Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận thanh xuân, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.38 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH TIẾN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH TIẾN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành:
Mã số:

Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
8 38 01 02


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tơi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số
liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Minh Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ ....................................... 11
1.1. Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở và các yếu tố cấu thành hệ thống
chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay ................................................................... 11
1.2. Đặc điểm, vị trí, vai trị của hệ thớng chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay ........ 16
1.3. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay .. 22
Chương 2 THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH
XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ............................................. 35
2.1. Khái quát về quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ................................. 35

2.2. Thực trạng về tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội hiện nay........................................................ 40
2.3. Thực trạng tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ...................................................................... 42
2.4. Thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội hiện nay........................................................ 49
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY .............................................................................................. 64
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
ở nước ta hiện nay ........................................................................................... 64
3.2. Các giải pháp đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở .................................................................................................. 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

GCN

:

Giấy chứng nhận


GD&ĐT

:

Giáo dục và Đào tạo

MTTQ

:

Mặt trận tổ quốc

MTTQVN

:

Mặt trận tổ quốc Việt Nam

PCCC

:

Phòng cháy chữa cháy

QSDĐ

:

Quyền sử dụng đất


QSHNƠ

:

Quyền sở hữu nhà ở

TDTT

:

Thể dục, thể thao

THCS

:

Trung học cơ sở

TTXH

:

Trật tự xã hội

UBMTTQ

:

Ủy ban Mặt trận tổ quốc


UBND

:

Ủy ban nhân dân

VSATTP

:

Vệ sinh an toàn thực phẩm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Ở nước ta, trong những năm gần đây yêu cầu về đổi mới hệ thống
chính trị ln là vấn đề được Đảng, nhà nước và xã hội quan tâm. Đặc
biệt tại Hội nghị trung ương VI, khóa XII vừa kết thúc [26] yêu cầu về đổi
mới hệ thống chính trị một lần nữa lại thể hiện tính cấp thiết của nó. Theo
đó, Bộ Chính trị đã nhận định: “đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng
cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý
luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước
và quyền làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi
mới kinh tế; về quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến
quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, cơng chức, viên chức và người lao
động”[57]. Nhằm cụ thể hóa những nội dung trên Đảng ta cũng nêu rõ các
nội dung đổi mới như:
- Coi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả là một nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, có ý nghĩa

quan trọng hàng đầu;
- Rà soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công
chức, viên chức;
- Xây dựng cơ chế cạnh tranh, công khai, minh bạch trong tuyển dụng,
bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc
trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
- Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng các quy định của
pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và thường xuyên kiểm tra,
giám sát, đề cao trách nhiệm giải trình;

1


- Tiếp tục hồn thiện thể chế về chính quyền địa phương theo hướng
phân định rõ hơn tổ chức chính quyền đơ thị, nơng thơn, hải đảo, đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt”[58].
Đây là những nội dung hết sức quan trọng và sẽ có tác động rất lớn đến
hệ thống chính trị nước ta thời gian tới. Đặc biệt đối với hệ thống chính trị cơ
sở vấn đề còn thể hiện sự cấp thiết hơn nữa. Cụ thể hiện nay, “một đề án về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị cấp cơ sở tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đang
được Ban Tổ chức Trung ương xây dựng”[59]. Ban Tổ chức Trung ương
cũng nhận định: “Đây sẽ là định hướng lớn nhằm giúp cho các địa phương
sắp xếp, tinh gọn lại bộ máy, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị ở cấp cơ sở[60]. Theo đó mục tiêu của Đề án cũng được xác định:
“cả nước có trên 11.000 xã, phường, thị trấn. Số lượng người hưởng lương,
phụ cấp do ngân sách chi trả ở khu vực này lên đến gần 1 triệu người, chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi lương cho bộ máy, trong khi phần lớn các xã
đều không tự chủ được ngân sách, mà đều cần sự hỗ trợ của ngân sách cấp
trên. Nếu sắp xếp lại khu vực này thành công, ngay lập tức sẽ giảm được ít

nhất hàng chục nghìn biên chế, bởi chỉ làm một phép tính đơn giản: Nếu sắp
xếp lại được một vị trí ở khu vực này thì bộ máy nhà nước sẽ giảm được ít
nhất 11.000 biên chế một con số nhiều ý nghĩa trong bối cảnh bộ máy cịn
phình to và đang là gánh nặng cho ngân sách hiện nay”[61].
Từ những vấn đề lý luận mang tính thực tiễn như vậy, sự tác động
của các chủ trương, chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước trong
thời gian tới đối với việc đổi mới và hoàn thiện hệ thớng chính trị nước ta
nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng là hết sức cấp thiết. Bởi vì,
hệ thống chính trị cơ sở, ln được coi là nền móng bất cứ hệ thống chính
trị nào. Do đó, sự tác động đối với hệ thớng chính trị cơ sở sẽ dẫn đến sự

