Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Tác động của đô thị hoá đến kinh tế nông thôn hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.41 KB, 80 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
›››

LÊ THỊ TUYẾT

TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA
ĐẾN KINH TẾ NÔNG
THÔN
HÀ NỘI HIỆN NAY
BỘ QUỐC
PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
›››

LUẬN VĂN THẠC
SĨ KINH
TẾ CHÍNH TRỊ
LÊ THỊ
TUYẾT

T¸C ®éng cña ®« thÞ hãa
®Õn kinh tÕ n«ng th«n hµ néi hiÖn nay
HÀ NỘI - 2013
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60 31 01 02


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
›››



LÊ THỊ TUYẾT

TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA
ĐẾN KINH TẾ NÔNG THÔN HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS ĐỖ VĂN NHIỆM

HÀ NỘI - 2013


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Công nghiệp hóa, đô thị hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Giải phóng mặt bằng
Khoa học công nghệ
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Chủ nghĩa xã hội

CHỮ VIẾT TẮT
CNH, ĐTH
CNH, HĐH
GPMB
KHCN
KCN

KT - XH
CNXH

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang
3


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TÁC ĐỘNG
12

1.1.

CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN KINH TẾ NÔNG THÔN HÀ NỘI
Những vấn đề chung về tác động đô thị hóa đến kinh tế nông thôn
Hà Nội
Thực trạng tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội

12

1.2

và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TÁC
ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN KINH TẾ NÔNG

THÔN HÀ NỘI
Những quan điểm cơ bản
Những giải pháp chủ yếu

25

Chương 2

2.1.
2.2.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

54
54
63
88
90
95


DANH MỤC BẢNG BẢNG
Tên bảng
Bảng 1. Cơ cấu kinh tế ngành thành phố Hà Nội
Bảng 2: Giá trị sản xuất công nghiệp địa bàn Hà nội
Bảng 3: Báo cáo doanh thu thương nghiệp, dịch vụ khu vực ngoại thành
Bảng 4: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
Bảng 5: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
Bảng 6: Tình hình thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội


Trang
30
31
33
34
35
40


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đô thị hóa là quá trình tất yếu đối với các quốc gia chậm phát triển khi bước vào
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập. Đô thị hóa
có tác động tích cực, sâu sắc tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nói
chung, tới khu vực nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá
trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết như: việc làm cho nông dân mất
đất sản xuất; xây dựng cơ sở hạ tầng; an ninh xã hội... Nếu không có một chiến lược giải
pháp cụ thể, sẽ gặp phải nhiều vấn đề vướng mắc và lúng túng trong quá trình giải quyết,
đôi khi làm nảy sinh những vấn đề phức tạp.
Trong những năm qua, ngoại thành Hà Nội là một trong những nơi có tốc độ đô thị
hóa nhanh của Việt Nam. Quá trình đó đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là cư dân nông thôn. Cơ cấu kinh tế được dịch chuyển
theo hướng tích cực, ngày càng hợp lý; tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong tổng GDP, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh cho Hà
Nội. Tài nguyên thiên nhiên của thành phố, như: đất đai, sông, hồ, cây xanh, nguồn nước... từng
bước đưa vào khai thác và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa Hà Nội cũng
nảy sinh nhiều vấn đề, tác động tiêu cực như: sự biến động của dân số, lao động, việc làm nhất

