phenyl acetoacetonitrile
(APAAN), Gamma-butyro lactone (GBL),...
- Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm:
hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi
đó gây ra ; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội. Với tội mua
bán trái phép chất ma túy, mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy
chính là các hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Khoản 1 Điều 194 B LHS năm 1999 quy định người nào mua bán trái phép chất
ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy

tại điều luật này đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 3.3 mục II Thông tư liên tịch
số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, là một trong các hành vi sau đây:


a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc
chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để
hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác: Đây là hành vi phổ biến nhất của tội mua bán
trái phép chất ma túy, dù là người bán đã dùng ma túy mà mình có dưới bất kì hình
thức nào (mua, xin, nhặt, cầm hộ hoặc chiếm được... ) để bán cho người khác thì đều
nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc hưởng lợi ích nhất định từ việc bán đó.
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi mà người
phạm tội dùng tiền, tài sản để có được chất ma túy, dùng chất ma túy có được đó bán
cho người khác kiếm lời. Trường hợp này việc có được chất ma túy của người phạm
tội xuất phát từ hành vi mua trái phép chất ma túy, các cơ quan tố tụng chứng minh
được nguồn gốc ma túy là do người phạm tội mua mà có (không phải do xin, chiếm
đoạt, hay do sản xuất mà có) đồng thời chứng minh được mục đích của người phạm
tội là dùng chất ma túy mua được đó để bán, không quan trọng là hành vi bán đó đã
thực hiện hay chưa.
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi mà người
phạm tội dùng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình chất ma túy, sau đó
bán lại chất ma túy xin được cho người khác nhằm kiếm lời.
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (khôngphụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có): Hành vi người phạm tội sử dụng ma túy như
vật có giá trị tương đương với tài sản để thanh toán cho nhu cầu của mình.
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán... lấy chất ma túy
nhằm bán lại trái phép cho người khác: Hành vi phạm tội này sử dụng tài sản không
phải tiền như: vật, giấy tờ có giá, các quyền tài sản,... để đem trao đổi thanh toán lấy
chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác.
e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi này khác
với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở điểm cơ bản là mục đích của việc tàng trữ

đó là nhằm bán trái phép chất ma túy đó cho người khác chứ không phải là để sử
dụng cho bản thân.


g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi chuyển
dịch chất ma túy từ nơi này đến nơi khác hoặc từ người này sang người khác bằng bất
kì phương tiện và cách thức nào đồng thời luôn phải có mục đích là bán trái phép chất
ma túy cho người khác.
Cũng tại phần này, pháp luật cũng quy định thêm đối với người tổ chức, người
xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép
chất ma túy vừa được liệt kê như trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua
bán trái phép chất ma túy. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi khách
quan này vì vậy các dấu hiệu về công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả do tội phạm
gây ra,. không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với loại tội phạm này.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan là những hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ
quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu pháp lý: Lỗi, động cơ và mục đích.
Yếu tố lỗi là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định tội phạm và TNHS. Người
phải chịu TNHS theo luật hình sự Việt Nam không phải đơn thuần chỉ là người có
hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà còn phải đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi
khách quan đó.
Với tội mua bán trái phép chất ma túy, người phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý, không chỉ nhận thức được hành vi
của mình là trái pháp luật, thấy được tác hại do hành vi của mình gây ra mà còn vẫn
cố tình thực hiện hành vi đó. Dù hành vi mua bán trái phép chất ma túy được thực
hiện với động cơ hay mục đích nào thì đây là lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ, mục đích
của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy rất đa dạng nhưng hai yếu tố này không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Chủ thể của tội phạm:
Theo quy định của B LHS năm 1999, chủ thể của tội phạm là người có năng lực

TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Năng lực TNHS
là khả năng của một người ở thời điểm thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội


nhận thức được hành vi đó của mình là nguy hiểm và điều khiển một cách có ý thức
được hành vi đó. Từ đó năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định con
người có lỗi khi họ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và chỉ có người có
năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Nghiên cứu quy định về phân loại
tội phạm tại khoản 3 Điều 8 và Điều 194 B LHS năm 1999 thì: người từ đủ 16 tuổi
trở lên và có năng lực TNHS phải chịu TNHS thuộc bất kỳ khoản nào của Điều 194
BLHS năm 1999. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1, mà chỉ chịu TNHS thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2, 3 và 4 của Điều 194 B LHS năm 1999.
Khoản 1 Điều 194 B LHS năm 1999 quy định về cấu thành tội phạm cơ bản của
tội mua bán trái phép chất ma túy, theo đó người có hành vi mua bán trái phép chất
ma túy sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
* Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Khoản 2,3,4 Điều 194 B LHS năm 1999 quy định về các tình tiết định khung
tăng nặng đối với loại tội phạm này, mức hình phạt tương ứng bao gồm phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm, phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, phạt tù hai
mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Tại khoản 2 Điều 194 B LHS năm 1999 có quy định các tình tiết tăng nặng bao
gồm:
a) Có tổ chức;
Đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực
hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 B LHS năm 1999), người đồng phạm bao gồm người
tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức (khoản 2 Điều 20 B LHS
năm 1999). Như vậy phạm tội mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức là trường hợp
có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực
hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy dưới sự điều khiển thống nhất của “người