2


tác động đối với tồn bộ hệ thớng chính trị nói chung và hệ thớng chính
trị cơ sở quận Thanh Xuân cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Cuối cùng với tư cách là người tham gia công tác thực tế tại địa
phương, được trực tiếp tiếp xúc và xử lý nhiều vấn đề thực tiễn. Từ góc
nhìn của người làm thực tiễn tác giả thấy rằng nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn đôi khi có những độ vênh nhất định. Do đó, việc nghiên cứu về
tổ chức và hoạt động của hệ thố ng chính trị cơ sở từ một địa bàn cụ thể
để đưa ra những kiến nghị chung đối với các tổ chức chính trị cơ sở ở
nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Từ những lý do như vậy, tác giả đã
lựa chọn Đề tài: “Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên
địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” là đề tài luận văn cao học
của mình. Nhằm mục đích bổ sung nhận thức lý luận về tổ chức và hoạt
động hệ thớng chính trị nói chung và hệ thớng chính trị cơ sở nói
riêng,cung cấp tình hình thực tiễn, đánh giá các kết quả hoạt động thực tế
của hệ thớng chính trị cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội. Từ đó rút ra những bài học nhằm xây dựng hệ thống chính trị nói

chung và hệ thớng chính trị cơ sở nước ta ngày càng dân chủ, ổn định, gọn
nhẹ và hiệu quả đáp ứng các yêu cầu của một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà chúng ta đang hướng
tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, hệ thớng chính trị có vị trí đặc biệt trong tổ chức và hoạt
động của toàn bộ đất nước. Do đó, một hệ thớng chính trị với nịng cốt là
chính quyền nhân dân cùng với sự tham gia của các đoàn thể nhân dân đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được các nhà nghiên cứu và thực tiễn quan
tâm từ rất sớm. Các nghiên cứu này có những nghiên cứu tổng qt về hệ
thớng chính trị nhưng cũng có những nghiên cứu chỉ tập trung làm rõ

3


những vấn đề về hệ thớng chính trị cơ sở. Do đó, trong phạm vi này tác
giả sẽ tổng quan các nghiên cứu theo hai nội dung đó là những nghiên cứu
gần với đề tài và những nghiên cứu chung về hệ thớng chính trị.
2.1. Các nghiên cứu về hệ thớng chính trị cơ sở (các nghiên cứu
gần với đề tài)
Các cơng trình nghiên cứu có phạm vi nghiên cứu gần với đề tài có
thể kể đến như:
- Đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ngoại thành
Hà Nội (cấp cơ sở) trong giai đoạn hiện nay, TS. Lưu Minh Trị, năm 1993.
- Đổi mới kiện tồn hệ thống chính trị cấp cơ sở nông thôn (thông qua
khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang), Đặng Thị Hiền, Luận văn thạc
sĩ khoa học chuyên ngành Triết học, 1993.
- Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hố đời sống xã hội nơng
thơn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta,
PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

- Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp, TS. Võ
Hồng Cơng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khoá IX, Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới,
TS. Chu Văn Thành (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- GS, TS. Hồng Chí Bảo (chủ biên): Hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn nước ta hiện nay (sách tham khảo). Nxb CTQG, H, 2004.
Về kết quả đạt được, các nghiên cứu này đã chỉ ra những khái niệm,
phạm vi và những vấn đề lý luận cũng như một số đặc điểm tiêu biểu của hệ
thớng chính trị cơ sở nước ta. Đồng thời, các nghiên cứu cũng chỉ ra những

4


vấn đề thực trạng đạt được và những hạn chế cần khắc phục đối với hệ thớng
chính trị cơ sở nói chung và hệ thớng chính trị cơ sở trên một số địa bàn cụ
thể nói riêng. Từ đó đặt những nhu cầu hồn thiện, đổi mới hệ thớng chính trị
cơ sở.
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra những cấu thành của hệ thớng
chính trị cơ sở, vị trí, vai trò của từng cấu thành và đánh giá các kết quả đạt
được, những tồn tại, hạn chế đưa ra các giải pháp đổi mới đối với từng cấu
thành trong hệ thớng chính trị cơ sở. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cá biệt
còn chỉ ra được những khác biệt về các điều kiện địa phương, mơi trường…
Từ đó đưa cho chúng ta những cái nhìn đầy đủ, tồn diện hơn về vị trí, vai trị
của hệ thớng chính trị cơ sở trong các điều kiện xã hội nhất định.
Đối với các kết quả nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở cũng giúp
cho tác giả có được những nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trị của hệ
thớng chính trị cơ sở đối với hệ thớng chính trị nói chung và đối với xã hội