là về cơ cấu dân số đang gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý. Sự chuyển dịch và sự mất
cân đối trong cơ cấu kinh tế ngành, vùng do phát triển theo chiều rộng, tính tự phát cao làm hạn
chế tốc độ tăng trưởng và sự phát triển bền vững của kinh tế Hà Nội. Hạ tầng kinh tế - xã hội đô
thị được xây dựng, phát triển thiếu đồng bộ, “mạnh ai, nấy làm”, gây cản trở phát triển kinh tế
và cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Đất đai được khai thác, sử dụng thiếu quy
hoạch, để hoang hóa, lãng phí; nhiều sông, hồ bị vùi lấp, lấn chiếm làm nhà ở, cây xanh bị chặt
phá, nguồn nước ngầm khai thác quá mức, thiếu quy hoạch gây ngập úng về mùa mưa, hạn hán
về mùa khô; môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng... Các khu đô thị mới phát triển mạnh ở ven
đô, thường là các dự án nhỏ lẻ, không đồng bộ, phần lớn các chủ đầu tư xây nhà để bán, xa nơi
làm việc, trường học, bệnh viện, chợ và các trung tâm giao tiếp nên dân cư vẫn đổ xô vào các
trung tâm cũ theo trục giao thông hướng tâm. Điều này đã tạo ra sự bất cập về giao thông và các
vấn đề kinh tế, xã hội khác, gây quá tải ở trung tâm khi dòng người nhập cư không chính thức ở
nông thôn ra thành phố càng nhiều.
Như vậy, vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội đã tác động không nhỏ tới mọi mặt kinh tế -


4

xã hội nhất là tới kinh tế kinh tế khu vực nông thôn. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu, giải đáp, nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho các cấp, các ngành, các lực lượng, cơ
quan chức năng thành phố Hà Nội phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực
của đô thị hóa đến nông thôn Hà Nội. Với lý do đó, vấn đề: “Tác động của đô thị hóa đến
kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay” được tác giả lựa chọn là đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay, ở nước ta vấn đề đô thị hóa đã có một số công trình, đề tài, sách, bài viết
trên các báo, tạp chí nghiên cứu, trong đó tiêu biểu là: “Đô thị hóa và chính sách phát triển
đô thị trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam”, PGS, TS Trần Ngọc Hiên và PGS, TS Trần
Văn Chử đồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, ấn hành năm 1998; sách “Đô thị
hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới 1979- 1989 và 1989- 1999” của tác
giả Lê Thanh Sang, Viện khoa học nông thôn Nam Bộ thuộc Viện khoa học xã hội Việt

Nam chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 2008; thông tin phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy “Đô thị hóa ở một số nước châu Á: vấn đề và giải pháp” của Viện thông tin
khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ấn hành năm 2006; thông tin chuyên
đề “Những tác động về văn hóa và xã hội của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và
Ôxtrâylia” do Khoa Văn hóa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trung tâm
nghiên cứu đô thị và xã hội Trường đại học công nghệ SWiburme Ôxtrâylia phối hợp
nghiên cứu, Khoa văn hóa Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ấn hành năm 1997;
Bài viết “Đô thị hóa và giá đất ở vùng ven đô thị ở đồng bằng sông Cửu Long” của TS, Lê
Khương Minh, trên Tạp chí nghiên cứu kinh tế số tháng 5- 2009...
Các công trình của tác giả trên đã nghiên cứu những lý thuyết về phát triển đô thị
và đô thị hóa như: phát triển đô thị lấy kinh tế làm trọng tâm, phát triển đô thị lấy con
người làm trọng tâm; lý thuyết đô thị hóa tiếp cận dưới góc độ dân số học. Tổng quan về
quá trình đô thị hóa, các xu hướng, hình thái đô thị hóa và sự biến đổi kinh tế, xã hội, văn
hóa cùng những chính sách, kinh nghiệm của các địa phương trong và ngoài nước về đô thị
hóa. Mặc dù những vấn đề đó không liên quan trực tiếp đến kinh tế nông thôn Hà Nội,
nhưng là những tư liệu quý để tác giả tiếp thu làm sáng tỏ khái niệm và nội dung đô thị hóa
Hà Nội.
Đồng thời, đã có một số công trình khoa học liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên
cứu được công bố như:


5

- “Tác động xã hội vùng của các KCN ở các nước Đông Nam Á và Việt Nam”, Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2009. Kỷ yếu là một tập
hợp bao gồm các tham luận của nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản, Việt Nam và các nước
Đông Nam Á, một số địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng. Nội dung nghiên cứu, khảo
sát về tình hình phát triển KCN - KCX tại vùng Đồng bằng sông Hồng và một số nước
Đông Nam Á. Các báo cáo cho thấy ngoài tác động tích cực thì quá trình phát triển KCN KCX cũng gây ra các hiệu ứng tiêu cực cho vùng như: ô nhiễm môi trường nông thôn, phá
vỡ kết cấu văn hóa - xã hội truyền thống, thu hẹp đất canh tác và nông dân thiếu việc làm.

