Tải bản đầy đủ (.doc) (248 trang)

Nghiên cứu văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.91 MB, 248 trang )

Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do lựa chọn đề tài
Việt Nam là một trong những nước nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng

của văn hoá Hán, và cũng là nước có những yếu tố đặc thù về thời tiết khí hậu,
lại ln xảy ra chiến tranh, nên người Việt đã dựng bia đá từ hơn 1000 năm nay
như là một phương thức hữu hiệu để lưu giữ các ghi chép và truyền tải thông
tin ở thời cổ và trung đại.
Huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố là một trong những địa phương còn
lưu giữ được bia đá tương đối dồi dào về số lượng, phong phú về nội dung và
nghệ thuật. Đến bất cứ thôn làng nào ở huyện Đơng Sơn đều có thể bắt gặp
những tấm bia đá được dựng ở đình, chùa, đền, miếu, từ đường, lăng mộ, hoặc
ngồi cánh đồng, trong hang động… với kích thước và hình dáng khác nhau,
tạo nên một vẻ đẹp cổ kính cho cảnh quan và tốt lên một màu sắc văn hố khá
độc đáo của Việt Nam nói chung và huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố nói riêng.
Văn bia huyện Đơng Sơn có một lịch sử lâu dài vào loại nhất nước. Bia
sớm nhất được đặt tại xã Đông Minh huyện Đông Sơn là Đại Tuỳ Cửu Chân
quận Bảo An đạo tràng chi bi văn 大 大 大 大 大 大 大 大 大 大 大 大 , khắc năm Đại
Nghiệp thứ 14 (618) nhà Tuỳ. Nội dung bia ca tụng giáo lý nhà Phật và ca ngợi
đạo học cùng sự nghiệp của Viên thứ sử Cửu Chân họ Lê. Bia đã bị mờ nhiều
chữ, tác phẩm khơng cịn ngun vẹn, nhưng nó là văn bản văn bia cổ nhất còn
lại ở Việt Nam. Tấm bia muộn nhất ở huyện Đơng Sơn có niên đại của đầu thế
kỷ XX, tiêu biểu là bia Ngọc Tích bi ký 大 大 大 大, tạo năm Việt Nam dân quốc
năm Bính Tuất thứ 2 (1946) thuộc xã Đông Thanh. Với lịch sử trải dài trên 13
thế kỷ tồn tại, văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố đã góp phần quan trọng
trong việc tìm hiểu niên đại và nghiên cứu các vấn đề văn học, lịch sử, địa lý,
tơn giáo tín ngưỡng của Việt Nam nói chung và huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh


Hố nói riêng.
1


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Có thể nói, văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố là địa phương có
nhiều văn bia cổ. Xét về loại hình văn bản, văn bia huyện Đông Sơn mang đầy
đủ những đặc trưng của văn bia Việt Nam nói chung. Hơn nữa, văn bia huyện
Đơng Sơn tỉnh Thanh Hoá tuy từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu Hán Nôm
lưu tâm, dịch và công bố, song đến nay, chúng tơi vẫn chưa thấy có một cơng
trình nghiên cứu nào mang tính chất bao qt, tổng hợp. Những cơng trình
nghiên cứu trước đây, hoặc là chỉ nghiên cứu, giới thiệu mang tính độc lập đối
với từng di tích lịch sử văn hố; hoặc là chỉ hướng tới mục đích cơng bố một số
văn bia tiêu biểu của huyện Đông Sơn. Vấn đề số lượng bia đá, số lượng thác
bản văn bia hiện có và địa điểm đặt bia của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
ngày nay, vẫn cịn chưa mang tính đích xác, văn bia cịn bị xếp nhập nhằng
giữa xã này với xã khác, giữa huyện Đơng Sơn với huyện khác. Tình trạng này
đã gây ít nhiều khó khăn cho các nhà nghiên cứu khi muốn sử dụng, khai thác
văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố.
Vì vậy, việc nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố là
việc cần thiết và có ý nghĩa. Trong đó, việc tập hợp đầy đủ, chính xác số lượng
văn bia, cũng như việc khảo sát tổng quan để tìm hiểu đặc điểm, giá trị nội
dung văn bia, đồng thời tiến hành phiên âm, dịch nghĩa các văn bản văn bia tiêu
biểu của huyện Đông Sơn để nghiên cứu và phục vụ cho việc nghiên cứu là
công việc thiết thực, nằm trong chuyên môn của ngành Hán Nôm.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Nghiên cứu văn bia huyện
Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn - chuyên
ngành Hán Nôm.
2.


Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá từ lâu đã thu hút được nhiều

nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Cụ thể là trong các cuốn sách như: Khảo sát
văn hố truyền thống Đơng Sơn do Trần Thị Liên - Phạm Văn Đấu biên soạn năm
1988 đã giới thiệu một số bài văn bia của huyện Đơng Sơn; hai cuốn sách Địa chí

Thanh Hố, tập II- Văn hoá xã hội, Nxb. KHXH, 2004 và Địa chí huyện Đơng
2


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Sơn tỉnh Thanh Hố, Nxb. KHXH, 2006 cũng có giới thiệu một vài văn bia tiêu
biểu của huyện Đông Sơn, đồng thời đưa ra danh mục văn bia huyện Đơng Sơn
tỉnh Thanh Hố, tuy nhiên, danh mục này chưa thật đầy đủ và chính xác so với
số lượng và đơn vị hành chính hiện nay.
Bên cạnh đó, trong các tạp chí, thơng báo Hán Nơm, cũng có một số
nhà nghiên cứu có bài giới thiệu về văn bia huyện Đông Sơn, như các bài viết
của: Trần Thị Băng Thanh với bài “Thanh Hoá vườn văn bia” (Tạp chí Hán
Nơm, số 3-2000), tác giả giới thiệu khái quát sự phong phú đa dạng về số lượng
và nội dung văn bia trong cả mảng khắc thơ đề vịnh và bi ký của tỉnh Thanh
Hố, trong đó bao gồm cả giới thiệu về một số văn bia huyện Đông Sơn. Phạm
Thị Hoa với bài “Văn khắc Hán Nôm ở đền thờ Nguyễn Nghi” (Thông báo Hán
Nôm, năm 2000) đã giới thiệu tóm tắt về ngơi đền thờ Nguyễn Nghi cùng với
ba tấm bia được đặt tại đền, thuộc xã Đơng Thanh, huyện Đơng Sơn, tỉnh
Thanh Hố.
Ngồi ra, trong cuốn Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, 1993 do
Nguyễn Quang Hồng chủ biên cũng có giới thiệu thư mục 20 văn bia của huyện
Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố.
Như vậy, có thể thấy, những bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu, giới thiệu


mang tính độc lập cho từng di tích lịch sử văn hố; hoặc là chỉ hướng tới mục
đích công bố một số văn bia tiêu biểu của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố, mà
hồn tồn chưa có một cơng trình nào trình bày về văn bia huyện Đơng Sơn
tỉnh Thanh Hoá một cách hệ thống.
3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu.
3.1.

Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là các thác bản văn bia

của huyện Đông Sơn tính theo địa lý hành chính hiện nay, cụ thể là tất cả
những bài văn, bài thơ được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm chuyển tải đầy đủ
một nội dung hoàn chỉnh được khắc trên bia đá.

3


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ của luận văn, chúng tôi tập trung tiến hành khảo sát

180 thác bản văn bia, có đối chiếu với địa điểm đặt bia tại địa phương theo đơn
vị hành chính hiện nay. Nghiên cứu đặc điểm về phân bố không gian và thời
gian của các văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố. Bước đầu tìm hiểu giá
trị nội dung của văn bia trong nghiên cứu lịch sử, văn hoá xã hội huyện Đơng
Sơn tỉnh Thanh Hố. Ngồi ra chúng tơi cịn lập danh mục văn bia huyện Đơng
Sơn và dịch nghĩa một số bài văn bia tiêu biểu.