nói riêng. Đây chính là những kết quả hết sức quan trọng để tác giả thấy được
những phạm vi đã được các tác giả trước đây đã tiến hành nghiên cứu, những
phạm vi tác giả cần được tiếp tục triển khai nghiên cứu.
2.2. Các nghiên cứu chung về hệ thớng chính trị
Các nghiên cứu chung này có phạm vi nghiên cứu rộng hơn nhưng là
những cơ sở lý luận đáng tin cậy để tác giả có thể tiến hành củng cố các cơ sở
lý luận để nghiên cứu đề tài. Các cơng trình này có thể kể đến như:
- Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay của TS.
Trần Thái Dương, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2, 2006;
- Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS.
Nguyễn Trọng Phúc, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, 2013;

5


- Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy hơn nữa quyền làm
chủ của nhân dân lao động, GS.TS. Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, số
3 năm 1996;
- Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn
mới của tập thể tác giả: GS. Nguyễn Đức Bình, GS, TS. Trần Ngọc Hiên,
GS. Đoàn Trọng Tuyến, Nguyễn Văn Thảo: Nxb CTQG, H, 1999;.
Các cơng trình khoa học trên đây đã nghiên cứu khá đầy đủ, tồn diện
về hệ thống chính trị nước ta. Giá trị của các cơng trình nghiên cứu trên đã đạt
được những kết quả chủ yếu như sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu này chỉ ra các cách tiếp cận khác nhau từ đó
đưa ra các khái niệm khác nhau về hệ thống chính trị. Về nhận diện chung các
nghiên cứu này là khá đầy đủ và toàn diện trong các lý thuyết về hệ thớng
chính trị.
Thứ hai, thơng qua việc phân tích cấu trúc, đặc điểm, các nhân tố của
hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị Việt Nam nói riêng. Các tác

giả đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị hợp lý trong việc tổ chức và hoạt động
của các mơ hình hệ thống chính trị trên thế giới đưa ra các kiến nghị về việc xây
dựng, đổi mới hệ thống chính trị nước ta hoạt động có hiệu quả hơn nhưng vẫn
giữ được những nét đặc thù Việt Nam.
Thứ ba, từ việc tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính trị nước ta ở
phương diện khảo sát thực tiễn và nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học đã chỉ
ra những tích cực và những hạn chế, bất cập này cùng những nguyên nhân của
nó. Nhiều cơng trình đã đi tìm những bức xúc nổi cộm của hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở khoa học và những luận cứ xác đáng đó, các
cơng trình khoa học đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ
yếu nhằm củng cố, đổi mới và hồn thiện hệ thống chính trị Việt Nam hiện
nay đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước.

6


2.3. Những vấn đề mà đề tài cần phải tiến hành nghiên cứu
Như đã trình bày, những nghiên cứu lý luận trước đây về hệ thớng
chính trị nói chung và hệ thớng chính trị cơ sở nói riêng mặc dù đã được các
tác giả dày công nghiên cứu nhưng vẫn có những ý kiến khác nhau. Có những
các tiếp cận hệ thớng chính trị từ phương diện thực tiễn, có các tiếp cận từ
phương diện lý luận hoặc từ các mơ hình. Do đó, mỗi các tiếp cận khác nhau
đều mang đến những điểm khác nhau. Vì vậy muốn đề tài đạt được kết quả
mong muốn tác giả hi vọng sẽ mang nhiều tiếng nói từ thực tiễn để có thể lý
giải những vấn đề cần được làm rõ hiện nay.
Thứ hai, trong các nghiên cứu đã đề cập trên, hầu hết các nghiên cứu đã
giải quyết được những vấn đề mang tính lịch sử của nó đó là: Các nghiên cứu
đó đáp ứng được những địi hỏi thực tiễn ở giai đoạn đó nhưng hiện nay khi
mà chúng ta đang có những nhiệm vụ chính trị của Đại hội XII thì mục tiêu
cũng như các yêu cầu đổi mới hệ thớng chính trị nói chung và hệ thớng chính