Đặc biệt, đời sống người lao động trong các KCN - KCX cũng đang đặt ra nhiều vấn đề
bức xúc, nhất là về nhà ở và tổ chức cuộc sống vật chất - tinh thần cho họ. Các nhà nghiên
cứu đưa ra mô hình khả thi được nhiều nước Đông Nam Á áp dụng là: mô hình KCN KCX gắn với tổ chức các khu nhà ở - đô thị vệ tinh cho công nhân và người lao động trong
bán khính không quá xa để họ có thể đi về thuận tiện, hay còn gọi “Mô hình sáng đi - tối
về”.
- “Một số vấn đề về nông thôn Việt Nam trong điều kiện mới”, Đặng Kim Sơn. Báo
cáo khoa học đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội, 2010. Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận, các lý
thuyết về phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân; đánh giá thực trạng nông thôn và
nông nghiệp Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới và tương lai của nền nông nghiệp trong kỷ
nguyên toàn cầu hóa. Đề tài nêu bật những vấn đề bức xúc, nan giải của nông thôn nước ta
như vấn đề tích tụ - tập trung ruộng đất, vấn đề thu hồi đất và chuyển đổi đất nông nghiệp
sang đất dịch vụ - công nghiệp, kéo theo là việc phân công lại lao động và di chuyển một
bộ phận lớn dân cư từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ; yêu cầu phát triển những
hình thức tổ chức kinh doanh mới hiệu quả ở nông thôn phù hợp với sản xuất hàng hóa và
thị trường, vấn đề ứng dụng KHCN, có công nghệ sinh học... là có ý nghĩa quyết định đảm
bảo nền nông nghiệp hàng hóa có tính cạnh tranh.
- “Những vấn đề KT - XH ở nông thôn trong quá trình CNH-HĐH”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2010. Nội dung đề cập toàn diện các vấn đề
“tam nông” trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH hiện nay ở nước ta. Đó là các vấn đề xã
hội nảy sinh từ chính sách thu hồi đất đai nông nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo trong nông
thôn, các thách thức xóa đói giảm nghèo ở nông thôn; sự biến đổi lợi ích kinh tế của nông
dân do tác động của CNH - HĐH, vấn đề đào tạo nghề, đảm bảo việc làm và thu nhập cho
nông dân; vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, ảnh hưởng của di chuyển lao động


6

tới cơ cấu kinh tế hộ gia đình nông dân; vấn đề thu hẹp đất canh tác và đảm bảo an ninh
lương thực, vấn đề phát triển thị trường đất đai và chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện
nay; các vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường, xuống cấp về văn hóa, lối sống và phát