3.3.

Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành Luận văn, chúng tơi vận dụng một số phương pháp

nghiên cứu cơ bản sau:
3.3.1. Phương pháp văn bản học.
Thông qua mô tả văn bản về các mặt như kích cỡ bia, độ dài bài văn
bia, đặc điểm trang trí trên bia, đặc điểm viết chữ,… chúng tôi đưa ra một số
nhận định về đặc điểm của văn bia huyện Đông Sơn, về vấn đề niên đại, về thời
đại và tác giả.
3.3.2. Phương pháp thống kê định lượng.
Chúng tôi tiến hành một loạt các thao tác thống kê định lượng đối với
tư liệu văn bia huyện Đông Sơn thu thập được theo các tiêu chí: sự phân bố
theo không gian và thời gian, tác giả biên soạn, và các vấn đề có liên quan,
v.v… Thơng qua các kết quả đó, chúng tơi đưa ra những nhận xét tổng quát về
tình hình và đặc điểm của văn bia huyện Đông Sơn.
3.3.3. Phương pháp tổng hợp.
Phương pháp tổng hợp liên ngành là phương pháp quan trọng trong quá
trình tiến hành nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi dựa vào phương pháp này
để bước đầu đưa ra những nhận định tổng qt về văn bia huyện Đơng Sơn.
Ngồi những phương pháp trên, chúng tơi cịn tiến hành phương pháp
nghiên cứu điền dã để khảo chứng, xác minh, và bổ sung tư liệu mới về văn bia
huyện Đông Sơn.
4


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
4.


Đóng mới của luận văn
- Bước đầu khảo sát văn bản, xác định được chính xác vị trí đặt bia,

thống kê tương đối đầy đủ về mặt số lượng văn bia huyện Đông Sơn được sưu
tầm trong những năm qua, hiện đang được lưu trữ ở Thư viện Viện nghiên cứu
Hán Nơm. Ngồi ra, chúng tơi còn tiến hành thu thập thêm một số văn bản văn
bia huyện Đông Sơn thông qua các tài liệu khác, và qua quá trình điền dã
- Lần đầu tiên văn bia huyện Đơng Sơn được trình bày một cách có hệ
thống và tương đối đầy đủ về tình trạng và đặc điểm.
- Đưa ra một số nhận xét về giá trị cơ bản của văn bia huyện Đông Sơn
về: văn học, văn hố, nghệ thuật tạo hình. Tất cả những giá trị đó được đề cập
một cách cụ thể.
- Phần Phụ lục giới thiệu những bài văn bia huyện Đông Sơn tiêu biểu,
bao gồm có nguyên văn kèm phiên âm, dịch nghĩa và chú thích.
- Lập Danh mục văn bia huyện Đông Sơn mà chúng tôi thu thập và làm
lược thuật theo 8 tiêu chí.
5.

Bố cục của luận văn
- Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận

và Phần phụ lục.
- Phần Nội dung được chia làm 3 chương:
+ Chương 1:Giới thiệu khái quát về huyện Đông Sơn.
+ Chương 2: Đặc điểm văn bia huyện Đơng Sơn.
+ Chương 3: Tìm hiểu giá trị của văn bia huyện Đông Sơn.
- Phần Phục bao gồm:
+ Phụ lục 1. Danh mục văn bia huyện Đông Sơn.
+ Phục lục 2. Phiên âm, dịch nghĩa giới thiệu một số văn bia huyện
Đông Sơn.

+ Phụ lục 3. Nguyên văn một số bài văn bia giới thiệu.

5


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
6.

Quy ước trình bày
- Trong phần danh mục văn bia tóm lược, kích thước văn bia được đo

theo hình thức: chiều ngang x chiều cao, đơn vị tính là cm.
- Những chữ trên thác bản bị mờ, chúng tôi chưa chắc chắn về phương
án phiên âm sẽ được đặt trong dấu [].

6


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU KHÁI QT VỀ HUYỆN ĐƠNG SƠN
Đơng Sơn là một huyện đồng bằng của châu thổ Sông Mã, nằm ở trung
tâm của tỉnh Thanh Hố, cách 5 km về phía Tây thành phố. Đông Sơn là một
vùng đất được kiến tạo trên một địa hình tương đối ổn định, có đồng bằng mầu
mỡ phì nhiêu, có hệ thống núi đồi gị bãi phong phú, và cịn có cảnh quan rất
đẹp, hài hồ. Đơng Sơn là huyện có nhiều tiềm năng đất đai và con người, có vị
trí quan trọng về kinh tế, văn hoá xã hội của tỉnh Thanh Hoá.
1.1.


Địa lý

1.1.1. Địa lý tự nhiên
Về diện tích.
Đơng Sơn là huyện có diện tích nhỏ nhất tỉnh Thanh Hố. Theo số liệu
thống kê năm 2003, Đơng Sơn có diện tích là 10635,42 ha. Bình qn diện tích
tự nhiên là 0,1 ha/người.
Về địa giới.
Phía Đơng giáp thành phố Thanh Hố, gồm các xã, thị trấn: Đông
Hưng, Đông Tân, Đông Lĩnh và thị trấn Rừng Thơng; phía Tây giáp huyện
Triệu Sơn, gồm các xã: Đơng Hồng, Đơng Ninh, Đơng Hồ, Đơng n, Đơng
Văn, Đơng Phú; phía Nam giáp huyện Quảng Xương, gồm các xã: Đơng Nam
và Đơng Vinh; phía Bắc giáp huyện Thiệu Hố, gồm các xã: Đông Lĩnh, Đông
Tiến, Đông Thanh, Đông Khê, Đông Hồng.
Về địa hình.
Địa hình huyện Đơng Sơn tương đối bằng phẳng, thấp, trũng, hướng
dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam; có núi, đồi xen lẫn đồng bằng.
Về đất đai, thổ nhưỡng.
Đất đai huyện Đơng Sơn hình thành chủ yếu do q trình trầm tích, là
kết quả của lắng đọng các mẫu chất, đất từ nơi khác do nước chuyển tới. Đồng
7


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
đất của Đơng Sơn hình thành chủ yếu do phù sa của sông Chu và sông Mã bồi
đắp nên có độ mùn khá cao, các chất dinh dưỡng trong đất phong phú, phù hợp
với nhiều loại cây trồng, nhất là thuận lợi cho canh tác nông nghiệp. Ngồi ra,
Đơng Sơn cịn có một diện tích đất không nhỏ thường bị úng nước mưa mùa
hè, phân bố ở địa hình thấp, trũng hoặc lịng chảo của vùng châu thổ.

Nhìn chung, đất Đơng Sơn tốt cả về hố tính và lý tính, khơng chua,
thích hợp với các loại cây lương thực và cây cơng nghiệp [195/17].
Về khí hậu, sơng ngịi.
Khí hậu của huyện Đơng Sơn cũng như các huyện trong vùng đồng
bằng Thanh Hoá, đều chịu sự ảnh hưởng, chi phối của khí hậu nhiệt đới gió
mùa.
Sơng ngịi của Đơng Sơn gồm có 2 sơng chính là sơng Hồng và thuỷ
nơng sơng Chu. Ngồi ra cịn có trên 325ha ao hồ phân bố hầu hết các xã trong
huyện [195/11-12].
Về tài ngun, khống sản.
Đơng Sơn là một trong những huyện của Thanh Hố có đồi, núi đá vơi
phong phú, nằm rải rác ở các xã trong huyện với trữ lượng khoảng 20 triệu m3 .
Phần lớn các núi đá này có chất lượng tốt, đáp ứng cho nhu cầu xây dựng các
cơng trình vĩnh cửu, làm đá mỹ nghệ, ôplat có giá trị cao. Đặc biệt là đá núi
Nhồi: “Ở phía Tây Nam huyện, có một quả núi lớn và cao gọi là núi An Hoạch,
… Sắc đá óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Sau này đục đá
làm khí cụ, ví như đẽo đá làm khánh, đánh lên thì tiếng ngân mn dặm; dùng
làm bia văn chương thì cịn mãi ngàn đời”[2] . Đá núi Nhồi được hình thành
cách ngày nay khoảng 200 - 300 triệu năm, là loại đá không liền tấm, cứng
nhưng khơng giịn, khơng có tạp chất, mịn, các khối đá tạo thành từng lớp có
độ dày mỏng khác nhau.
Ngồi ra, huyện Đơng Sơn cịn có các tài ngun khác như: đất sét
(dùng làm gạch, ngói, gốm, sứ,.. tiêu biểu là đất sét Đông Ngàn, xã Đông
Vinh); than bùn; nước ngầm;…
8