trị cơ sở nói riêng là khác nhau. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới
hệ thớng chính trị cần đáp ứng những điều kiện mới đó cũng là vấn đề mà đề
tài phải quan tâm nghiên cứu.
Thứ ba, sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay trong điều kiện
một xã hội mở cửa, hội nhập, nhiều giá trị mới cũng như nhiều công nghệ mới
được áp dụng, vận hành. Do đó, cách thức tiếp cận của hệ thớng chính trị cơ
sở đối với những vấn đề thực tiễn cũng cần phải được nghiên cứu một cách
toàn diện hơn.
Thứ tư, việc nghiên cứu hệ thống chính trị ở cơ sở trên địa bàn quận
Thanh Xuân là một nghiên cứu đặc thù. Do đó, hiện nay chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, đây cũng là vấn đề để
Luận văn tập trung khai thác và đưa ra những kiến nghị khoa học trong
nghiên cứu của mình.

7


Trên đây là những vấn đề mà đề tài cần tiếp tục nghiên cứu. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, tác giả thấy rằng, tất cả những cơng trình nghiên cứu
trước đây thực sự là những tư liệu quý giá đối với tác giả để tiếp cận và kế
thừa có chọn lọc chúng trong quá trình nghiên cứu luận văn và nó có tính
quyết định để tác giả hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Do đó, việc
trích dẫn tài liệu của các tác giả khác cũng mong được thơng cảm để tác giả
có thể hồn thành đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Lựa chọn cơ sở lý thuyết phù hợp về hệ thống chính trị cơ sở sẽ là căn
cứ quan trọng để tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài. Đồng thời đây là cơ sở
quan trọng để luận giải sự phù hợp, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay.

Căn cứ vào những cơ sở lý luận tin cậy đã lựa chọn để tiến hành nghiên
cứu đề tài, kết hợp với các kết quả trong hoạt động thực tiễn của hệ thống
chính trị cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội tác giả sẽ
đánh giá mức độ phù hợp của các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước và thực tế hiệu quả của nó đối với tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở.
Thơng qua các đánh giá những thành tựu, hạn chế trong tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội,
đề tài sẽ kiến nghị các phương hướng, giải pháp về đởi mới, hồn thiện hệ
thống chính trị ở cơ sở ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Tiếp cận các nghiên cứu lý luận những vấn đề về hệ thống chính trị
nước ta nói chung và hệ thớng chính trị cơ sở nước ta nói riêng. Từ đó chỉ ra
chức năng, nhiệm vụ của hệ thớng chính trị ở cơ sở ở nước ta.

8


Nghiên cứu, đánh giá và phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị ở cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nợi
hiện nay, trên cơ sở đó chỉ ra những thành tựu và hạn chế cần điều chỉnh về tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay.
Kiến nghị những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hồn thiện
hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội nói
riêng và hệ thống chính trị cơ sở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn có đố i tượng
nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
của hệ thớng chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cơ sở trên địa
bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội nói riêng.

- Phạm vi nghiên cứu: Do quy mô của luận văn và tính phức tạp của
vấn đề, để đạt hiệu quả trong nghiên cứu, luận văn chọn phạm vi nghiên cứu
là thực tiễn tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội là phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ
xã hội chủ nghĩa và về Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Luận văn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu phổ biến và
hiện đại của khoa học pháp lý như: phân tích, tổng hợp, chứng minh, quy nạp, so
sánh, xã hội học pháp luật, khảo sát…
6. Ý nghĩa lý luậ n và thực tiễn

9


- Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung
về hệ thống chính trị nước ta nói chung và đặc biệt là tở chức và hoạt đợng
của hệ thớng chính trị cơ sở nói riêng căn cứ vào thực tiễn hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Về thực tiễn: Trên cơ sở các luận cứ khoa học và các khảo sát thực
tiễn để xác định những vấn đề bất cập và tồn tại đang đặt ra đối với hệ thống
chính trị ở cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Từ đó,
luận văn đưa những kiến nghị trong đổi mới về tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị ở cơ sở ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn sẽ được thiết kế làm 3 chương. Cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở và các yếu tố cấu thành hệ
thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
Hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng là nội
dung vốn đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm không chỉ từ phương diện
luật học mà cịn từ phương diện chính trị học, nhà nước học… Đây là một
trong những nội dung khá phức tạp và có thể tiếp cận theo nhiều phương diện
khác nhau. Vì vậy, để tiếp cận vấn đề này có tính logic, tác giả sẽ tiếp cận vấn
đề bằng việc giải mã các khái niệm liên quan như: khái niệm về chính trị, hệ
thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở.
1.1.1. Khái niệm chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống chính trị, có thể
lấy một số quan điểm tiêu biểu như sau:
- Hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính
thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó.
Hệ thống này bao gồm nhà nước, các chính đảng, các nghiệp đồn và các tổ
chức chính trị khác, trong đó nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm.
- Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thơng qua đó giai cấp

thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội.
- Hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị,
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi
ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó…
- Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thơng qua đó giai cấp
thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Hệ thống chính trị là một