triển bền vững nông thôn nước ta; vấn đề phát triển các KCN - KCX, phát triển làng nghề,
CNH - HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; một số nghiên cứu các thay đổi
trong nông thôn tại một số địa phương điển hình như Hà Nội, Thanh Hóa, Thái Bình....,
các kinh nghiệm và bài học của quốc tế, có Trung Quốc và phát triển nông nghiệp, nông
thôn...
- “Đô thị hóa và lao động việc làm ở Hà Nội”, Hoàng Văn Hoa, Nxb Lao động Xã
hội, Hà Nội, 2007. Tác giả nêu lên các khái niệm và lý thuyết về ĐTH, lao động việc làm.
Đánh giá tình hình đô thị hóa nhanh ở Hà Nội thời gian qua, cho thấy bức tranh có cả mặt
tích cực và tiêu cực. Theo kết quả điều tra, chiếm tỷ lệ lớn người dân bị thu hồi đất không
được học nghề và chuyển đổi nghề; trong số được học nghề thì tỷ lệ người tìm được việc
làm cũng rất thấp. Nguyên nhân là, giữa đào tạo nghề trong nhà trường và thực tế nhu cầu
công việc không ăn khớp; không có sự gắn kết, chia sẻ trách nhiệm giữa cơ sở đào tạo và
doanh nghiệp. Có tình hình đào tạo ra không bố trí được việc làm; trong khi doanh nghiệp
lại thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực, thậm chí là thiếu cả lao động phổ thông.
- “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn
thành phố Hà Nội”, Nguyễn Tiệp, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2005. Các tác giả nghiên
cứu các khái niệm và lý thuyết về nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nông thôn,
nguồn nhân lực nông thôn cho CNH- HĐH. Đánh giá tình hình nguồn nhân lực nông thôn
ngoại thành Hà Nội, cho thấy tình trạng yếu kém, nhất là về chất lượng, Hà Nội đang thiếu
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho CNH- HĐH. Từ đây, các tác giả đề xuất các phương
án đào tạo nghề cho những địa bàn ngoại thành khác nhau, để phù hợp với hoàn cảnh, yêu
cầu và khả năng của các địa phương.
- “Bàn về công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn”, Đào Thế Tuấn, Kỷ yếu hội thảo
Hậu GPMB, Hà Nội, 2009. Tác giả nghiên cứu một số mô hình CNH- HĐH nông nghiệp
trên thế giới của Trung Quốc tại khu vực sông Châu Giang. Chỉ ra rằng thế giới đi theo
con đường hình thành các siêu thị đô thị và tạo nên sự đối lập nông thôn - thành thị. Còn
Trung Quốc thì theo con đường khác, đó là phi tập trung hóa và phát triển các khu cụm
công nghiệp vừa và nhỏ xen lẫn trong nông thôn, tạo nên sự hài hoà giữa hai khu vực
nông thôn và thành thị. Từ đây, đề xuất mô hình CNH- HĐH nông thôn Hà Nội nên đi



7

theo hướng phi tập trung để hạn chế lấy đất nông nghiệp và giảm thiểu mâu thuẫn giữa
hai khu vực, gắn kết giữa hai quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa với phát triển bền
vững nông nghiệp, nông thôn. Theo tác giả, Hà Nội dựa vào thế mạnh các làng nghề và
truyền thống thâm canh lâu đời, với các sản phẩm và ngành nghề độc đáo, có thể đi theo
hướng phát triển các khu cụm hay vành đai làng nghề - du lịch sinh thái gắn với thâm
canh nông nghiệp công nghệ cao.
- “Hoàn thiện chính sách nhà nước thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho người bị thu hồi đất”, Đặng Hùng Võ, Báo cáo Hội thảo của WB chính sách đất đai tại
Việt Nam, Hà Nội, 2010. Tác giả phân tích những hạn chế của cơ chế hai giá trong việc thu
hồi đất đai nông nghiệp thời gian qua, đó là còn mang tính chất hành chính bao cấp và vi
phạm lợi ích của người sử dụng đất. Điều này gây những tổn thất lớn cho ngân sách và tình
trạng tham nhũng, lãng phí về đất đai. Mặt khác, người dân được bồi thường không thoả
đáng và nảy sinh khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, gây bất ổn xã hội. Từ
đây, nêu những kiến nghị hoàn thiện Luật Đất đai nhằm khẳng định quyền quản lý, định
đọat thống nhất của nhà nước; đồng thời thừa nhận quyền sử dụng đất của nông dân như
một thứ hàng hóa đặc biệt; áp dụng cơ chế giá thị trường khi thu hồi đất và cơ chế tự thoả
thuận giữa nhà đầu tư với người sử dụng đất; chuyển việc xử lý tranh chấp khiếu kiện về
đất đai sang cho cơ quan tài phán; đồng thời phát triển các định chế thị trường nhà đất giúp
cho công tác định giá,bồi thường khi thu hồi đất.
- “Việc làm của nông dân sau khi thu hồi đất”, Nguyễn Văn Nam, Kỷ yếu Hội thảo
đề tài Hậu GPMB, Hà Nội, 2009. Tác giả phân tích các bức xúc về giải quyết lao động việc
làm cho người nông dân ven đô bị mất nông nghiệp. Chỉ ra rằng, công nghiệp hóa và đô thị
hóa chỉ thành công khi chuyển đổi được người nông dân thành một công dân đô thị, giúp
cho họ tránh được các “cú sốc” để hội nhập vào đời sống đô thị và văn minh thị trường công nghiệp. Một trong những khả năng này là tạo cho họ quỹ đất dịch vụ và giúp cho
người dân có tổ chức kinh tế độc lập của mình. Ví dụ, như các hợp tác xã mua bán hay
kinh doanh ngành nghề dịch vụ nhằm đáp ứng cho chính ngay các nhu cầu dân sinh thiết
yếu vùng đô thị hóa. Đây cũng chính là giải pháp cải thiện chất lượng sống và chất lượng