tổ chức”. Người tổ chức việc mua bán trái phép chất ma túy là người khởi xướng,
cầm đầu việc mua bán trái phép chất ma túy. Người thực hành là người trực tiếp thực


hiện tội phạm, trực tiếp thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Người xúi
giục là người thực hiện các hành vi tác động lên một người khác (kích động, dụ dổ,
thúc đẩy, khuyến khích,...) nhằm làm cho người đó thực hiện hành vi mua bán trái
phép chất ma túy. Người giúp sức là người tạo các điều kiện giúp đỡ thể hiện qua việc
giúp cung cấp địa chỉ, phương tiện, tiền hoặc các vật chất khác. nhằm giúp cho hành
vi mua bán trái phép chất ma túy được diễn ra. Phạm tội mua bán trái phép chất ma
túy có tổ chức có thể có đủ những người đồng phạm, cũng có trường hợp không đủ tất
cả các loại đồng phạm, tuy nhiên luôn luôn phải có người tổ chức và người thực hành.
Nếu thiếu một trong hai người này thì không thể có phạm tội có tổ chức. [19, tr. 105]
b) Phạm tội nhiều lần;
Tiểu mục 2.3 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT - BCA VKSNDTC - TANDTC - B TP có hướng dẫn cụ thể: "Phạm tội nhiều lần là phạm từ
hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng
một khoản của điều luật) tương ứng trong phần riêng B LHS, đồng thời đối với những
tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị
xét xử". Như vậy tình tiết "phạm tội nhiều lần" đối với tội mua bán trái phép chất ma
túy được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần tàng trữ trái phép chất ma
túy, hai lần bán trái phép chất ma túy...) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành
tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm
tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu điều luật có quy định
về số lượng chất ma túy để định khung hình phạt.
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
Dựa vào hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT - BCA - VKSNDTC - TANDTC - BTP, tình tiết "lợi dụng chức vụ
quyền hạn" được hiểu là người phạm mua bán trái phép chất ma túy đã dựa vào chức

vụ, quyền hạn mà mình được đảm nhiệm để thực hiện hành vi phạm tội.


Điều 277 BLHS năm 1999 cũng có quy định: Người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện công vụ
Như vậy đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, tình tết lợi dụng chức vụ,
quyền hạn có thể được hiểu là việc người phạm tội dựa vào chức vụ, quyền hạn mà
mình đảm nhiệm để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Nếu tội phạm
do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc
trường hợp phạm tội này. Thực tiễn cho thấy do tính chất siêu lợi nhuận của ma túy
mà không ít người có chức vụ trong các cơ quan có chức năng phòng chống ma túy
lại chính là những người tham gia vào các đường dây buôn bán ma túy. Sự góp mặt
của họ như một hình thức bảo kê đối với tội phạm, thông qua những chức vụ, quyền
hạn của mình, họ có thể bao che, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho tội phạm tiến
hành hành vi phạm tội trót lọt. Do vậy việc BLHS quy định tình tiết lợi dụng chức vụ,
quyền hạn là tình tiết khung tăng nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy là rất
cần thiết và hợp lý
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
Tình tiết này được hưỡng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Thông tư liên tịch
số 17/2007/TTLT - BCA - VKSNDTC - TANDTC - BTP cụ thể: người phạm tội đã
lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc công tác để thực hiện hành
vi phạm tội.
Như vậy lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để mua bán trái phép chất ma túy
là trường hợp người phạm tội thông qua danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà mình là
thành viên để mua bán trái phép chất ma túy. Việc lợi dụng này thường xảy ra đối với
trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong cơ quan,
tổ chức, song cũng có thể chỉ đơn thuần là do người không hề có chức vụ, quyền hạn
trong cơ quan, tổ chức nhưng tự mượn danh nghĩa, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ

chức của mình để thực hiện hành vi phạm tội. đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;