11


cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành (hệ thống
pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền) nhằm
duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó.
- Hệ thớng chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội
bao gồm nhà nước, các đảng chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt
của đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời
phù hợp với lợi ích của chủ thể cầm quyền.
Tựu chung lại, với khái niệm về hệ thống chính trị cũng có rất nhiều
cách tiếp cận khác nhau, tùy theo quan điểm và mục đích của mỗi nhà nghiên
cứu. Những quan điểm coi phạm vi của chính trị rộng lớn thì có cách nhìn hệ
thống chính trị rộng và những tư tưởng coi hoạt động chính trị hẹp hơn thì
đưa ra khái niệm hẹp.
- Ví dụ, có cách hiểu hệ thớng chính trị theo nghĩa rộng khá rộng, đó là
tồn bộ lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống bao
gồm các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư
tưởng và các chuẩn mực chính trị, pháp luật…
- Cịn cách hiểu hẹp hơn thì coi hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống
các tổ chức, các cơ quan thực hiện chức năng chính trị trong xã hợi như các

đảng chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hợi có mối
liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị.
Việc thiếu thống nhất và cịn nhiều quan điểm tranh luận như vậy mợt
phần x́t phát từ thực tiễn là: Tổ chức nào cũng muốn được hiện diện trong
hệ thống chính trị, là mợt bợ phận cấu thành của hệ thống chính trị nên đã
thừa nhận khái niệm chính trị và khái niệm hệ thống chính trị theo nghĩa rộng,
các đặc trưng chính trị bị lẫn lộn vào các lĩnh vực khác.

12


Để giải quyết vấn đề trên quan điểm khoa học, phải phân biệt rõ sự
khác nhau giữa tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp. Từ đó mới có thể xác định rõ những tổ chức thiết chế cấu thành
hệ thống chính trị ở nước ta khi đã phân biệt thật rõ ràng những loại hình tổ
chức trên.
Tóm lại: hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức bao gồm các
đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với
nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các q trình của đời
sống xã hội.
Hệ thớng chính trị cơ sở: Với cách hiểu về hệ thống chính trị khá phức
tạp như trên, cách hiểu về hệ thống chính trị cơ sở có những tranh luận khá
phức tạp vì nhiều quan điểm cho rằng các tổ chức chính trị (tổ chức Đảng
Cộng sản Việt Nam), các tổ chức chính trị - xã hội (các đoàn thể) của nước ta
còn được duy trì ở cấp thấp hơn cả cấp xã, phường, thị trấn, đó là cấp thơn,
xóm, bản… Ví dụ, các chi bộ, đảng bộ trực thuộc được xây dựng cả ở phạm
vi các thơn, xóm, bản… Do đó, nhiều ý kiến cho rằng cần phải hiểu hệ thống
chính trị cơ sở là ở phạm vi cấp thấp này. Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương 5
khóa IX (2002), Đảng ta đã ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng
Hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn, gọi chung là cấp cơ sở[2]. Với
cách định danh của Nghị quyết như vậy, đây là căn cứ thống nhất để hiểu nội

hàm của hệ thống chính trị cơ sở. Theo đó, hệ thống chính trị cơ sở bao gồm:
đảng bợ, chính quyền cơ sở (cấp xã, phường, thị trấn), các tở chức đoàn thể
chính trị - xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về hệ thống chính trị
cơ sở như sau: hệ thống chính trị cơ sở bao gồm tổ chức chính trị cơ sở, các
tổ chức chính quyền cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội cơ sở, liên kết với
nhau trong một chỉnh thể thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức chính