đô thị hóa.
- “Tác động của CNH - ĐTH tới cộng đồng dân cư nông thôn và chính sách sử dụng
đất”, Đặng Ngọc Dinh, Kỷ yếu Hội thảo Hậu GPMB, Hà Nội, 2009. Công trình điều tra đánh
giá các tác động tích cực và tiêu cực tới đời sống, kinh tế, xã hội nông thôn vùng đồng bằng sông


8

Hồng trong quá trình CNH - ĐTH nhanh; đề xuất các kiến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm
giảm thiểu tác động tiêu cực phát triển KT - XH nông thôn nước ta trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, qua các công trình trên, chưa có sách, công trình, tài liệu nào nghiên cứu
đầy đủ và toàn diện về tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của đô thị hóa đến kinh tế
nông thôn, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy những tác động tích cực,
hạn chế những tác động tiêu cực đến kinh tế nông thôn Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn đô thị hóa, phân tích nội dung tác
động của nó tới kinh tế nông thôn Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội thời
gian qua và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu
cực của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu tác động của đô thị hóa tới kinh
tế khu vực nông thôn đô thị hóa (khu vực đô thị mới); thời gian khảo sát từ năm 2005
đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

lối, quan điểm của Đảng ta về đô thị hóa; kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học, tài liệu, báo cáo tổng kết, đánh giá và các văn bản pháp luật của các tổ chức, cơ quan có liên
quan.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử dụng
các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị, trong đó chú trọng các phương
pháp kết hợp lô gíc và lịch sử, trừu tượng hóa khoa học, phân tích, tổng hợp, thống kê,
phương pháp chuyên gia và một số phương pháp khác.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận chung và thực tiễn tác động của đô
thị hóa tới kinh tế nông thôn Hà Nội.


9

- Luận văn cung cấp thêm luận cứ khoa học làm cơ sở để Đảng bộ, chính quyền
thành phố Hà Nội đề ra chủ chương, chính sách nhằm phát huy những tác động tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực của đô thị hóa tới kinh tế nông thôn thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, vận dụng vào quá trình giảng dạy và học tập bộ
môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu thành 2
chương, 4 tiết.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TÁC ĐỘNG CỦA
ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN KINH TẾ NÔNG THÔN HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về tác động đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
1.1.1. Quan niệm về đô thị hóa và kinh tế nông thôn
* Quan niệm về đô thị hóa
Đô thị hóa là quá trình tăng trưởng của đô thị về mặt dân cư, quy mô các thành phố

và lan tỏa lối sống đô thị về nông thôn. Theo nghĩa rộng, đô thị hóa có thể được quan niệm là
quá trình phát triển đô thị về các mặt kinh tế, dân số, không gian và kết cấu hạ tầng kỹ thuật