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
1.1.2. Địa lý hành chính
1.1.2.1. Tên huyện và Lỵ sở huyện Đông Sơn

- Tên huyện
Thời thuộc Hán - Tam Quốc - Lưỡng Tấn, “Đông Sơn là miền đất
thuộc huyện Tư Phố và một phần thuộc huyện Cư Phong. Theo “Di Biên của
Cao Biền” thì lúc này có huyện Đơng Dương, sau gọi là Đơng Cương tức là
Đông Sơn sau này” [188/259]. Thời Tuỳ Đường đến thời Đinh - Tiền Lê - Lý,
Đông Sơn vẫn là vùng đất thuộc vào huyện Cửu Chân [226/130].
Thời Trần - Hồ, phủ lộ Thanh Hố gồm có 7 huyện và 3 châu. Cụ thể
là: huyện Cổ Đằng, Cổ Hoằng, Đông Sơn, Cổ Lơi, Vĩnh Ninh, n Định,
Lương Giang, châu Thanh Hố, châu Ái, châu Cửu Chân. Tên gọi Đông Sơn
bắt đầu từ đây.
Thời thuộc Minh, Trấn Thanh Đô đổi thành phủ Thanh Hố, lãnh 4
châu và 11 huyện, trong đó có Đông Sơn [195/27].
Thời Lê - Nguyễn. Thanh Hoa lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu. Huyện
Đông Sơn lúc này thuộc vào phủ Thiệu Thiên. Năm Gia Long thứ 14 (1815)
đổi phủ Thiệu Thiên thành phủ Thiệu Hoá.
Năm 1928, huyện Đông Sơn được đổi gọi là phủ Đông Sơn.
- Lỵ sở của huyện.
Trước thời Nguyễn, lỵ sở của huyện Đông Sơn đóng ở xã Cổ Đơ (làng
Vạc) tức xã Thiệu Đơ, huyện Thiệu Hố ngày nay.
Năm Gia Long thứ 7 (1808) dời về xã Thạch Khê (tức Ke Rủn), tổng
Thạch Khê, nay là xã Đông Khê. Đến năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), lỵ sở
huyện dời đến xã Thọ Hạc (nay thuộc Thành phố Thanh Hố), gọi là phủ Đơng
(địa điểm ga Thanh Hoá ngày nay) [195/28-29].
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tên huyện Đông Sơn vẫn giữ
nguyên. Huyện lỵ Đơng Sơn đóng ở Rừng Thơng (nay là thị trấn Rừng Thông)

9


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố

1.1.2.2. Địa danh làng xã.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhất là Khảo cổ
học và Sử học cho thấy, Đông Sơn là một trong những vùng đất cổ nhất của
Thanh Hoá và cương vực lúc đó rộng gấp nhiều lần hiện nay. “Kẻ” - một từ chỉ
địa danh cổ nhất nước ta, cịn lưu danh ở nhiều vùng ở Đơng Sơn, như: Kẻ Trổ,
Kẻ Dậu, Kẻ Mơi, Kẻ Thìa, Kẻ Trầu, Kẻ Chiếu, Kẻ Rủn, Kẻ Bôn, Kẻ Chẻo, Kẻ
Bụt, …. Và những từ chỉ địa danh như: xá, trang, ấp, phường, vạn, … cũng
xuất hiện và có khơng ít ở vùng đất này như: Nguyên Xá, Lê Xá, Ngô Xá,
Quảng Xá, Bồ Lồ trang, phường Vạn Niên, … là những bằng chứng sinh động
về sự phong phú và đa dạng của một vùng đất cổ nổi tiếng của Thanh Hoá.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, những từ chỉ địa danh hành chính đó đã sự
thay đổi. như: Kẻ Bơn chuyển thành Cổ Bôn; Kẻ Rủn chuyển thành làng Rủn
(nay là xã Đông Khê); Kẻ Bụt chuyển thành thôn Cửa Bụt; Kẻ Lậu chuyển
thành thôn Ngọc Lậu; …
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, vào thời kỳ này Đơng
Sơn gồm có 6 tổng (Thọ Hạc , Thạch Khê, Đại Bối, Vận Quy, Quang Chiếu, Lê
Nguyễn), 145 xã, thôn, trang, vạn, giáp, sở, phường [223/111].
Dưới thời vua Minh Mệnh, một số tên tổng, làng, xã của huyện Đông
Sơn được đổi tên, như: tổng Lê Nguyễn đổi thành tổng Thanh Hoa; xã Nguyễn
Xá (tổng Vận Quy) đổi thành tổng Quy Xá; xã Ngọc Đôi (tổng Thạch Khê) đổi
thành xã Ngọc Tích;… chia tổng Thọ Hạc thành 2 tổng (Thọ Hạc và Bố Đức);
tổng Quang Chiếu thành 2 tổng (Quang Chiếu và Quảng Chiếu). Lúc này,
huyện Đông Sơn gồm có 8 tổng.
Đến nửa sau thế kỷ XIX, dưới thời Tự Đức, tên gọi một số thôn, làng
của huyện Đông Sơn đã thay đổi. Theo Đồng Khánh dư địa chí, cuối thế kỷ
XIX, hai tổng Thạch Khê và Tuyên Hoá được chia làm 3 tổng (Tuyên Hoá,
Thạch Khê và Thanh Khê). Đơng Sơn gồm có 9 tổng (Thọ Hạc, Đại Bối, Bố

10



Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Đức, Vận Quy, Thạch Khê, Thanh Khê, Tuyên Hoá, Quang Chiếu, Quảng
Chiếu), bao gồm 147 xã, phường, giáp, vạn.
Đầu thế kỷ XX, tổng Thanh Khê sau đổi thành Kim Khê, tổng Quang
Chiếu đổi thành Viễn Chiếu. Đến năm Thành Thái thứ 12 (1900), nhà Nguyễn
cắt 2 tổng Vận Quy và Đại Bối nhập vào huyện Thuỵ Ngun (nay thuộc huyện
Thiệu Hố). Huyện Đơng Sơn cịn lại 7 tổng: Thọ Hạc, Bố Đức, Viễn Chiếu
(Quang Chiếu), Quảng Chiếu, Tuyên Hoá, Kim Khê (Thanh Khê), Thạch Khê.
Đến năm Bảo Đại thứ 3 (1928), huyện Đông Sơn đổi thành phủ Đơng
Sơn, gồm có 7 phủ với 115 làng và 5.794 xuất đinh.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1946, huyện Đông Sơn
đã chia 7 tổng cũ thành 22 xã.
Từ sau năm 1954 đến nay, huyện Đông Sơn nhiều lần thay đổi tên
huyện và các cuộc tách nhập giữa các xã của huyện Đông Sơn với các xã ở cấp
huyện khác, cùng với đó là các quyết định thành lập thị trấn Rừng Thông (năm
1992) và thị trấn Nhồi (năm 2006).
Hiện nay, huyện Đông Sơn bao gồm 19 xã và 2 thị trấn. Đó là: Thị trấn
huyện lỵ Rừng Thông, thị trấn Nhồi và các xã Đông Anh, Đơng Hồ, Đơng
Hồng, Đơng Hưng, Đơng Khê, Đơng Lĩnh, Đơng Minh, Đông Nam, Đông
Ninh, Đông Phú, Đông Quang, Đông Tân, Đông Tiến, Đông Thanh, Đông
Thịnh, Đông Văn, Đông Vinh, Đông Xuân, Đông Yên.
1.1.3. Dân cư và các ngành nghề truyền thống
1.1.3.1. Dân cư
Vùng đất Đông Sơn không chỉ là nơi đầu tiên phát hiện được di vật của
văn hố Đơng Sơn có niên đại cách ngày nay khoảng 2.820 năm, mà nơi đây
cịn phát hiện được nhiều dấu tích cư trú, hoạt động vật chất của chủ nhân văn
hố Đơng Sơn. Trên lưu vực sông Mã, người ta đã phát hiện được nhiều di tích
khảo cổ thuộc về văn hố Đơng Sơn với đủ các loại hình: di tích cư trú, mộ
táng, di chỉ - xưởng, quan trọng hơn cả là việc phát hiện công xưởng chuyên