13


trị cơ sở. Cụ thể tổ chức chính trị cơ sở, bao gồm tổ chức đảng bộ cơ sở (cấp
xã), chính quyền cấp cơ sở (HĐND, UBND), các tổ chức chính trị - xã hội cơ
sở liên kết với nhau trong một hệ thống thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của tổ
chức đảng bộ cấp cơ sở nhằm tác động và vận hành quyền lực chính trị trong
đời sống xã hội ở địa phương.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị cơ sở nước ta hiện nay
Qua các khái niệm về chính trị, hệ thống chính trị như đã trình bày trên,
các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị nước ta gồm: tổ chức Đảng, các thiết
chế nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Với việc hệ thống
chính quyền chúng ta được xây dựng thành bốn cấp từ trung ương đến địa
phương, các tổ chức đảng cũng được xây dựng trên căn cứ này [14, Điều 10]
thì hệ thống chính trị nước ta nếu phân theo chiều dọc cũng bao gồm 4 cấp.
Đó là, hệ thống chính trị cấp trung ương, hệ thống chính trị cấp tỉnh, hệ thống
chính trị cấp huyện và hệ thống chính trị cấp xã. Tổng thể các cấp trong hệ
thống chính trị như vậy hợp thành chỉnh thể của hệ thống chính trị nước ta.
Hệ thống chính trị nước ta được vận hành trên cơ sở các quy định trong điều
lệ, nghị quyết của tổ chức đảng, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
thiết chế chính trị, các cơ quan nhà nước và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam.

Một trong những vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay đó là vai trị của
các tổ chức xã hội (khơng phải là tổ chức chính trị - xã hội) trong hệ thống
chính trị nước ta có được coi là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị hay
khơng. Nhìn từ phương diện pháp lý, các tổ chức xã hội vẫn được coi là cơ sở
chính trị của nhà nước, được nhà nước tôn trọng và bảo vệ và cũng chưa có
quy định pháp lý nào thể hiện sự phân biệt, đối xử giữa các tổ chức xã hội với
các tổ chức chính trị - xã hội ngoại trừ việc không định danh cụ thể một tổ
chức xã hội nào là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân như các tổ chức

14


chính trị - xã hội [39, Điều 9, khoản 2]. Do đó, có theo một cách nhìn rộng
hơn thì vẫn là một trong những yếu tố cấu thành của hệ thống chính trị.
Tuy nhiên từ phương diện thực tiễn hiện nay, đối với các tổ chức được
coi là các tổ chức xã hội dân sự hợp pháp (không phải là các tổ chức chính trị
- xã hội được định danh trong Hiến pháp), với việc ra đời của Quy định số
102-QĐ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương [1,
Điều 7.3.b], dường như cũng đã xác định một ranh giới giữa các tổ chức này với
hệ thống chính trị. Trong đó Quy định đã u cầu các đảng viên không được
thực hiện thể chế xã hội dân sự, cho thấy các tổ chức xã hội không thuộc thành
phần các tổ chức chính trị - xã hội khơng được khuyến khích trở thành một cấu
thành của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng.
Do đó, với vai trị của một đảng viên cũng như với ý thức của một công
dân, trong nghiên cứu này tác giả cũng xin tiếp cận quan điểm về hệ thống
chính trị nước ta theo nghĩa hẹp. Đó là, hệ thống chính trị chỉ bao gồm: các tổ
chức chính trị các cấp, các tổ chức chính quyền các cấp và các tổ chức chính
trị - xã hội các cấp.
 Các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị cơ sở nước ta hiện nay
Xuất phát từ quan điểm về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ

sở nêu trên, hệ thớng chính trị cơ sở nước ta được cấu thành bởi các thành tố
như sau: các tổ chức chính trị cơ sở (xã, phường, thị trấn), các thiết chế chính
quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn), các tổ chức chính trị - xã hội cơ sở (xã,
phường, thị trấn).
Cụ thể hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta bao gồm: các tổ chức cơ sở
Đảng (Đảng bộ cấp xã, phường, thị trấn…); Chính quyền cơ sở và các tổ chức
chính trị - xã hội cơ sở như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp cơ sở, Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam cấp cơ sở, Hội Nông dân Việt Nam cấp cơ sở, Hội Cựu chiến binh Việt

15


Nam cấp cơ sở và tổ chức Công đoàn cơ sở. Ngoài ra còn có các tổ chức xã
hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm
bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Đặc điểm, vị trí, vai trị của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta
hiện nay
1.2.1. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
Đánh giá về đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở nước ta, chúng cần
thấy được những điểm đặc thù với hệ thống chính trị của các nước và đặc thù
của hệ thống chính trị cơ sở với các cấp khác thuộc hệ thống chính trị (như:
hệ thống chính trị ở trung ương, cấp tỉnh, huyện).
Trước tiên, tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị nước ta nói
chung và hệ thống chính trị cơ sở nước ta nói riêng trong sự so sánh với hệ
thống chính trị cơ sở của các nước. Đặc điểm này xuất phát từ việc chúng ta
thừa nhận một đảng chính trị duy nhất của Đảng Cợng sản Việt Nam[39, Điều
4] do đó, hệ thống chính trị nước ta nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói

riêng đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối đa số các
nước trên thế giới hệ thống chính trị của họ là đa ngun thì hệ thống chính trị
cơ sở của họ ln phải chịu sự chi phối bởi từ hai hay nhiều đảng chính trị
trở lên vì hệ thống chính trị cơ sở chính là nền tảng cấu thành nên hệ thống
chính trị của mỗi quốc gia.
Tính thống nhất cao trong hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở
xuất phát từ tính nhất nguyên của hệ thống chính trị nên hệ thống chính trị cơ
sở nước ta có tính thống nhất cao. Thực tế này cũng xuất phát bởi đặc điểm là
tất cả các tổ chức chính trị - xã hội nước ta đều do Đảng Cộng sản Việt Nam
tổ chức thành lập dẫn đến hệ thống chính trị nước ta nói chung và hệ thống

16


chính trị cơ sở nước ta nói riêng có tính thống nhất rất cao dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Đặc điểm thứ ba, có sự phân định lớn về vai trị của các tổ chức chính
trị - xã hội với các tổ chức xã hội khác (đề cao vai trò của các tổ chức chính
trị - xã hội) trong hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói
riêng[39, Điều 9]. Trên thực tế nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội là một
bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống
chính trị cơ sở nói riêng điều này được hiện thực hóa bằng các quy định của
Hiến pháp và pháp luật nhưng đối với các tổ chức xã hội khác lại khơng có
được các vị trí quan trọng như vậy.
Ngoài những khác biệt của hệ thống chính trị cơ sở nước ta với nhiều
nước trên thế giới như trên, đối với cùng hệ thống chính trị nước ta, hệ thống
chính trị cơ sở cũng có những đặc điểm riêng với các cấp khác trong hệ thống
chính trị (trung ương, cấp tỉnh, huyện) điều đó thể hiện ở một số nội dung sau:
- Thứ nhất: Là cấp thực hiện các hoạt động chính trị và quản lý nhà
nước bằng thiết chế phi quan phương nhiều nhất và hiệu quả nhất so các cấp

khác (trung ương, cấp tỉnh, huyện) trong hệ thống chính trị. Cụ thể, với truyền
thống văn hóa nước ta thiên về giải quyết các cơng việc bằng tình cảm (trăm
cái lý khơng bằng tý cái tình) nên các công việc ở cơ sở thường được quan
tâm giải quyết dựa trên quan hệ tình cảm hết sức hiệu quả. Trong đó mỗi tổ
chức đồn thể trong hệ thống chính trị với chức năng, vai trị của mình ln
có những cách thức tiếp cận, giải quyết các cơng việc ở cộng đồng địa
phương một cách hữu hiệu mà không cần sử dụng nhiều đến các thiết chế
quan phương. Đối với các vụ việc quá phức tạp mới phải sử dụng các thiết
chế quan phương hoặc chuyển lên các cấp trên, chính vì vậy đây cũng là kênh
quan trọng kết nối đoàn kết cộng đồng cũng như giảm tải các công việc quản
lý nhà nước đối với cấp trên. Việc làm tốt vai trị này thúc đẩy đồn kết cộng

17


đồng, giảm thiểu các xung đột xã hội cũng như góp phần quan trọng trong bảo
đảm an ninh, trật tự xã hội.
- Thứ hai: Là nơi trực tiếp triển khai và đánh giá tính hiệu quả của các
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Do đây
là cấp thấp nhất nên các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước muốn được triển khai và thực thi đều phải triển khai ở cấp
này. Và thơng qua hệ thống chính trị cơ sở Đảng, nhà nước có thể kịp thời
điều chỉnh các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cho phù hợp. Đây
là cấp gần nhất với thực tiễn và trực tiếp nhất với cuộc sống của dân nên hiểu
biết rõ nhất nhu cầu và những bức xúc mà cuộc sống của dân đang đặt ra,
hiểu rõ những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, hệ thống chính trị
cơ sở vừa là cấp tổ chức triển khai, thực hiện, cũng đồng thời là nơi đánh giá
về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước có đi
vào cuộc sống hay khơng để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân.