10

đô thị; sự biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân theo hướng
công nghiệp hóa; là sự thay đổi điều kiện sản xuất, lối sống và văn hóa theo cách của đô thị.
Đô thị hóa cũng có nghĩa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực; nó
cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo số dân đô
thị trên tổng số dân thì được gọi là mức độ đô thị hóa. Nếu tính theo diện tích đô thị trên tổng
diện tích của một vùng hay khu vực gọi là tốc độ đô thị hóa. Đô thị các nước phát triển phần
lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển.
Như vậy, đô thị hóa chính là bước quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức
sống đô thị của các nhóm dân cư; là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống
thành phố cho nông thôn. Đó là xu hướng có tính quy luật trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Từ phân tích trên có thể quan niệm một cách tổng quát: Đô thị hóa là quá trình biến
đổi và phân bố lực lượng sản xuất cùng với quan hệ sản xuất tương ứng trong nền kinh tế
quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô
thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất
kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
Hiện nay, đô thị hóa không chỉ đơn thuần là quá trình di cư từ nông thôn ra thành
thị và dịch cư nghề nghiệp mà còn bao hàm các quá trình dịch cư khác đa chiều, đa cấp
như các dòng dịch cư đô thị - đô thị, đô thị - vùng ven, đô thị nông thôn, vùng quốc tế với
các mức độ khác nhau theo từng hoàn cảnh của các đô thị cụ thể. Trong quá trình ĐTH, các
nhân tố kinh tế vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo nên quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên,
các nhân tố phi kinh tế như văn hóa, lịch sử, lối sống… đang ngày càng có những ảnh
hưởng lớn tới đặc tính đô thị hóa của mỗi vùng.

Vùng đô thị hóa: Là những khu vực được quy hoạch phát triển tập trung về chính
trị - kinh tế - xã hội để hình thành các trung tâm thương mại - dịch vụ - công nghiệp và
hành chính mới. Tại đây diễn ra quá trình đô thị hoá với tốc độ cao. Về mặt không gian,
vùng đô thị hóa có thể là vùng đất mới được quy hoạch, nhưng thường là những vùng ven
hay phụ cận các trung tâm đô thị lớn, vùng ngoại thành. Theo quy luật, sự phát triển của đô
thị mang tính lan tỏa, đô thị sẽ mở rộng ra các vùng phụ cận, biến các vùng này từ nông
nghiệp, nông thôn trở thành các đô thị và vùng công nghiệp vệ tinh.


11

Trong một vùng đô thị hóa thường bao gồm đô thị lõi và các thành phố vệ tinh cùng
với vùng đất nông thôn nằm xung quanh có liên hệ về kinh tế, xã hội với đô thị lõi, tiêu
biểu là mối quan hệ về công ăn việc làm và việc di chuyển hàng ngày ra vào. Trong đó,
thành phố đô thị lõi là thị trường lao động chính.
Các nhân tố ảnh hưởng đến đặc tính của quá trình đô thị hóa
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên là tổng hợp của tất cả yếu tố vị trí
địa lý, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, sông ngòi, thủy văn, địa chất, địa mạo. Thời kỳ kinh
tế chưa phát triển, đô thị hóa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Những vùng có
khí hậu thời tiết tốt, có nhiều khoáng sản, giao thông thuận lợi và những lợi thế khác nhau
sẽ thu hút dân cư mạnh hơn và do đó sẽ được đô thị hóa sớm hơn, quy mô lớn hơn. Ngược
lại những vùng khác sẽ đô thị hóa chậm hơn, quy mô nhỏ hơn.
Thứ hai, điều kiện xã hội. Mỗi phương thức sản xuất sẽ có một hình thái đô thị
tương ứng và do đó, quá trình đô thị hóa có những đặc trưng riêng của nó. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất là điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là tiền đề cho đô
thị hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản của nền
kinh tế sẽ tạo ra quá trình đô thị hóa nông thôn và các vùng ven biển.
Mỗi chế độ xã hội đều tạo điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi cho quá trình đô
thị hóa và quy định những đặc trưng riêng của nó. Nước ta phát triển theo định hướng
XHCN, do đó đô thị hóa không chỉ là mục tiêu mà còn là phương tiện để phát triển KT-XH

phục vụ “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ ba, văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc ảnh hưởng tới tất cả các vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội nói chung và hình thái đô thị nói riêng.
Thứ tư, trình độ phát triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế là nhân tố giữ vai trò
quyết định trong quá trình đô thị hóa. Trình độ phát triển kinh tế, trước hết được thể hiện ở
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cao hay thấp; trình độ phân công lao động xã hội;
năng suất lao động; quy mô, tốc độ tăng trưởng GDP.
Thứ năm, tình hình chính trị. Tình hình chính trị ảnh hưởng đến đô thị hóa trên hai
góc độ: Một mặt, nó quyết định đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch đô thị hóa. Mặt khác, tình hình chính trị của thành phố, của đất nước ổn
định sẽ tạo ra sự đồng thuận, đoàn kết nhất trí cao trong nhân dân, trong xã hội về quyết
tâm xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa địa phương;
tạo sự yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư. Ở nước ta từ sau 1975, tốc độ đô thị hóa ngày


