Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.25 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LÊ VÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG
KÝ DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ HỒNG ANH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên thực hiện

Hoàng Thị Lê Vân


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP ............................................... 6
1.1. Khái niệm hoạt động đăng ký doanh nghiệp, quản lý nhà nước về hoạt
động đăng ký doanh nghiệp ................................................................................ 6
1.2. Nội dung, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp ..................................................................................................... 12
1.3. Các yếu tố bảo đảm và ảnh hưởng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp....................................................................................................... 22
1.4. Quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp của một số nước trên thế giới ...... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 34
2.1. Đặc điểm kinh tế- xã hội thành phố Hà Nội .............................................. 34
2.2. Hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Hà Nội ....................................................................................... 36
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................... 62
3.1. Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .............................................................. 62
3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội .......................................................................... 65
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp là một đơn vị cơ sở, tế bào của nền kinh tế mỗi quốc gia,

là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước. Muốn doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quản thì công tác quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định. Vì
vậy, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác quản lý doanh nghiệp,
đặc biệt là quản lý về hoạt động đăng ký doanh nghiệp;
Trong những năm qua, nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện
nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động đầu
tư phát triển doanh nghiệp, trong đó rất chú trọng trong việc nâng cao năng
lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Theo đó hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện, có tính
khả thi cao, điều chỉnh toàn diện hoạt động của doanh nghiệp.
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hóa của cả nước,
phát triển với nhịp độ tăng trưởng cao, đã và đang hội nhập với nền kinh tế
khu vực và quốc tế. Với xu thế đó, nhu cầu phát triển của cộng đồng doanh
nghiệp thủ đô, mong muốn nhanh chóng gia nhập thị trường là điều tất yếu
khách quan. Hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô Hà Nội có
số lượng rất lớn khoảng hơn 160.000 doanh nghiệp.
Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chấp hành tốt các quy
định của pháp luật về doanh nghiệp, tình hình phát triển kinh tế doanh nghiệp
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, có một số có ý kiến cho rằng hiện
nay quy định về công tác đăng ký doanh nghiệp còn chưa được tuyên truyền
phổ biến rộng rãi, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà
nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp đôi khi còn bị phiền
hà, sách nhiễu, công tác hỗ trợ doanh nghiệp chưa được quan tâm. Chính
những điều trên đã gây cản trở cho sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp
vào thành tựu phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội. Hiện nay, chính
1


quyền thành phố Hà Nội đang yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao
hiệu quả công tác cải cách hành chính, chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).

Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa của việc thực hiện đăng ký doanh
nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung và thành phố Hà
Nội nói riêng, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt
động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về doanh nghiệp, thực hiện đăng ký doanh nghiệp là vấn đề
xoay quanh quá trình hình thành và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nên
việc nghiên cứu vấn đề này vừa có ý nghĩa thiết thực lại mang tính thời sự.
Trong những năm qua việc nghiên cứu, tổng kết vấn đề pháp luật về doanh
nghiệp và đăng ký doanh nghiệp đã có một số tác giả tiến hành. Có thể kể đến
một số công trình có giá trị như:
- Phạm Thị Ngọc Anh, Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp tư
nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luật văn thạc sĩ luật học. Tác
giả có những đánh giá khái quát về công tác quản lý đối với doanh
nghiệp tư nhân về ba nội dung: hoạch định chiến lược và môi trường
lý; hỗ trợ chính sách đối với doanh nghiệp và công tác thanh tra
kiểm tra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Năm 2012, Đại học Đà
Nẵng;
- Lê Văn Hưng, cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật tổ chức,
hoạt động và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay, luật án tiến sĩ luật học. Tác giả đã nghiên cứu,
đánh giá nội dung, thực trạng của việc quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước, Năm 2003, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh
- Phạm Thu Hường, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng
2


ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn Thạc Sĩ;

Tác giả tiến hành khái quát chung về thủ tục hành chính và cải cách
thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh trên địa bàn Hà Nội,
Năm 2006, Khoa Luật -Đại học quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Việt Anh, hoàn thiện công tác đăng ký kinh doanh ở
Việt Nam đến năm 2020, Luận văn thạc sĩ luật học; Năm 2013, Đại
học kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội;
- Trần Thị Tố Uyên, pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
thực trạng và phương hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ Luật học.
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về đăng ký kinh doanh và pháp
luật về đăng ký kinh doanh, tác giả đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh; Năm 2005, Khoa Luật- Đại
học Quốc gia Hà Nội
Có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước về doanh nghiệp
nói chung và việc đăng ký doanh nghiệp nói riêng, nhưng mỗi công trình lại
đề cập đến những khía cạnh khác nhau, trên mỗi địa phương khác nhau nên
chúng mang những giá trị khác nhau. Đến nay, chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu trực tiếp vấn đề “Quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Mặc dù vậy, các công trình
khoa học đã được công bố là những tài liệu có giá trị tham khảo cho việc
nghiên cứu và viết luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
về hoạt động đăng ký doanh nghiệp;
Nghiên cứu, phân tích thực trạng thực thi pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Đề xuất giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
3



doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước
về hoạt động đăng ký doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quản lý nhà nước về hoạt
động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội để thấy được
những ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động đăng
ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm công tác quản lý nhà nước về
hoạt động đăng ký doanh nghiệp thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đăng
ký doanh nghiệp. Đối tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước về hoạt động
đăng ký doanh nghiệp
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý
nhà nước đối với quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến nay;
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; dựa trên đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới và xây dựng nền
hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, các tư tưởng, quản
điểm về luật học tiến bộ và hiện đại trên thế giới.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu hệ thống, phân tích và
tổng hợp, phương pháp khái quát hoá, phương pháp thống kê, so sánh, mô
tả… Trong đó, sử dụng nhiều là phương pháp phân tích và tổng hợp.

4



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận quản
lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp nói chung và đăng ký doanh
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, từ đó hoàn thiện hơn
cách thức tiếp cận vấn đề này, đồng thời giúp mọi người thấy được vai trò
quan trọng của việc quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp với
sự phát triển kinh tế của đất nước. Luận văn cũng đánh giá một cách toàn diện
thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp từ thực tiễn
thành phố Hà Nội và đưa ra được quan điểm, đề xuất được những giải pháp
thiết thực để bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp,
từ đó góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp trên cả nước và trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo luận văn được chia
thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về hoạt động đăng
ký doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt
động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm hoạt động đăng ký doanh nghiệp, quản lý nhà nước về
hoạt động đăng ký doanh nghiệp
1.1.1.Khái niệm hoạt động đăng ký doanh nghiệp
Để thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường, chủ thể phải tiến
hành hoạt động đăng ký doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
đăng ký doanh nghiệp là thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp, theo
đó có thể nhìn nhận dưới các góc độ sau:
Về phương diện kinh tế - xã hội: Đăng ký doanh nghiệp là thủ tục đầu
tiên của doanh nghiệp phải thực hiện để tham gia vào thị trường, trong hoạt
động đăng ký doanh nghiệp, việc thành lập doanh nghiệp và các lĩnh vực kinh
doanh của doanh nghiệp được thông tin rộng rãi, công khai trên thị trường,
bên ngoài xã hội nhằm thu hút sự chú ý của cộng đồng doanh nghiệp (các đối
tác tương lai) và cộng đồng xã hội (các bên có liên quan).
Về phương diện pháp lý: Đăng ký doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý
mang tính hành chính tư pháp để xác nhận địa vị pháp lý của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường. Theo đó nhà đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của mình và được Nhà nước thừa nhận
bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Nói cách khác đây là
thủ tục khai sinh cho doanh nghiệp và đưa doanh nghiệp đến với thương
trường một cách hợp pháp. Tùy theo luật pháp các quốc gia mà đăng ký
doanh nghiệp được giao cho cơ quan hành chính hay cơ quan tư pháp thực
hiện. Ở Việt Nam, đăng ký doanh nghiệp được giao cho cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền chuyên môn là Sở Kế hoạch và Đầu tư. Như vậy, đăng
ký doanh nghiệp được hiểu là hoạt động pháp lý bao gồm hành vi của cơ quan
6


nhà nước có thẩm quyền đăng ký doanh nghiệp và của chủ thể kinh doanh.
Theo đó, chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo
đúng quy định của pháp luật với những nội dung cụ thể, còn cơ quan nhà