Đây là tình tiết quy định tính chất phạm vi về không gian của hành vi phạm tội.
Không gian này được xác định theo lãnh thổ quốc gia. Mua bán trái phép chất ma túy
qua biên giới là việc mua bán ma túy từ nước này sang nước khác, dưới bất kỳ hình
thức nào, chỉ quy định “qua biên giới”, không giới hạn chỉ qua biên giới Việt Nam với
các nước có biên giới với Việt Nam, hay biên giới giữa các nước khác với nhau.
Chính vì vậy đối với trường hợp phạm tội này, ngoài việc truy cứu TNHS đối với
hành vi mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới Việt Nam với các nước có biên
giới với Việt Nam, còn có thể truy cứu TNHS đối với hành vi mua bán trái phép chất
ma túy từ một nước không phải là Việt Nam sang một nước thứ ba. Ví dụ: Mua bán
ma túy từ Trung Quốc sang Thái Lan, từ Singapore sang Campuchia,... Việc truy cứu
TNHS đối với những người mua bán trái phép chất ma túy trong trường hợp này phải
căn cứ vào Điều 6 B LHS năm 1999 về Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những
hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên
cạnh đó người nào vận chuyển ma túy qua biên giới cho người khác mà biết mục đích
của người đó là mua bán trái ph p chất ma túy thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới với vai trò là đồng phạm. Tội
phạm chỉ hoàn thành khi người phạm tội đã vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy qua biên giới, nếu người phạm tội có mục đích đưa chất ma túy qua biên giới
nhưng vì l do nào đó mà người phạm tội chưa đưa được chất ma túy qua biên giới thì
không áp dụng tình tiết này
e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;
Tình tiết này quy định trường hợp sử dụng trẻ em vào việc phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy là trường hợp người phạm tội đã dụ dỗ, mua chuộc, hăm dọa,
khống chế, lôi kéo hoặc dùng bất kì thủ đoạn nào để người dưới 16 tuổi thực hiện một
hoặc nhiều hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Nếu
xúi giục trẻ em thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy mà người bị xúi giục là trẻ em chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm

hình sự thì người phạm tội vẫn bị coi là sử dụng trẻ em vào việc phạm tội.


Bán ma túy cho trẻ em là dùng ma túy mà mình có được bằng bất kì hình thức
nào để bán cho người dưới 16 tuổi để lấy tiền, tài sản hoặc bất kì lợi ích nào khác
p) Tái phạm nguy hiểm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 B LHS năm 1999 thì những trường hợp sau
đây được coi là tái phạm nguy hiểm: "a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý ; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội do cố ý".
Tình tiết tái phạm nguy hiểm đối với tội mua bán trái phép chất ma túy được
hiểu là người bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố , chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 194 B LHS năm 1999; hoặc đã tái phạm chưa được xóa án tích
mà lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Nếu người đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố , chưa được xóa án tích mà lại phạm tội
mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều
194 B LHS năm 1999 thì tình tiết "tái phạm nguy hiểm" được áp dụng là tình tiết tăng
nặng TNHS, không phải là tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm p,
khoản 2 Điều 194 B LHS năm 1999.
Tại các điểm g, h, i, k, l, m, n, o khoản 2 Điều 194 B LHS năm 1999 và các
điểm quy định tại khoản 3, 4 Điều 194 B LHS năm 1999 đều có điểm chung là quy
định về các dấu hiệu định khung tăng nặng liên quan đến trọng lượng, thể tích các
chất ma túy. Ở mỗi mức khác nhau, các nhóm ma túy được quy định về trọng lượng,
thể tích khác nhau và với mỗi mức tăng dần về trọng lượng, thể tích đó lại tương ứng
với một mức hình phạt tăng cao tương ứng.
* Quy định về hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
Điều 26 B LHS năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước nhằm tước b ỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm

tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.” Tính


nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị kết án có thể bị tước b hoặc bị hạn
chế quyền tự do, quyền tài sản về chính trị và quyền sống. Bên cạnh đó hình phạt
cũng để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị kết án trong thời hạn nhất định
theo quy định của pháp luật.
Đối với tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Điều 194 B LHS
năm 1999, hình phạt áp dụng với loại tội này bao gồm hình phạt chính và hình phạt
bổ sung. Hình phạt chính bao gồm bốn khung hình phạt theo mức độ tăng dần về sự
nghiêm khắc như sau:
Khung hình phạt cơ bản (quy định tại khoản 1 Điều 194): quy định hình phạt tù
từ hai năm đến bảy năm
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều 194): quy định hình phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai (khoản 3 Điều 194): quy định hình phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm
Khung hình phạt tăng nặng thứ ba (khoản 4 Điều 194): quy định hình phạt hai
mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Về hình phạt bổ sung (khoản 5 Điều 194): phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tóm lại BLHS năm 1999 là Bộ luật thể hiện bước nhảy vọt trong việc hoàn
thiện các quy định pháp luật nói chung và cả quy định về tội phạm ma túy nói riêng.
Đây là bộ luật thể hiện sự tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, ban hành kèm theo
nó là một hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn rất đa dạng và phong phú, quy
định một cách tương đối toàn diện, tạo nên công cụ pháp lý sắc bén, hiệu quả, góp
phần ổn định trật tự, xóa b và bài trừ dần những tệ nạn ma túy ra kh ỏi xã hội.
1.2.4 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự
2015



B LHS năm 2015 có sự kế thừa tương đối các quy định của B LHS năm 1999
bởi vậy có thể khái quát định nghĩa tội mua bán trái phép chất ma túy như sau: Tội
mua bán trái phép chất ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện môt cách
cố ý, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy.
* Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội mua bán trái phép chất ma túy.
Khoản 1 Điều 251 B LHS năm 2015 quy định cấu thành cơ bản của tội mua bán
trái phép chất ma túy với khung hình phạt là từ hai đến bảy năm tù. Về mặt cấu trúc,
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
quy định trong B LHS năm 2015 cũng tương tự như B LHS năm 1999, được phân
thành 4 yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan như đã phân tích ở
trên.
- Khách thể của tội phạm: Là chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về hoạt
động mua bán các chất ma túy. So với BLHS năm 1999, B LHS năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017 đã có quy định thêm nhiều chất ma túy hơn, cụ thể đã bổ sung các
chất như: Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11, lá khát (lá cây
Catha edulis); không chỉ còn là lá, hoa, quả cây cần sa mà còn bổ sung thêm rễ, thân,
cành cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy
định.
- Mặt khách quan của tội phạm: Là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Đây là
hành vi có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như dưới hình thức
hành vi mua bán theo nghĩa thông thường, hành vi xin, cất giữ, vận chuyển để bán
hoặc hành vi trao đổi, thanh toán bằng chất ma túy..v..v.. Tội phạm hoàn thành từ thời
điểm thực hiện hành vi khách quan này vì vậy các dấu hiệu về công cụ, phương tiện
phạm tội, hậu quả do tội phạm gây ra,... không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với loại
tội phạm này.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma túy
chính là yếu tố lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Lỗi của người phạm tội này là lỗi cố



ý trực tiếp, người phạm tội thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuy nhằm đạt
được lợi ích hoặc thỏa mãn mục đích cá nhân.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là người
có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định . Qua nghiên cứu quy định phân loại tội
phạm tại khoản 2 và khoản 3 Điều 9 B LHS năm 2015 và quy định về tội mua bán trái
phép chất ma túy tại Điều 251 BLHS 2015 thì cho thấy: người từ đủ 16 tuổi trở lên và
có năng lực TNHS phải chịu TNHS thuộc bất kỳ khoản nào của Điều 251 BLHS năm
2015. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS thuộc trường hợp
quy định tại khoản 1, mà chỉ chịu TNHS thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, 3 và
4 của Điều 251 B LHS năm 2015. Như vậy người từ đủ 14 tuổi tới dưới 16 tuổi khi
thỏ a mãn điều kiện của điều luật thì có thể không phải chịu TNHS đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy. Bên cạnh đó đối với những người khi thực hiện hành vi
mua bán trái phép chất ma túy mà họ đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải
chịu TNHS. (áp dụng quy định tại Điều 21 B LHS năm 2015)
* Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Các khoản 2, 3, 4 Điều 251 B LHS năm 2015 quy định các dấu hiệu pháp lý
thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng, theo đó khung hình phạt mở rộng từ bảy năm tù
cho tới mức cao nhất là hình phạt tử hình. So sánh với B LHS năm 1999, B LHS năm
2015 cũng quy định một số tình tiết định khung tăng nặng về tội mua bán trái phép
chất ma túy tại Khoản 2 Điều 251 giống với một số tình tiết quy định về loại tội này
tại khoản 2 Điều 194 B LHS năm 1999. Các tình tiết đó là:
- Phạm tội có tổ chức;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Qua biên giới;
- Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Tái phạm nguy hiểm.



×