12

càng cao, các đô thị mới mọc lên nhanh chóng. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, với các
chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần thì đô thị hóa đã tạo ra sự phát triển kinh tế vượt bậc.
* Đô thị hóa Hà Nội
Trên cơ sở quan niệm chung về đô thị hóa như đã phân tích trên, có thể hiểu đô thị hóa
ngoại thành Hà Nội: Là quá trình biến đổi và phân bố lại các lực lượng sản xuất cùng với quan
hệ sản xuất tương ứng vùng nông thôn; bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức, điều
kiện sống theo kiểu đô thị và tăng quy mô dân số đô thị; đồng thời là quá trình cải tạo, nâng
cấp, mở rộng, hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội hiện có, kết nối và đồng bộ hóa
với các cơ sở tương ứng của nội thành và của các vùng, địa phương lân cận [2].
Quá trình đô thị hoá Hà Nội hiện nay được biểu hiện dưới nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, mở rộng quy mô diện tích đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô
thị mới, các quận, phường mới.

Đây là hình thức phổ biến của quá trình hình thành các đô thị Việt Nam nói chung
và Hà Nội nói riêng. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị tăng lên nhanh chóng. Sự
hình thành các đô thị mới để tạo sự phát triển đồng đều giữa các khu vực.
Thứ hai, hiện đại hóa và nâng cao trình độ các đô thị hiện có
Quá trình này diễn ra thường xuyên và là tất yếu đồng thời với quá trình mở rộng
đô thị hiện có. Một mặt, do yêu cầu phát triển KT-XH, các cơ sở hạ tầng KT-XH xây dựng
trước đây đã không còn đủ khả năng đáp ứng do sự lạc hậu hoặc xuống cấp đòi hỏi phải
nâng cấp, hiện đại hóa. Mặt khác, do yêu cầu phải nâng cao chất lượng cuộc sống cả vật
chất lẫn tinh thần, đòi hỏi phải đáp ứng đầy đủ và tiện ích nhất tất cả những sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ của dân cư đô thị.
* Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn là một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất trong nông - lâm - ngư nghiệp, cùng với các ngành thủ công nghiệp
truyền thống, các ngành tiểu - thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông
nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ... tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong
vùng lãnh thổ và toàn bộ nền kinh tế quốc dân [19].
Kinh tế nông thôn phản ánh các quan hệ kinh tế trong các ngành nghề trên địa bàn
nông thôn, bao gồm rất nhiều ngành nghề khác nhau: nông - lâm - ngư nghiệp, thủ công
nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, dịch vụ. Như vậy, khái niệm kinh


13

tế nông thôn có ý nghĩa rộng hơn khái niệm kinh tế nông nghiệp. Các quan hệ kinh tế diễn
ra trên địa bàn nông thôn có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau và gắn bó chặt chẽ với toàn
bộ các quan hệ trong nền kinh tế nói chung.
Đặc điểm của kinh tế nông thôn
Hiện nay ở nước ta, kinh tế nông thôn còn dựa chủ yếu trên cơ sở nông nghiệp để
phát triển. Tuy nhiên, đó là sự phát triển tổng hợp của đa ngành nghề, với những biến đổi
quan trọng trong phân công lao động xã hội ngay tại khu vực nông thôn, tạo ra những lực