11


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
chế tác các cơng cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức trên đất Đơng Sơn. Các di
tích này chủ yếu tập trung ở khu vực ngã ba sông trên địa bàn Đông Sơn. Từ
kết quả khảo cổ, người ta cho rằng: vùng đất này không những chỉ là địa bàn
gốc, mà còn là một trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng của cư dân Đông
Sơn trong buổi đầu dựng nước.
Hiện nay, dân số của các xã trong huyện khá đông đúc và tỉ lệ tăng
nhanh. Theo số liệu năm 2003, dân số huyện Đông Sơn là 109.797 người, bao
gồm 24.880 hộ, mật độ dân số trung bình 1.030 người/km2 [195]
1.1.3.2.Các ngành nghề truyền thống
Nghề chế tác đồ đá
Nghề chế tác đá ở Đông Sơn là một trong những nghề cổ truyền được
bảo lưu và phát triển lâu đời nhất ở Đơng Sơn, nó được hình thành và phát triển
trên cơ sở của một nguồn nguyên liệu địa phương sẵn có, và tiếp thu truyền
thống kỹ thuật từ xưa.
Núi An Hoạch nằm ở phía Tây Nam huyện Đông Sơn, trên địa bàn hai
xã Đông Tân và Đông Hưng là một trong những trung tâm khai thác đá nổi
tiếng của nước ta, được người thợ đá rất ưa dùng. Núi cao, thoải, đá mịn, tiếng
kêu trong, có thể dùng làm bia, làm khánh cùng các vật dụng khác. Từ thời Lý,
Thái uý Lý Thường Kiệt đã biết đến tiếng đá núi Nhồi, nên đã cho người đến
núi Nhồi khai thác để sử dụng. Đến đời Trần, nghề đục đá ở núi An Hoạch (núi
Nhồi) đã nổi tiếng, được triều đình biết tới, thợ đá An Hoạch được huy động
vào việc đục đá ở các núi Thiên Kiện và Khuân Mai. Triều Lê, từ những miếu
điện ở Lam Kinh (huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá) đến Lăng Quận cơng (Đơng
Sơn) đều do thợ đá núi Nhồi góp phần tạo dựng.
Làng Nhồi chủ yếu vẫn sống bằng nghề nông. Đục đá, sản xuất các sản

phẩm từ đá là một nghề phụ quan trọng ở đây. Nghiên cứu về các nghề thủ
cơng ở Thanh Hố, Robequain - một người Pháp cho biết: vào cuối triều
Nguyễn, ở làng Nhồi có khoảng 300 hộ làm nghề đục đá [196/971-972].

12


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Hiện nay, nghề đục đá ở Đông Sơn, mà chủ yếu là ở làng Nhồi vẫn
tiếp tục phát triển đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của công tác xây dựng và đời sống.
Nghề gốm:
Đơng Sơn là nơi có nguồn ngun liệu đất sét tốt, có hệ thống giao
thơng đường thuỷ thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi. Do vậy, nghề sản xuất
gốm ở đây đã sớm hình thành và nhanh chóng trở thành một trong những trung
tâm sản xuất đồ gốm của xứ Thanh [230/31-32].
Trung tâm sản xuất đồ gốm là vùng Đức Thọ và một số nơi ven sông
Chu, sơng Mã, như Vồm, Thổ Phương,... Là vùng có đầy đủ các yếu tố về
nguồn nguyên liệu tốt, chất đốt dồi dào, cùng với việc tiếp thu kinh nghiệm sản
xuất từ xưa, nghề làm đồ gốm ở Đức Thọ phát triển tương đối nhanh trở thành
vùng gốm quan trọng của tỉnh Thanh Hoá, và cũng là một trong những vùng có
nghề gốm quan trọng nhất nước ta. Các lị gốm ở Đức Thọ sản xuất chủ yếu là
đồ dân dụng như chum, vại, lọ, hũ, chĩnh, chậu, ấm, bình vơi, tiểu sành,…
Ngày nay, nghề sản xuất đồ gốm sành sứ ở Thanh Hố vẫn đang duy trì
và phát triển. Trên vùng đất Đức Thọ xưa đã hình thành một khu vực sản xuất
đồ gốm - sành khá sầm uất, đó là khu gốm Lò Chum được nhân dân khắp nơi
biết đến.
Nghề đúc đồng:
Nghề đúc đồng là một trong những nghề thủ cơng cổ truyền khá nổi
tiếng ở Thanh Hố, được tập trung chủ yếu ở làng Trà Đông, xã Thiệu Trung,

Đơng Sơn (này thuộc huyện Thiệu Hố tỉnh Thanh Hố), xưa cịn có tên là Trà
Sơn Trang, tên Nơm là Kẻ Chè. Làng này chủ yếu sống bằng nghề đúc đồng,
đơn vị sản xuất chủ yếu là gia đình. Mỗi gia đình là một cơ sở sản xuất, là một
lị riêng, chủ gia đình đồng thời cũng là chủ lị đúc.
Sản phẩm ở Trà Đông được khắp nơi ưa chuộng, không chỉ chủ yếu là
các đồ dùng dân dụng như: nồi đồng, bát hương, đèn, chân đèn,… mà với sự
tích luỹ kinh nghiệm phong phú,mà bàn tay tài hoa người thợ đúc đồng còn tạo
13


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
ra những sản phẩm mang tính nghệ thuật cao, như các loại: tượng, chuông, con
giống, con rồng,… Nghề đúc đồng ở Trà Đông chủ yếu tập hợp nguyên liệu từ
việc tận dụng các nguồn đồng thứ phẩm.
Ngồi ra, ở Đơng Sơn cịn có nghề dệt, cũng là một nghề cổ truyền xuất
hiện sớm. Trong số những làng dệt được biết đến ở Đông Sơn, nổi tiếng là làng
dệt Hồng Đô, xã Thiệu Đô huyện Đông Sơn (nay thuộc huyện Thiệu Hoá) với
nghề dệt nhiễu. Dấu ấn của nghề trồng dâu, ni tằm, dệt vải cịn để lại trong
một số hình thức sinh hoạt văn hố dân gian, như hát phường vải, trong các lễ
hội thi dệt vải,…
1.2. Văn hố - Xã hội.
Đơng Sơn là một trong những vùng đất cổ của đồng bằng Thanh Hoá.
Bằng tinh thần lao động cần cù, trí thơng minh sáng tạo và lịng u q hương
đất nước, người dân Đơng Sơn đã tạo dựng cho mình một đời sống tinh thần vơ
cùng phong phú và đa dạng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, những tinh hoa
trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội, cùng với những đặc điểm của hoàn cảnh
thiên nhiên, hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh con người đã tạo nên các đặc trưng
văn hoá của vùng đất này, trở thành những di sản văn hố khơng chỉ của riêng
Đơng Sơn mà cịn là của Thanh Hố và cả nước.
1.2.1. Những phong tục tập quán, tín ngưỡng.