nước có thẩm quyền tiến hành thực hiện thủ tục ghi tên vào sổ đăng ký doanh
nghiệp đồng thời cấp cho chủ thể đăng ký doanh nghiệp giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là bằng chứng
pháp lý quan trọng chứng minh chủ thể kinh doanh được tiến hành các hoạt
động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước công nhận và bảo hộ.Vì
vậy, tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp, doanh
nghiệp chưa thực sự có, song chi phí trong quá trình đăng ký doanh nghiệp
thành lập doanh nghiệp vẫn được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp và
được khấu trừ trong khi tính thuế.
Về phương diện quản lý nhà nước: Một trong những thủ tục hành chính
bắt buộc mà doanh nghiệp và thương nhân phải hoàn tất trước yêu cầu của
nhà nước, nhằm quản lý các công việc kinh doanh. Bất cứ hình thức kinh
doanh nào chỉ được xem là hợp pháp trong nước nếu có giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp. Nói cách khác, đăng ký doanh nghiệp được coi là một
trong những biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Đăng ký doanh nghiệp là
hoạt động quản lý đầu tiên của nhà nước đối với doanh nghiệp, nó sẽ tạo điều
kiện để Nhà nước có thể thực hiện các hoạt động quản lý tiếp theo của mình
khi doanh nghiệp chính thức đi vào sản xuất, kinh doanh.
Về phương diện chính trị pháp lý: Đăng ký doanh nghiệp được hiểu là
quyền tự do kinh doanh, một bộ phận của quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Tuy nhiên, quyền này phải được hiểu là tự do trong khuôn khổ, dân chủ tập
trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền đăng ký doanh nghiệp cũng đồng
thời là nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do kinh doanh của công dân có nội
dung bao gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh và
tự do đăng ký loại hình doanh nghiệp. Bất cứ tổ chức nào có đủ điều kiện để
7


kinh doanh đều có thể đăng ký với nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh mà không ai có quyền ngăn cản trái phép. Theo góc nhìn của pháp

luật doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp được hiểu là việc ghi nhận về mặt
pháp lý cho sự ra đời và cập nhập những thay đổi trong suốt quá trình tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về quản lý
Thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau tuỳ theo góc độ
tiếp cận1. Theo nghĩa chung, quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể
vào các đối tượng cần quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra.
Theo điều khiển học: quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá
trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho
hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt
được những mục đích đã định trước.
Các Mác đã viết: “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản
chất xã hội của quá trình lao động” và để nhấn mạnh nội dung này, ông
viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng
chung... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”

1

Theo “Đại Từ điển tiếng Việt” thì quản lý được hiểu: “1. Tổ chức, điều khiển hoạt động

của một số đơn vị, một cơ quan”, “2. Trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì”. (15)
Còn theo “Từ điển bách khoa Việt Nam 3” thì quản lý được hiểu là “Chức năng và hoạt
động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội), bảo đảm giữ
gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương
trình và mục tiêu của hệ thống đó” (12)


8


Quan điểm trên của Mác có thể áp dụng cho mọi hoạt động chung của
con người, ở đâu có sự hợp tác thì ở đó cần có quản lý, quản lý tồn tại trong mọi
quan hệ xã hội, trong bất cứ lĩnh vực nào và ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, vì
hoạt động chung của nhiều người đòi hỏi phải được liên kết lại dưới các hình
thức. Một trong những hình thức liên kết đó là tổ chức, tổ chức là yếu tố quyết
định đem lại hiệu quả cho quản lý, không có tổ chức thì không có quản lý. Mặt
khác, quản lý để duy trì tính tổ chức, mối quan hệ giữa con người với con người
trong xã hội, nhằm đạt được mục tiêu nhất định.
Lênin đã viết: “Muốn quản lý tốt mà chỉ biết thuyết phục không thôi thì
chưa đủ, mà cần phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa”. Để điều khiển, phối
hợp hoạt động của những con người thì cần có những phương tiện buộc con
người phải hành động theo những nguyên tắc nhất định, phải phục tùng những
mệnh lệnh nhất định. Cơ sở của sự phục tùng là uy tín hoặc uy quyền. Nếu uy
tín đóng vai trò là cơ sở quan trọng của sự phục tùng thì uy quyền vẫn là cơ
sở chủ yếu. Uy Quyền là phương tiện rất quan trọng để chủ thể quản lý buộc
đối tượng quản lý phải phục tùng, là yếu tố không thể thiếu của quản lý.
Từ những phân tích nêu trên và dựa trên những tài liệu đã được công
bố, có thể hiểu quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào đối
tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện, cơ chế khác nhau nhằm
đạt được mục tiêu quản lý đã đặt ra, phù hợp với quy luật vận động khách
quan của xã hội
1.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là một nội dung trong quản lý xã hội, là quản lý xã
hội mang quyền lực nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên lĩnh
vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và
đối ngoại của nhà nước.