- Thứ ba: Hệ thớng chính trị cơ sở là cấp có bộ máy đơn giản nhất, có
đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít chuyên nghiệp nhất. Đặc điểm xuất phát từ
thực tiễn, trong hệ thống chính trị cơ sở nhiều vị trí khơng được xem là là
cơng chức nhà nước. Các vị trí là cơng chức phần nhiều thuộc biên chế của
chính quyền cơ sở, đối với các đồn thể chính trị - xã hội đa số kiêm nhiệm
hoặc chuyên trách. Vì vậy ở đây khơng thu hút được người có trình độ chun
mơn cao, phần lớn cán bộ đều trưởng thành từ thực tiễn nên chưa được đào
tạo bài bản, hơn nữa tâm lý ngại học tập do thu nhập không đáp ứng, công
việc không ổn định.
- Thứ tư: đây là đội ngũ có tính thực tiễn cao, sát dân vì hệ thớng chính
trị cơ sở là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng,
những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống. Muốn tập hợp được nhân dân tham

18


gia vào các phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phát triển
kinh tế làm nhiều việc tốt ích nuớc, lợi nhà thì đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cơ sở phải là những người có tính thực tiễn cao và sát dân chứ không
thể quan liêu và thiếu thực tiễn.
- Thứ năm: là cấp mà cộng đồng dân cư bị chi phối mạnh nhất bởi
những yếu tố văn hóa bản địa như làng, xã, dịng tộc huyết thống, dịng họ,
văn hóa địa phương (làng, xã, ấp, thơn). Do đó, hệ thống chính trị cơ sở, đặc
biệt ở nơng thơn nơi ít có sự giao lưu, du nhập các giá trị văn hóa của địa
phương khác sẽ chịu nhiều tác động đối với tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở. Vì vậy, trong quan hệ với nhân dân, các chủ thể hoạt
động trong hệ thống chính trị cơ sở dễ bị chi phối, ràng buộc bởi những yếu
tố mang tính cộng đồng lãnh thổ trên. Các yếu tố này tác động, thậm chí là chi
phối hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Điều đó cho thấy rằng,
hệ thống chính trị cơ sở khơng chỉ được vận hành trong phạm vi các thiết chế

chính thức như các quy định của pháp luật mà còn bị chi phối bởi những thiết
chế phi chính thức (phi quan phương) nơi hệ thống chính trị cơ sở tồn tại như
những quy định, hương uớc, truyền thống...
1.2.2. Vị trí của hệ thống chính trị cơ sở nước ta
Theo quan điểm của các nhà khoa học hiện nay thì cơ sở vừa là cấp
cuối cùng trong quản lý xét theo cấp độ của hệ thống chính trị, nhưng nó là
cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của tồn
bộ hệ thống chính trị của nước ta. Vì cơ sở là nơi trực tiếp nhất tiếp xúc với
nhân dân, tiếp xúc với mọi hoạt động của nhân dân trong đời sống thường
nhật và là nơi chính quyền gần dân nhất. Vì vậy, đây là nơi trực tiếp tổ chức
và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Mọi đường lối, chủ trương có được thực hiện tốt hay khơng phụ thuộc
vào chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, mà nhất là phụ thuộc

19


vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ đảng
viên trong các tổ chức đảng, chính quyền và các đồn thể nhân dân ở cơ sở.
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở có ảnh hưởng
rất lớn đến tình cảm, thái độ, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước và hệ thống chính trị. Những phản
ứng bất bình của người dân, tình trạng khiếu kiện kéo dài, đông nguời vượt
cấp trong thời gian gần đây ở một số địa phương gây nên những điểm nóng
chính trị phức tạp và các điểm nóng này nếu khơng xử lý tốt sẽ có sức lan tỏa
xấu làm mất ổn định chính trị và có thể dẫn đến mất chế độ.
Ởn định chính trị và làm lành mạnh xã hội bắt đầu từ sự ổn định và
lành mạnh ở cơ sở kèm theo đó phải là một hệ thống chính trị cơ sở được lịng
dân. Vì cơ sở là nền tảng của chế độ, nếu cơ sở suy yếu, rệu rã là khởi đầu cho
những suy yếu rệu rã của toàn bộ hệ thống chính trị. Việc chăm lo xây dựng

hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh tạo tiền đề, nền móng cho cả hệ thống
chính trị. Để làm được điều đó chúng ta phải quan tâm tới việc xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở thật sự là hệ thống chính trị của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Chúng ta cũng phải
qn triệt, nếu có dân thì có tất cả, mất dân thì mất tất cả, chân lý này không
mới và đã được minh chứng từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Thậm chí quan điểm này trong lịch sử nước ta này đã được đúc kết và
phát triển cho đến ngày nay. Cụ thể như quan điểm: “Khoan, thư sức
dân”[13], đến tư tưởng: "Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là
dân"[52], hay quan điểm: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong"[18]. Khẳng định vị trí, vai trị của cơ sở cũng chính là
khẳng định nguyên lý về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong
hoạt động sáng tạo lịch sử.

20


×