Cũng như bao miền quê khác, người dân Đông Sơn rất coi trọng phong
tục thờ cúng tổ tiên. Ở Đông Sơn hiện có khoảng hơn 60 nhà thờ họ và từ
đường [195/435-442]. Mỗi nhà thờ họ thường gắn liền với một cá nhân nổi
tiếng của dịng họ đó, là những người khoa bảng đỗ đạt, có cơng lao to lớn với
dân, với nước. Đấy không chỉ là niềm tự hào của riêng dòng họ mà còn là niềm
tự hào chung của cả cộng đồng cư dân làng và cả một vùng rộng lớn. Có các
nhà thờ họ như: Nhà thờ Nguyễn Chích (xã Đơng Ninh); nhà thờ Nguyễn Văn
Nghi, Nguyễn Khải (xã Đông Thanh); lăng mộ Quận công Lê Trung Nghĩa (xã
Đông Hưng); từ đường họ Lê Khả (xã Đông Khê);…

14


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Họ lớn thì có nhà thờ riêng, họ nhỏ thì lấy nhà Tộc trưởng làm nhà thờ
họ, do Tộc trưởng đảm trách việc hương khói, giỗ tết và có phần ruộng hương
hoả để chi dùng. Vào ngày giỗ họ, con cháu trong họ “đơm cỗ” đội đến cúng ở
nhà thờ họ rất nghiêm cẩn. Cũng trong những dịp này, người ta thường kết hợp
bàn việc quan trọng khác của dòng họ, như: lập hoặc bổ sung gia phả, xây mộ
tổ, xây dựng nhà thờ họ,…
Ngoài ra, có một số người khơng có con để kế nối việc thờ cúng ơng
bà, cha mẹ thì họ cúng ruộng, tiền cho làng xã để sửa chữa, xây dựng đình chùa
và các cơng trình cơng cộng của làng như: cầu, cống, đường xá, v.v… để được
xã tôn bầu làm Hậu thần và thờ cúng khi họ qua đời. Điều này được phản ánh
khá đậm nét trong các văn bia Hậu thần, Hậu phật ở huyện Đơng Sơn.
Tín ngưỡng thành hồng, là một phong tục không thể thiếu trong các
làng xã Đơng Sơn. Do quan niệm “đất có thổ cơng” nên phần nhiều các làng
đều có thờ một vị thần “bảo trợ”. Tuỳ theo quy mô kiến trúc và chức năng mà
các vị thần được thờ ở đình, đền, nghè, miếu,... Thành hồng có thể là nhân vật
thần thoại; có thể là một con người thực có cơng tích lớn lao với cộng đồng

làng, được cả làng suy tơn; có thể là nhân vật lịch sử của địa phương hay của
dân tộc. Vị thần đó được dân làng kính ngưỡng thờ cúng. Ở Đông Sơn, trong
các nhân vật được tôn là “Thành hồng” thì nhiều nhất là những người có cơng
lao trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và những người đỗ đạt, giữ những
trọng trách quan trọng trong xã hội. Cụ thể như: đền thờ Nguyễn Nghi, đền thờ
Cao Cử (xã Đông Thanh); đền thờ Nguyễn Đăng Khoa (xã Đơng Hồ); đình
Xn Lưu (xã Đơng Xn) thờ Quận cơng Nguyễn Đình Thuần;…
Bên cạnh đó, ở Đơng Sơn cịn thờ cúng nhiều vị thần khác như thần:
Cao Sơn, Đông Hải, cơng chúa Liễu Hạnh, Thiên Cương, Long Un,… Có thể
nói, tục thờ cúng tổ tiên, thần thánh từ lâu đã trở thành truyền thống đạo đức
dân tộc “uống nước nhớ nguồn” của con người Đơng Sơn nói riêng và của
người Việt Nam nói chung.
Ngồi ra, ở Đơng Sơn cịn có một số tục lệ như:
15


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Tục kết chạ, là một tục lệ phổ biến trước kia ở Đông Sơn, nhằm tăng
cường tinh thần đoàn kết và thân thiện láng giềng. Một làng có thể kết chạ với
một hoặc nhiều làng khác nhau. Trong các lễ hội của làng thì lễ kết chạ, đi chạ,
hội chạ là một lễ quan trọng và các làng thường tổ chức các hình thức sinh hoạt
văn hố khá sơi nổi. Hiện nay tục lệ này khơng cịn phổ biến và các làng cũng
khơng mấy áp dụng.
Tục khảo thí, là tục kiểm tra các học trị trong làng, mỗi năm được tổ
chức một lần. Trong các làng xã của Đơng Sơn phần lớn có tục này và được
duy trì thường xun, nhất là các làng có nhiều người đỗ đạt, có truyền thống
khoa bảng, tiêu biểu như làng Cổ Bôn (xã Đông Thanh). Hiện nay tục lệ này
khơng cịn lưu truyền trong vùng. Và cịn có các tục: khảo rể, tục gánh nước
đầu năm, tục đi chợ Chuộng (cịn có tên gọi là chợ Hồng), tục săn Cuốc,v.v…
tất cả đã tạo nên nét đặc trưng làm phong phú thêm văn hố Đơng Sơn.

Bức tranh phong tục tập qn , tín ngưỡng ở Đơng Sơn có thể nói là đa
dạng, phong phú, trong đó có nhiều yếu tố cổ xưa bị mai một, che lấp hoặc
được nhào nặn lại. Song nhìn tổng thể thì đó là thuần phong mỹ tục, là thô phác
song lành mạnh, biểu hiện những mong ước của người dân hướng tới cuộc sống
yên ả trong lành và ít bị xáo trộn. Nó là linh hồn của nền văn hoá dân gian
(folkore) xứ Thanh.
1.2.2. Di tích lịch sử văn hố và lễ hội truyền thống.
Về di tích lịch sử văn hố.
Huyện Đơng Sơn hiện có 125 di tích lịch sử văn hố các loại. Trong đó,
đình có 14 di tích, chùa có 11 di tích, từ đường - nhà thờ họ có 25 di tích, đền
có 45 di tích, nghè có 17 di tích, và lăng có 1 di dích [195/427-442]. Có thể nói,
những di tích lịch sử văn hố huyện Đơng Sơn đã góp phần làm nên nét đặc
trưng văn hoá của vùng đất này.
Về lễ hội truyền thống.
Lễ hội trong truyền thống dân tộc trở thành một nhu cầu tinh thần, nhu
cầu tâm linh không thể thiếu trong mỗi tâm hồn người dân đất Việt. Lễ hội để
mong cầu cuộc sống yên bình, nhân khang vật thịnh, đất nước phát triển.

16


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Cũng giống như các miền q khác ở Việt Nam, trong một năm, người
dân Đông Sơn cũng có các tết chung của dân tộc như: tết Nguyên Đán, tết
Thanh minh; tết mùng 5 tháng năm (còn gọi là Tết giết sâu bọ); tết Rằm tháng
7; và tết Rằm tháng 8 (cịn gọi là Tết Trung Thu).
Ngồi ra, ở Đơng Sơn cịn có các lễ hội cổ truyền khá sôi nổi, tiêu biểu
nhất là lễ hội Nghè Sâm và lễ hội Cổ Bôn [195/464-474]:
- Lễ hội Nghè Sâm.
Nghè Sâm thờ phụng Lê Ngọc, quan Thái thú quận Cửu Chân thời Tuỳ