9


Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động được thực hiện chủ yếu
bởi các cơ quan hành chính nhà nước nhằm bảo đảm chấp hành pháp luật và
các quyết định của các cơ quan quyền lực nhà nước để tổ chức, quản lý mọi
mặt đời sống xã hội, nói cách khác, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành,
điều hành của nhà nước.
Từ khi xuất hiện nhà nước thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà
nước đảm nhiệm, tức là nhà nước đứng ra quản lý những quan hệ xã hội cơ bản
nhất, bao trùm nhất của đời sống xã hội, đó chính là quản lý nhà nước. Cùng với
chủ thể quản lý đặc biệt là nhà nước, tham gia vào quản lý xã hội còn có một số
chủ thể khác như các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo..., tuy nhiên, đối tượng và
phạm vi điều chỉnh nhỏ hẹp hơn. Vì thế có thể coi quản lý xã hội là một khái niệm
bao hàm quản lý nhà nước và quản lý phần công việc còn lại của xã hội.
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội do nhà nước thực hiện bằng bộ máy
nhà nước, gắn với quyền lực nhà nước. Nội hàm của quản lý nhà nước thay
đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia qua các giai đoạn lịch sử cụ thể. Quản lý nhà nước xét về mặt chức
năng bao gồm hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thông qua các hoạt động đặc thù này mà quản lý nhà nước có những
điểm khác biệt so với quản lý xã hội khác, cụ thể: quản lý nhà nước chỉ
xuất hiện khi nhà nước xuất hiện. Khi nhà nước xuất hiện thì phần quan
trọng các công việc của xã hội do nhà nước quản lý; Pháp luật là phương
tiện chủ yếu để quản lý nhà nước. Bằng pháp luật, nhà nước có thể trao
quyền cho các tổ chức hoặc các cá nhân để họ thay mặt nhà nước tiến hành
hoạt động quản lý; Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hay cá
nhân mang quyền lực nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản
lý. Chủ thể quản lý nhà nước bao gồm: nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ

chức và cá nhân được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà
nước hay nói cách khác, thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp, tư
10


pháp. Khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước, trật tự
này do pháp luật quy định.
Từ những điểm khác biệt đã nêu trên, có thể hiểu quản lý nhà nước là
sự tác động có mục đích, chủ yếu bằng pháp luật, của các tổ chức, cá nhân
mang quyền lực nhà nước lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức
năng đối nội, đối ngoại của nhà nước.
1.2.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
Nói một cách khái quát, quản lý nhà nước là sự tác động của Nhà
nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc gia nói chung, doanh
nghiệp nói riêng bằng hệ thống luật pháp, chính sách tổ chức, các chế tài về
kinh tế, tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý
nhà nước đối với nền kinh tế, nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn
định tình hình chính trị - xã hội của đất nước. Điều đó nói lên tầm quan
trọng đặc biệt của hoạt động quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói
chung và doanh nghiệp nói riêng.
Có thể hiểu quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp là sự
tác động có chủ đích, có tổ chức và bằng pháp quyền của nhà nước và thông
qua một hệ thống các chính sách kinh tế với các công cụ kinh tế lên hệ thống
các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc gia nhằm sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể hơn, quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp là cả
một quá trình với nhiều hoạt động như ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về đăng ký doanh nghiệp; chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp

luật về đăng ký doanh nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức
thực hiện đăng ký doanh nghiệp; quản lý cơ sở dữ liệu về thông tin doanh
nghiệp quốc gia; bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc; chỉ đạo,
11


hướng dẫn nghiệp vụ về đăng ký doanh nghiệp; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm và giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện
pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; ban hành và quản lý thống nhất
các biểu mẫu, giấy tờ về đăng ký doanh nghiệp; triển khai việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và quản lý doanh
nghiệp; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư và doanh nghiệp.
1.2. Nội dung, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
1.2.1.1. Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp
luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp và văn bản pháp luật có liên quan
Để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước, các chủ thể
quản lý sử dụng nhiều hình thức hoạt động khác nhau, nhưng hình thức cơ
bản và quan trọng nhất là hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật
về hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Đây là hoạt động quản lý cơ bản tạo ra
công cụ quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Hoạt động ban
hành văn bản pháp luật chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý, bởi vì
hầu hết mọi hình thức hoạt động quản lý khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp
phục vụ cho hoạt động xây dựng và ban hành các loại văn bản pháp luật, hoặc
là để tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó. Văn bản pháp luật là phương
tiện không thể thiếu và chủ yếu mà các chủ thể quản lý sử dụng để thực hiện
hầu hết các nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước.
Sau khi ban hành, phổ biến các văn bản pháp luật về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp, thì các hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về đăng ký

doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công
chức thực hiện công tác đăng ký doanh nghiệp. Hướng dẫn các cơ quan quản
lý nhà nước thực thi việc quản lý về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; bồi dưỡng