(cịn gọi là Cao Hồng) và người con trai cả của ơng là Ích Từ Cơng (cịn gọi là
Đức Thánh cả), thuộc làng Nhuệ Sâm tổng Tuyên Hố, nay thuộc xã Đơng
Xn. Lễ hội Nghè Sâm khởi thuỷ chỉ là ngày cúng giỗ hai nhân vật trên. Ngày
hội đó khơng chỉ là ngày hội lớn của 9 xã, thơn thuộc 3 tổng (Tun Hố,
Thanh Khê, Quảng Chiếu) mà còn là lễ hội chung của cả vùng.
Theo tục lệ, lễ hội này cứ 3 năm tổ chức một lần, vào các năm Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi. Thời gian tổ chức lễ hội Nghè Sâm là vào những ngày cuối
tháng Giêng âm lịch và kéo dài từ 7 đến 10 ngày. Trong lễ hội nghè Sâm, trung
tâm của phần hội là sự cơng diễn các diễn trị của các làng xã sau khi đã được
Hội đồng hàng tổng và đại biểu của các làng về khảo trò lựa chọn. Sân khấu để
diễn trò là sân Nghè Sâm. Các trò diễn trong Lễ hội Nghè Sâm tiêu biểu như
các trò: Xiêm Thành, Tơ Vũ, Múa đèn, Tiên Cuội, trống mõ, trị Hà Lan,…
Lễ hội trở thành ngày hội lớn trong vùng, thu hút nhân dân khắp nơi
trong huyện Đông Sơn và các vùng lân cận tấp nập kéo về Viên Khê xem hội.
Ngồi ra, trong Lễ hội cịn có các trị diễn mang đậm dấu ấn của các làng lân
cận khu vực Nghè Sâm như các trị: Chạy gậy, Tơ Vũ chăn dê, múa Lào,… Các
làng tham gia lễ hội vào ngày kết thúc thường làm lễ tạ thần và tổ chức ăn uống
linh đình.
- Lễ hội Cổ Bơn.
Cổ Bơn, xưa có tên gọi là Kẻ Bơn, gồm có 4 làng: Ngọc Tích, Phúc
Triền, Kim Bơi và Quỳnh Bơi (gọi chung là Tứ Bôn), nay là xã Đông Thanh
17


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
huyện Đơng Sơn. Nơi đây được xem là một kho tàng lưu giữ văn hoá, văn nghệ
dân gian đặc sắc. Trong bốn làng này, mỗi làng thờ một vị thành hồng riêng
(làng Ngọc Tích thờ Đế Thích, làng Phúc Triền thờ Nguyễn Văn Nghi, làng
Kim Bơi thờ Đăng Quận công Nguyễn Khải, làng Quỳnh Bôi thờ “Hắc Bạch
Đại vương” - thờ con cáo trắng và đám mây đen).

Phần lễ bao gồm có: Lễ Triều quan, được tiến hành vào sáng ngày
mùng 2 tháng Giêng âm lịch, có các vị trong Hội Tư văn bốn xã, khăn áo chỉnh
tề đến nhà Thánh làm lễ Đức Khổng Tử và thất thập nhị hiền. Sau đó cử từ 10
đến 12 người mặc đồ tế đến tận gia đình các vị đỗ đại khoa để cúng lễ như:
Hoàng giáp Lưu Ngạn Quang (đỗ năm 1481), Tiến sĩ Lê Khả Trù (đỗ năm
1628), Thám hoa Thiều Sĩ Lâm (đỗ năm 1670), Tiến sĩ Lê Khả Trịnh (đỗ năm

1676) v.v… Lễ khảo học trị (khảo thí) vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch. Lễ
giỗ chung cả làng ngày 19 tháng Giêng âm lịch, là ngày giỗ chung cho những
người bị giặc sát hại cùng một ngày, cùng với những vong linh 5 đời khơng ai
thờ cúng, người khơng có hậu tự.
Hội tế làng Cổ Bôn, được mở vào ngày 20 tháng Giêng. Trước đó,
chiều ngày 19 tháng Giêng, cả bốn làng đều rước kiệu đưa bốn vị thành hoàng
đến áng tế. Cuộc rước kiệu diễn ra rất trang nghiêm, lộng lẫy cờ lọng nhưng
cũng rất tưng bừng, rộn rã của tiếng trống chiêng và bát âm. Sáng ngày 20
tháng Giêng, sau khi kiệu và các lễ phẩm đã chuẩn bị xong, đặt đúng vị trí quy
định thì Nha mơn mới mời các quan viên, tư văn, hương lão vào chiếu ngồi
theo một quy định rất cụ thể. Các tế quan và trình tự cuộc Đại tế cũng giống
các nơi. Tế xong, có một vị đại diện hàng quan viên (có hàm lục phẩm trở lên
và hưu quan tại làng) ngân nga cao giọng cất tiếng hỏi về tình hình mùa màng,
sưu dịch, giá cả của làng trong năm qua. Sau đó thơng qua câu trả lời thực tế
mà các quan viên nghị định để chọn lấy một trong ba chữ Thượng-Trung hoặc
Hạ để quyết định việc mở hội diễn trò. Mùa màng tươi tốt, xóm làng n bình
quan viên thơng ra chữ Thượng, hoặc chữ trung thì dân các làng chuyền nhau,
vỗ tay reo hò.
18


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Phần hội. Trong lễ hội Cổ Bơn có các trị diễn như: trị đánh cờ, trị

Tiên cuội, trị Thuỷ phường, trị Ngơ phường, trị Lan Phường v.v… Trò diễn
trên sân áng tế kéo dài 5-7 ngày. Suốt thời gian lễ hội, các gia đình đón khách
tiếp đãi; nhà thờ các vị đại khoa hương đèn không tắt, các cuộc yết lễ ở 4 đền
thờ ở 4 làng cũng liên tục diễn ra tuỳ theo các làng.
Nhìn chung, Lễ hội truyền thống Đông Sơn cùng với các trò diễn phán
ánh nhiều mặt trong cuộc sống hàng ngày cũng như tâm tư nguyện vọng của
quần chúng nhân dân. Có thể nói, lễ hội Nghè Sâm và Cổ Bơn là một nét đặc
sắc trong lễ hội dân gian vùng Đông Sơn.
1.3. Văn học - Giáo dục
1.3.1. Văn học dân gian và văn học viết.
1.3.1.1. Văn học dân gian.
Văn học dân gian Đơng Sơn là một bộ phận của dịng văn học dân gian
Thanh Hố. Nó xuất hiện trước khi có chữ viết và song hành cùng với văn học
thành văn. Các thể loại văn học dân gian được lưu hành trong cả nước đều
được bắt gặp ở đây, như thơ ca dân gian (tục ngữ, ca dao, dân ca,…) và văn
xuôi dân gian.
- Truyện kể dân gian, bao gồm các loại chủ yếu như: thần thoại, cổ tích,
truyện cười, truyện ngụ ngơn,… Trong đó, tiêu biểu là truyện: Núi Quảy, sơng
Cày; Sự tích núi Vọng phu; Vợ chồng anh Kình; Trương Ba đánh cờ; Ơng đồ
Bơn hay chữ; Ba mươi tuổi mới đi học mà đỗ Hoàng giáp v.v…
- Phương ngôn, ngạn ngữ, tục ngữ.
Là những nhận thức, kinh nghiệm của cư dân Đông Sơn về thiên nhiên,
lịch sử, xã hội và con người đã được sàng lọc qua thời gian, là những câu tiêu
biểu chỉ địa danh, sản vật và danh nhân quê hương:
+“Buôn bông là xã Làng Đà
Dệt cửi trong nhà là xã Bến Quan
Nấu rượu là xã Làng Chan
Cử nhân tiến sĩ thì sang Phúc Triền”…
19



Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
+ Gió đơng là chồng lúa chiêm,
Hiu hiu gió bắc là duyên lúa mùa…..
- Ca dao.
Ca dao nơi đây không chỉ đề cập đến tên đất, tên làng của vùng đất này
mà còn cho ta thấy thấp thống trong đó đời sống kinh tế, các hoạt động văn
hoá - xã hội mang đậm dấu ấn của cư dân Đông Sơn.
+“Làng Nhồi đục đá, nung vôi
Hương Bào trồng cải cho người ta mua.
Lấy chồng làng Rủn làm quan,
Ngã năm Tuyên Hoá đốt than nhọc nhằn” (1)…..
- Dân ca.
Đông Sơn là một vùng dân ca nổi tiếng của xứ Thanh mà trung tâm là
vùng Đông Anh (nay là một xã thuộc huyện Đông Sơn). Dân ca Đông Anh
mang nội dung phong phú, trữ tình, được thể hiện rõ trong thể loại hát đối đáp
giữa nam và nữ (còn gọi là hát trao duyên). Đây là một hình thức sinh hoạt
“văn nghệ” phổ biến trong các làng xã trong những đêm trăng thanh, gió mát;
trong các lễ hội,… tạo nên một nét văn hoá truyền thống đặc sắc của Đơng Sơn.
Có những câu hát đối đáp đầy ý vị như:
+“Phượng hoàng chắp cánh bay qua
Thấy cây tươi tốt liền xà xuống chơi”.
+“Trèo lên chót vót ngọn sồi
Anh bao nhiêu tuổi mà địi lấy em?
Trèo lên chót vót ngọn chanh,
Em hai mươi tuổi lấy anh cũng vừa”. …
Ngoài dân ca Đơng Anh, ở Đơng Sơn cịn có các làn điệu hát ru, hát
cửa đình rất phong phú.
- Trị diễn dân gian.
Là nét đặc sắc trong kho tàng văn hoá dân gian truyền thống Đông Sơn.

Là một huyện đồng bằng trung tâm của Thanh Hố, ở Đơng Sơn nghề nơng là
Làng Nhồi nay thuộc xã Đông Hưng; làng Rủn nay thuộc xã Đơng Khê; ngã năm Tun Hố nay thuộc xã
Đơng Minh; Hương Bào nay thuộc Tp. Thanh Hoá.
1

20


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
nghề cơ bản. Vậy nên, nội dung của các trị diễn dân gian Đơng Sơn cơ bản là
phản ánh đời sống sản xuất nông nghiệp, phục vụ nhà nông, phản ánh phong
tục, lịch sử, đời sống xã hội,…
Trung tâm trò diễn nổi tiếng là Lễ hội Nghè Sâm và lễ hội Cổ Bơn.
Gồm có các trị diễn tiêu biểu sau: trò Xiêm Thành, là trò múa theo nhịp trống
có mặt nạ, khơng có lời ca chỉ có vài lời thoại để đưa đẩy cho hành động; trò
múa đèn, là một tổ khúc rất nổi tiếng. Đội múa gồm có 12 người, đèn dầu được
thắp sáng và đội lên đầu, vừa hát, vừa múa; trị Tơ Vũ (cịn gọi là trị Tơ tượng
đúc chng), gồm các nhân vật đeo mặt nạ, vừa múa vừa hát; trò Đấu cờ người,
được tổ chức ngay trên sân đền Đế Thích. Mỗi làng chọn ra một đội gồm 16
người, trọng tài là một người cao tuổi có tiếng là cao cờ và có uy tín trong làng.
Đội được nhất thì thưởng một tấm lụa tốt và một quan tiền. Trong suốt quá
trình diễn ra đánh cờ người ta vừa đánh cờ vừa hát. Ngồi ra, cịn có các trị
như trị Thuỷ; trị ngơ; trị Hùm; trị Tú Huần; trị tiên cuội, trò Hà Lan, trò
thiếp,v.v…
1.3.1.2. Văn học viết.
Mỗi nền văn học, văn hoá của một đất nước thường bao gồm những
thành tựu tiêu biểu của các vùng, miền trong cả nước. Huyện Đơng Sơn với
những thành tựu văn học riêng có của mình, cũng đã góp một phần để chung
đúc thành tinh hoa cho nền văn học, văn hoá nước nhà.
Về sử học. Ở Đơng Sơn có Lê Hy, là một trong những sử gia có nhiều

đóng góp quan trọng cho Quốc sử quán Việt Nam . Theo lời Tựa Đại Việt sử ký
tồn thư do chính Lê Hy viết năm1697, niên hiệu Chính Hồ thứ 18 thì nhà vua
đã có sắc chỉ sai Lê Hy cùng 12 người nữa “khảo đính sử cũ, chỗ nào sai thì
sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy. Về thế thứ, phàm lệ niên biểu, hết thảy đều
theo như trước đã thuật. Lại sưu tầm sự tích cũ, tham khảo các dã sử, biên chép
từ Huyền Thơng Mục hồng đế niên hiệu Cảnh Trị năm đầu (1665), đến Gia
Tơng Mỹ hồng đế niên hiệu Đức Nguyên thứ 2 (1675), tất cả thực sự trong 13
năm, gọi là Bản kỷ tục biên” [190/35].
21


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Như vậy, cơng lao của nhóm Lê Hy mà ông là người đứng đầu, đối với
Quốc sử là ngoài việc biên soạn phần tục biên gồm 13 năm từ 1663 - 1675, còn
giữ vai trò kết thúc công việc biên soạn kéo dài qua nhiều đời và do đó quyết
định bộ mặt của bộ Đại Việt sử ký tồn thư bản Chính Hồ như chúng ta có hiện
nay
Về văn bia.
Có thể nói, văn bia là điểm nổi bật trong mảng văn học viết của huyện
Đông Sơn. Căn cứ vào Ái Châu bi ký [181] do Hồ Đắc Dự chép năm Duy Tân
thứ 3 (1909), các công trình Thơ văn Lý - Trần do Nguyễn Huệ Chi chủ biên
[226], Văn khắc Hán Nôm Việt Nam do Nguyễn Quang Hồng chủ biên [243] và
Danh mục thác bản văn khắc Hán Nôm của Viện nghiên cứu Hán Nôm, cùng
nhiều tài liệu khác cho thấy văn bia Thanh Hoá chủ yếu tập trung vào hai huyện
Thọ Xuân và Đông Sơn. Theo thống kê hiện có, Đơng Sơn có 180 văn bia. Tuy
nhiên còn bao nhiêu tác phẩm đã bị mất khơng tìm ra tăm tích thì vẫn khó có
câu trả lời đích xác.
Văn bia huyện Đơng Sơn nằm ở gần khắp các xã trong huyện, trong đó
chủ yếu là ở hai xã Đông Hưng và xã Đông Tân. Văn bia huyện Đông Sơn
phong phú về số lượng, đa dạng về nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt, huyện

Đơng Sơn cịn là nơi có nhiều tấm cổ vào loại nhất nước, góp phần quan trọng
trong việc tìm hiểu các vấn đề về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, tín
ngưỡng,… của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố nói riêng và của cả nước nói
chung.
Về thơ, huyện Đơng Sơn cũng những tác phẩm thơ đề vịnh thiên nhiên
của thi nhân Đông Sơn, như Nguyễn Mộng Tuân

(1)

vịnh mai lan cúc trúc,…

Nhưng nhìn chung là không nhiều lắm.
Văn học Đông Sơn tuy không phát triển đều đặn, liên tục và đồ sộ
nhưng với những gì đã tạo dựng được, văn học Đơng Sơn cũng đã đóng góp
phần nào làm phong phú thêm cho nền văn học nước nhà.
Nguyễn Mộng Tuân, tự là Văn Nhược, hiệu là Cúc Pha, người làng Viên Khê huyện Đơng Sơn. Ơng đỗ Thái
học sinh 1400, giữ chức Tả nạp ngôn.
1