12


kỹ năng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện công tác đăng ký doanh
nghiệp;
Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về hoạt động đăng ký doanh
nghiệp là quá trình hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể
tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải pháp luật đi vào cuộc
sống. Trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp,
phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là
một công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp,
các ngành. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò này bắt nguồn từ vai trò và giá trị
xã hội của pháp luật. Một trong những vai trò cơ bản của pháp luật trong đời
sống nhà nước, đời sống xã hội là: pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và
tăng cường quyền lực nhà nước.
Hiện nay, hệ thống văn bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với
hoạt động của doanh nghiệp bao gồm hai khối chính: thứ nhất, đó là các văn
bản điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp đến những nội dung quản lý nhà nước
có sự phân biệt nhất định theo loại hình, nguồn vốn sở hữu hoặc lĩnh vực hoạt
động của doanh nghiệp, bao gồm một số văn bản quan trọng như: Luật Doanh
nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014. Thứ hai, đó là các văn bản điều
chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp đến những nội dung quản lý nhà nước được áp
dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Đây là hệ thống văn bản
pháp lý có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rất rộng, có tác dụng tạo ra một
môi trường kinh doanh chung cho mọi hình thức doanh nghiệp, bao gồm:

- Các quy định về chế độ tài chính, kế toán đối với doanh nghiệp như:
Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
năm 2008, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, Luật Kế toán năm 2015; Các
quy định về đấu thầu, canh tranh, phá sản, bảo hộ nhãn hiệu, các thị trường
đầu vào như: Luật Phá sản năm 2014, Luật Cạnh tranh năm 2005, Luật
13


Thương mại năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật Đấu thầu năm
2013, Luật Đất đai năm 2013;
- Các quy định về điều kiện kinh doanh (điều kiện có giấy phép hoặc
không cần giấy phép): Đây là hệ thống các quy định liên tục được ban hành
mới, hoặc sửa đổi, bổ sung và nằm trong hầu hết các văn bản pháp luật có liên
quan đến hoạt động kinh doanh. Đến nay, chỉ tính riêng hệ thống quy định về
ngành, nghề kinh doanh phải có giấy phép bao gồm khoảng hơn 40 Luật,
Pháp lệnh và khoảng 150 Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
- Các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính đối
với doanh nghiệp như: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
Như vậy, có thể thấy rằng, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý nhà
nước đối với hoạt động của doanh nghiệp đã được xây dựng tương đối hoàn
chỉnh và đồng bộ, nhất là giai đoạn từ năm 2014 đến nay. Bên cạnh đó, chất
lượng của hệ thống văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp cũng được nâng cao, tiếp cận với pháp luật và thông lệ quốc tế, đáp
ứng từng bước của quá trình hội nhập quốc tế.
1.2.1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật
Đăng ký thành lập doanh nghiệp mới: bao gồm các loại hình doanh
nghiệp doanh nghiệp tư nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công ty cổ phần và công

ty hợp danh;
Đăng ký doanh nghiệp đối với các công ty được thành lập trên cơ sở
chia, tách, hợp nhất và đối với công ty nhận sáp nhập;
Đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
và ngược lại; doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn; công
14


ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần và ngược lại;
Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp:
Thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp gồm có: thay đổi tên doanh
nghiệp; thay đổi địa chỉ trụ sở chính; thay đổi vốn điều lệ /vốn đầu tư, cơ cấu
tỉ lệ góp vốn; thay đổi người đại diện theo ủy quyền/thành viên/cổ đông công
ty; thay đổi người đại diện theo pháp luật; thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân
/chủ sở hữu công ty; thay đổi thông tin đăng ký thuế;
Đăng ký bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký doanh nghiệp và đăng ký
thuế;
Đăng ký thành lập mới và đăng ký thay đổi nội dung hoạt động các
đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm
kinh doanh);
Đăng ký tạm ngừng kinh doanh, hoạt động trở lại của doanh nghiệp và
các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp;
Đăng ký giải thể doanh nghiệp và chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp
do bị chia/bị hợp nhất/bị sáp nhập.
Các trường hợp đăng ký chấm dứt hoạt động đơn vị phụ thuộc của
doanh nghiệp;
Đăng ký cấp đổi sang giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cấp lại
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi
nhánh/văn phòng đại diện;

Đăng ký cấp chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay thế nội dung đăng
ký doanh nghiệp trong Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư
Thực hiện các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp, doanh nhân trong
quá trình đăng ký doanh nghiệp để thực hiện nội dung quản lý này, Nhà nước
phải tiến hành một số công vụ như:

15


- Tạo nguồn vốn ưu đãi đầu tư cho các chương trình kinh tế trọng điểm
của quốc gia, cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành, lĩnh
vực được Nhà nước khuyến khích.
- Xây dựng và tiến hành bảo hiểm sản xuất kinh doanh cho những
doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo định hướng
của nhà nước và thực hiện các quy định của bảo hiểm.
- Thực hiện miễn giảm thuế cho những doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh theo định hướng ưu đãi của Nhà nước.
- Chuyển giao đến các nhà kinh doanh những thông tin chính trị, thời
sự quan trọng có giá trị trong sản xuất kinh doanh để họ biết và tham khảo.
- Thực hiện chương trình bồi dưỡng kiến thức quản trị kinh doanh, giúp
các doanh nghiệp hiện đại hoá đội ngũ nhân viên nghiệp vụ quản trị doanh
nghiệp.
- Mở ra các trung tâm thông tin, các triển lãm thành tựu kinh tế kỹ thuật
để tạo môi trường cho các doanh nghiệp giao tiếp và liên kết với nhau trong
sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện các hỗ trợ pháp lý, đặc biệt là hỗ trợ tư pháp quốc tế đối
với các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế.
1.2.1.3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra
Thanh tra và kiểm tra là những hoạt động thiết yếu, thường xuyên của
hoạt động quản lý Nhà nước, ở đâu có quản lý thì ở đó có thanh tra, kiểm tra.

Thông qua hoạt động thanh tra trong việc đăng ký doanh nghiệp, cơ quan
quản lý nhà nước có thể phát hiện những sai phạm trong quá trình thực hiện
quy trình đăng ký doanh nghiệp góp phần bảo vệ lợi ích của quốc gia, quyền
và nghĩa vụ hợp pháp của chủ thể kinh doanh. Chính vì vậy, khi bàn về quản
lý nhà nước, Lê Nin đã nói: "Điều kiện tất yếu để công tác quản lý được chính
xác là việc kiểm tra tình hình chấp hành chỉ thị và nghị quyết. Kiểm tra
thường xuyên việc chấp hành là một trong những ưu điểm cơ bản nhất, tất yếu
16


nhất của phương thức quản lý...". Hoạt động quản lý nhà nước và trong quá
trình thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự
kiểm tra, thanh tra. Một cơ quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực
hiện quyền lực nhà nước mà không được kiểm tra thì dễ xảy ra lộng quyền,
cửa quyền, lạm quyền, vì mục đích động cơ cá nhân, cục bộ ngành, địa
phương. Tùy theo bản chất, đối tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã
dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh
tra, kiểm tra. Nếu không thực hiện tốt loại hoạt động này thì tất yếu sẽ ảnh
hưởng xấu đến việc thực hiện chức năng chính.
Đây là một trong những nội dung quan trọng đã được cơ quản quản lý nhà
nước quan tâm chỉ đạo sát sao, bằng văn bản cụ thể để triển khai tổ chức thực
hiện việc thanh tra, kiểm tra hằng năm đối với các đơn vị thực hiện hoạt động
đăng ký doanh nghiệp kịp thời phát hiện những thiếu sót trong quản lý nhà nước
về hoạt động đăng ký doanh nghiệp nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của tập
thể, cá nhân người đứng đầu cơ quan thực hiện đăng ký doanh nghiệp.
1.2.2.4. Hoạt động xử lý vi phạm
Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm là hoạt động cơ bản, tiếp
theo bảo đảm thực thi chính sách pháp luật, góp phần thiết lập trật tự quản lý
nhà nước trong việc thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp theo ý chí của
chủ thể quản lý. Việc thực hiện theo dõi, kiểm tra, thanh tra việc hạch sách,

nhũng nhiễu doanh nghiệp trong việc thực hiện đăng ký doanh nghiệp, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
sẽ do cơ quan quản lý nhà nước về công tác doanh nghiệp thực hiện theo quy
định của pháp luật chuyên ngành về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm
1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
* Đặc điểm về chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động
đăng ký doanh nghiệp
17


Chủ thể quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp được
thực hiện bởi một số chủ thể nhất định. Những chủ thể đó là:
- Chính phủ;
- Bộ Kế hoạch và đầu tư;
- Sở Kế hoạch và đầu tư
- Ủy ban nhân dân cấp huyện (Phòng kinh tế tài chính)
- Tổng cục thuế
- Chi cục thuế
Sở kế hoạch và đầu tư là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp bằng pháp
luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp thông qua việc thi hành công vụ của
các cán bộ công chức thuộc Sở kế hoạch và đầu tư, cụ thể là tiến hành các
hoạt động đăng ký và quản lý hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp.
Đối với việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp của Sở kế hoạch và Đầu tư thì còn một loại chủ thể cùng tham
gia và góp phần quyết định đến việc thực hiện pháp luật về đăng ký doanh
nghiêp, đó là: cơ quan quản lý thuế (để cấp mã số thuế đồng thời là mã số
doanh nghiệp) đặc biệt là các cá nhân, tổ chức kinh doanh là chủ thể phổ biến
trong hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về đăng

ký doanh nghiệp nói riêng. Cá nhân thực hiện pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp thông qua việc đăng ký các sự kiện như thành lập mới doanh nghiệp,
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, chia, tách, sáp nhập doanh nghiệp ...
Nếu như công dân có ý thức tốt trong thực hiện pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp thì việc thực hiện pháp luật của Sở kế hoạch và đầu tư sẽ thuận lợi,
đúng pháp luật và ngược lại, những sai phạm của công dân sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến hiệu quả thực hiện pháp luật của Sở Kế hoạch và đầu tư, thậm chí dẫn
đến những sai sót trong thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp tại
phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở Kế hoạch và Đầu tư.
18


* Đặc điểm về phạm vi thực hiện
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về đăng ký doanh nghiệp chỉ không
chỉ có phạm vi trong một tỉnh, một thành phố nhất định. Các doanh nghiệp có
thể mở thêm các chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc góp vốn thành lập một
doanh nghiệp khác tại tỉnh, thành phố khác trên mọi miền đất nước, nhất là
trong điều kiện hiện nay, khi mà nhu cầu giao lưu kinh tế, xã hội đã khiến các
quan hệ pháp luật về đăng ký doanh nghiệp đi khỏi phạm vi hành chính của
một một tỉnh. Bên cạnh đó còn có sự hoạt động của các chi nhánh văn phòng
địa diện của nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, việc thực hiện hoạt động đăng
ký doanh nghiệp của cá nhân, tổ chức kinh doanh không chỉ liên quan đến sự
quản lý cơ quan đăng ký doanh nghiệp cấp tỉnh nơi đặt địa chỉ trụ sở chính
mà còn liên quan đến nhiều địa phương khác trên địa bàn cả nước.
* Đặc điểm mục đích thực hiện
Việc thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp mang tính kinh tế đối
với người kinh doanh,tuy nhiên các chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật
về đăng ký doanh nghiệp không nhằm mục đích lợi nhuận hay yếu tố vật chất
mà mục đích đảm bảo hoạt động kinh doanh được đúng pháp luật duy trì trật
tự xã hội, quyền lợi người tiêu dùng để bảo vệ các quyền tự do kinh doanh

những thứ mà pháp luật không cấm của công dân. Mục đích thực hiện pháp
luật về đăng ký doanh nghiệp là nhằm đáp ứng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của công dân và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Sở kế hoạch và đầu tư.
Ngoài những đặc điểm trên, quản lý nhà nước bằng pháp luật về đăng
ký doanh doanh nghiệp có những đặc điểm khác. 2
2

Thứ nhất, đăng ký doanh nghiệp: là một trong những dịch vụ hành chính công do cơ quan

quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện. Thứ hai, theo quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014
đăng ký doanh nghiệp cũng là thủ tục đầu tiên để tiến hành hoạt động kinh doanh dưới hình thức
doanh nghiệp. Thứ ba, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đăng ký gia nhập thị trường đều phải thực
hiện theo một khung pháp lý chung gồm các thủ tục hành chính sau: đăng ký doanh nghiệp (bao

19


1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
Đăng ký là hoạt động đầu tiên của doanh nghiệp được coi như thủ tục
khai sinh ra doanh nghiệp. Nói cách khác, thông qua việc đăng ký doanh
nghiệp thì tư cách của doanh nghiệp mới được thừa nhận và mới làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp.
Như vậy, việc quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp có
ý nghĩa to lớn không những với cơ quan nhà nước mà còn có ý nghĩa quan
trọng đối với các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
* Đối với nhà nước:
Việc quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp là thể hiện sự
bảo hộ của Nhà nước bằng pháp luật và quyền lực nhà nước đối với các chủ thể
hoạt động kinh doanh nói chung và các chủ thể doanh nghiệp nói riêng. Đồng
thời nhà nước thực hiện chức năng quản lý cơ cấu của các thành phần kinh tế xã hội, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo hướng đã đặt ra. Đăng ký doanh