22


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
1.3.2. Giáo dục thời phong kiến.
Đơng Sơn là vùng đất trung tâm của xứ Thanh với những điều kiện tự
nhiên và xã hội thuận lợi, người dân Đơng Sơn lại có chí hướng khơng ngừng
vươn lên, nên giáo dục ở Đơng Sơn được hình thành khá sớm và không ngừng
phát triển, trở thành một trong những trung tâm giáo dục và có truyền thống
hiếu học nổi tiếng của Thanh Hoá.
Về tổ chức trường lớp, cũng giống như các địa phương khác trong cả

nước thời bầy giờ, từ thế kỷ XVII, XVIII trở đi, Nhà nước mới lập các trường
học ở các phủ, huyện miền xuôi nhưng khơng nhiều. Cả huyện Đơng Sơn chỉ
có một trường huyện, nên phần lớn học sinh đều học ở các trường lớp tư do các
ông đồ Nho, các hưu quan mở trường dạy học hoặc do dân các làng xã tự đóng
góp xây dựng. Trong các làng xã, trường học chỉ là một lớp, gồm nhiều thế hệ
học sinh với nhiều trình độ khác nhau và chỉ có một thày dạy. Tất cả giờ giấc,
nội dung học tập và phương pháp giảng dạy đều do thầy quyết định.
Về chế độ học tập, hầu như chỉ dựa vào các khoa thi làm chuẩn đích,
khơng định thời gian học tập. Chương trình học tập thường tuỳ theo trình độ và
khả năng của thầy cũng như sức học của học sinh. Trong quá trình học có diễn
ra các kỳ thi khơng chính thức, kỳ bình văn, sát hạch. Việc này do các viên
Huấn đạo, Giáo thụ, Đốc học chủ trì, có mời các nhà khoa bảng ở địa phương
đến tham dự. Vài năm huyện tổ chức sát hạch học sinh các “trường làng” một
lần, chọn ra học trị đạt một trình độ nào đó vào học “trường huyện” hay
“trường phủ”. Đến gần kỳ thi Hương, quan Đốc học ở tỉnh lại tổ chức một cuộc
sát hạch nữa ở các phủ, huyện cho tất cả thí sinh để chọn ra người đủ trình độ
học vấn nhất định tham dự kỳ thi Hương.
Để cổ vũ cho việc học tập, hầu hết các làng xã trong huyện Đơng Sơn
đều có Văn chỉ, có hội Tư văn, có ruộng khuyến học… và hầu hết các Hương
ước của các làng đều có mục quy định về việc học.
Làng Cổ Bôn nay thuộc xã Đông Thanh là một vùng đất học nổi tiếng
của Đơng Sơn. Làng này hàng năm có “Lễ triều quan” diễn ra vào sáng ngày
23


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
mùng 2 Tết để tơn vinh, tưởng nhớ các vị khoa bảng đỗ đạt và “Lễ khảo thí”
được tổ chức vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch để kiểm tra trình độ học trị.
Những ơng thầy giạy học của làng được mọi người hết sức trọng vọng và lưu
truyền danh tiếng.

Người mở đầu cho nền khoa bảng Đông Sơn là Lê Văn Hưu, người
làng Phủ Lý, tổng Vận Quy, nay thuộc xã Thiệu Trung huyện Thiệu Hố. Ơng
thi đỗ Bãng nhãn khoa Đinh Mùi (1427) đời vua Trần Thái Tơng khi mới 18
tuổi. Từ đó đến khi nhà Nguyễn bãi bỏ việc thi cử vào năm 1919, Đơng Sơn đã
có 32 người đỗ Đại khoa. Tính riêng trên phạm vi địa giới ngày nay thì huyện
Đơng Sơn có 18 người, trong đó 17 người đỗ dưới triều Trần, Hồ, Lê và 1
người đỗ thời Nguyễn. Còn trong các kỳ thi Hương, theo thống kê của Thanh
Hoá đăng khoa lục, Đơng Sơn có 156 người đỗ Hương cống (Cử nhân). Trong
đó, xã có số người đỗ đạt nhiều nhất là xã Đông Thanh, xã Đông Ninh,v.v…
“Thi Hoằng Hố, khố Đơng Sơn” là sự thừa nhận của nhiều thế hệ
trong cả nước nói chung và Thanh Hố nói riêng về thành tích học hành khoa
bảng của huyện Đơng Sơn và Hoằng Hoá trong thời phong kiến. Bởi với nền
giáo dục được đề cao, riêng ở Đông Sơn đã xuất hiện những cá nhân tài cao
đức trọng, trình độ uyên bác, khoa bảng đỗ đạt trong hệ thống giáo dục thời bấy
giờ như: Lê Văn Hưu, Nguyễn Mộng Tuân, Lê Hy, Nguyễn Văn Nghi,…góp
phần đưa Đơng Sơn trở thành một vùng “đất học” nổi tiếng của xứ Thanh.
1.3.3. Một số danh nhân tiêu biểu
- Nguyễn Mộng Tuân (? - ?), tự là Văn Nhược, hiệu là Cúc Pha. Ông là
một nhà nho yêu nước đã sớm tìm đến với khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh
đạo và rất được trọng dụng. Nguyễn Mộng Tuân phụng sự ba đời vua Lê: Thái
Tổ, Thái Tông, Nhân Tông. Dưới thời Thái Tông, ông từng giữ chức Trung thư
lệnh và Đô uý.
- Nguyễn Chích (1383 - 1448), quê ở Đồng Pho (nay là xã Đơng Hồ).
Ơng sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, bố là Nguyễn Liêu, mẹ là Lê
Thị Ổn, người làng Vạn Lộc (nay là xã Đông Ninh). Nguyễn Chích là con trai
24


Ngô Thị Thanh Tâm - Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
cả trong nhà, hai người em trai sau đều mất sớm. Đến tuổi trưởng thành, chứng

kiến cảnh tàn bạo của quân Minh đối với nhân dân ta, Nguyễn Chích với lịng
u nước căm thù giặc, đã tập hợp lực lượng, dựng cờ khởi nghĩa chống quân
Minh ngay trên quê hương mình và được nhân dân trong vùng tích cực hưởng
ứng. Thanh thế của nghĩa quân Nguyễn Chích lan rộng khắp vùng Nam Thanh
- Bắc Nghệ. Ơng được Lê Lợi biết đến và rất trọng dụng. Nguyễn Chích mất
năm Mậu Thìn (1448), mộ táng ở xứ Mả Trạch quê nhà. Nhà vua ban tặng cho
ông thêm chức Nhập nội kiểm hiệu, Tư khơng bình chương sự, ban tên thuỵ là
Trinh Vũ, cấp lễ Thái thường khi tế tự.
- Nguyễn Nhữ Soạn (? - 1448), tự là Thủ Trung, hiệu là Nguyễn Đức,
quê ở xã Mục Nhuận, tổng Tun Hố, nay là làng Cẩm Nga xã Đơng n
huyện Đông Sơn. Nguyễn Nhữ Soạn tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ
những buổi đầu, là một võ tướng có tài, tham gia nhiều trận chiến đấu chống lại
sự đàn áp của quân Minh và lập được nhiều chiến công. Ông được cử giữ nhiều
chức quan trọng dưới triều vua Lê như: Tham tri quân dân Hải Tây đạo, Chính
sự viện Tham nghị, hàm tứ phẩm, thăng lên làm Nam đạo Hành khiển, tước
Quan Nội hầu. Nguyễn Nhữ Soạn có 3 con trai đều có cơng lao xây dựng và
bảo vệ sự nghiệp của nhà Lê. Sau khi mất, ông được nhà vua ban sắc phong
tặng là “Bậc khai quốc công thần, Vinh lộc đại phu, Tả xa kỵ, đại tướng quân,
Quan Phục hầu, Nhập thị nội Hành khiển, Tư mã, tặng Thái phó Tuy quốc
cơng, bao phong Thượng đẳng phúc thần”.
- Nguyễn Văn Nghi (1525 - 1595), tự là Ấp Thanh, quê ở Kim Bôi, xã
Đông Thanh huyện Đông Sơn. Ơng sinh ra trong một gia đình “danh gia thế
phiệt”. Nguyễn Văn Nghi là con trai trưởng trong nhà, hai em trai sau là
Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn Văn Diễn đều được phong giữ chức vụ cao. Từ khi
còn trẻ tuổi, Nguyễn Văn Nghi đã ngày đêm miệt mài đèn sách. Năm Giáp
Dần, niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554), đời vua Lê Trung Tông, ông thi đỗ
Nhất giáp chế khoa (Bãng nhãn), được giữ chức Hiệu lý Viện Hàn lâm. Tính
Nguyễn Văn Nghi “đoan chính, cẩn thận, có khn phép” nên rất được Trịnh
25



×