nghiệp giúp các cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được các yếu tố mới trong
kinh doanh để từ đó có những chủ trương, biện pháp khuyến khích hoặc hạn
chế phù hợp, giúp Nhà nước can thiệp một cách kịp thời và có mức độ vào nền
kinh tế, đảm bảo có được một nền kinh tế hiện đại nhưng không xa rời chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước
Đăng ký doanh nghiệp là một trong những công cụ để nhà nước thực
hiện chức năng quản lý đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là sự ghi nhận về mặt pháp lý của Nhà
nước đối với sự ra đời và tư cách chủ thể của một chủ thể kinh doanh. Theo
khoản 2 Điều 47, khoản 2 Điều 73, khoản 2 Điều 110, khoản 2 điều 172 Luật
gồm mã số doanh nghiệp và mã số thuế; khắc dấu và công bố việc sự dụng mẫu con dấu trên cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp).

20


doanh nghiệp năm 2014, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Khoản
2, Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm nhà nước cũng quy định công ty nhà nước
có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp.
* Đối với chủ thể đăng ký kinh doanh:
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh
nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lý, có quyền tiến hành các hoạt động kinh
doanh như đã đăng ký dưới sự bảo hộ của pháp luật (tức là tư cách pháp nhân
của doanh nghiệp được xác lập). Thành lập doanh nghiệp cũng chính là cơ sở
chắc chắn nhất để doanh nghiệp yêu cầu các cơ quan nhà nước bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cũng như đảm bảo tính pháp lý đối với các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp đảm bảo quyền tự

do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của các chủ thể tham gia (Theo
điều 7- Luật doanh nghiệp năm 2014) doanh nghiệp có quyền: “Tự do kinh
doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm.”
* Về mặt xã hội: Đăng ký doanh nghiệp nhằm công khai hóa các hoạt
động của doanh nghiệp trước công chúng. Xã hội có được các thông tin và
các đảm bảo về tư cách pháp lý của doanh nghiệp và nó tạo niềm tin ở đối tác
khi thực hiện giao dịch. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để một doanh
nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
* Về mặt kinh tế: Khi bước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp với một tư cách là một thành viên trong các cơ cấu của các
thành phần kinh tế, các hoạt động của doanh nghiệp còn góp phần vào sự phát
triển của xã hội. Đăng ký doanh nghiệp có vai trò trong việc thúc đẩy sự gia
nhập thị trường của doanh nghiệp, từ đó xác định được mức độ tăng trưởng
của nền kinh tế.
21


Như vậy, việc đăng ký doanh nghiệp có một vai trò vô cùng quan trọng
không chỉ với việc bảo đảm quyền lợi cho bản thân doanh nghiệp mà còn có ý
nghĩa đánh giá tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh của địa phương,
quốc gia, khả năng bảo đảm trật tự kinh doanh của Nhà nước và bảo vệ lợi ích
của các chủ thể kinh doanh trong xã hội. Chính vì lẽ đó, việc đăng ký doanh
nghiệp là một nhu cầu tất yếu, vừa là đòi hỏi mang tính nghĩa vụ đối với mỗi
doanh nghiệp khi gia nhập thị trường.
Đặc biệt, việc xây dựng được quy định quản lý nhà nước về hoạt động
đăng ký doanh nghiệp hiệu quả có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi Việt Nam
hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập nhiều diễn đàn, tổ
chức quốc tế có phạm vi hợp tác về kinh tế như: ASEAN, APEC…. Khi gia
nhập vào những sân chơi chung, chúng ta cần phải tuân thủ những quy tắc
chung và gánh chịu hậu quả pháp lý nếu vi phạm luật chơi. Việc có được hệ

thống những quy định quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp
hiệu quả giúp cho chúng ta được đánh giá cao trong khu vực và quốc tế và
được đối xử công bằng khi tham gia kinh tế quốc tế.
1.3. Các yếu tố bảo đảm và ảnh hưởng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký
doanh nghiệp
1.3.1. Yếu tố pháp lý
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước:
trong bất kỳ hoạt động quản lý nào thì đường lối, chủ trương, chính sách là
điều kiện quyết định, bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước. Khi chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật đồng bộ, hoàn thiện thì việc quản lý nhà
nước sẽ trôi chảy, phát huy hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển. Khi chủ
trương, chính sách, pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính đồng bộ sẽ
kìm hãm hiệu quả quản lý và quá trình phát triển.
Trong thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ ban hành nhiều văn bản,
chính sách quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội trong đó có lĩnh vực kế
22


×