lượng sản xuất mới mà nền nông nghiệp truyền thống trước đây chưa từng biết đến. Theo
hướng đó đặc điểm của kinh tế nông thôn được biểu hiện:
Trước hết, là phức hợp đa ngành nghề
Kinh tế nông thôn bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp bảo đảm nhu cầu
lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản xuất các sản
phẩm hàng hóa cho thị trường trong và ngoài nước.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế nông thôn còn có công
nghiệp gắn với nông, lâm, ngư nghiệp trước hết là công nghiệp chế biến. Đặc biệt trong quá
trình phát triển, kinh tế nông thôn không chỉ có công nghiệp chế biến, mà còn có thể phát
triển những ngành công nghiệp phục vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp như công nghiệp
cơ khí sửa chữa máy móc nông nghiệp, một bộ phận tiểu thủ công nghiệp với các trình độ
công nghệ khác nhau, sản xuất các loại hàng hóa không có nguồn gốc từ nông nghiệp.
Ngoài nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp, kinh tế nông thôn còn có các loại
hình dịch vụ thương nghiệp, tín dụng, khoa học và công nghệ, tư vấn. Các loại hình dịch
này cùng với cơ sở hạ tầng ở nông thôn là những bộ phận hợp thành của kinh tế nông thôn
[19].
Thứ hai, là cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần
Nền kinh tế quốc dân có bao nhiêu thành phần kinh tế thì kinh tế nông thôn cũng có
bấy nhiêu thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế của kinh tế nông thôn có
những đặc điểm riêng biệt của kinh tế nông thôn. Hiện nay kinh tế nông thôn nước ta bao
gồm: Kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh
tế chỉ huy bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã


14

hội chủ nghĩa và rất coi trọng phát triển nhiều thành phần kinh tế. Từ đó tới nay sự tham
gia của các thành phần kinh tế vào nền kinh tế nói chung, kinh tế nông thôn nói riêng ngày

càng đông, trong đó hộ tự chủ là đơn vị sản xuất kinh doanh, lực lượng chủ yếu trực tiếp
tạo ra sản phẩm nông - lâm - thủy sản cho toàn xã hội.
Thứ ba, kinh tế nông thôn tồn tại nhiều trình độ công nghệ khác nhau
Trong thời gian dài trước đây, trình độ công nghệ sản xuất trong nông thôn nước ta
mang nặng tính cổ truyền và nông nghiệp truyền thống lạc hậu, phân tán, manh mún, và
bảo thủ. Kỹ thuật chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm qua các thế hệ của từng hộ nông dân vì
vậy sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Ngày nay dưới sự tác
động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự phát triển của công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ đã làm phá vỡ hình thức, các phương thức sản xuất cổ truyền. Như
vậy, kinh tế nông thôn hiện nay có sự kết hợp của nhiều trình độ công nghệ; từ công nghệ
lạc hậu cho đến công nghệ nửa hiện đại và hiện đại.
Thứ tư, về cơ cấu xã hội, giai cấp
Do tác động của đô thị hóa làm cho diện tích đất bị thu hồi phần lớn tập trung vào đất
nông nghiệp, do đó lực lượng lao động trước đây làm việc trong nông nghiệp thì nay không
có việc làm, muốn sống được bản thân phải tìm việc làm, điều này dẫn tới lao động nông
nghiệp giảm, lao động trong các ngành khác tăng lên. Đô thị hóa thúc đẩy chuyển dịch lao
động nông thôn sang làm các công việc phi nông nghiệp. Nông thôn không còn chỉ là nơi
sinh sống của nông dân chuyên làm nông nghiệp, mà trở thành địa bàn sinh sống của những
cư dân làm nhiều ngành nghề. Lúc đầu cư dân làm nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, càng về
sau tỷ trọng này càng thu hẹp một cách tương đối. Sự biến đổi này diễn ra trong từng vùng,
từng làng, từng gia đình. Điều đó sẽ dẫn đến những thay đổi quan trọng trong đời sống văn
hóa, xã hội vùng nông thôn.
1.1.2. Những vấn đề lý luận về tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà
Nội
* Quan niệm chung về tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Tác động có thể hiểu là quá trình chủ thể làm cho một đối tượng nào đó biến đổi
theo những chiều hướng khác nhau. Tác động cũng có thể được xem như là kết quả như dự
định hoặc không như dự định; có thể là tích cực hoặc tiêu cực; có thể đạt được ngay hoặc
đạt được sau một thời gian nhất định.



15

Từ cách hiểu này, tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội được quan
niệm là: Những biến đổi tất yếu theo những chiều hướng khác nhau của kinh tế nông thôn
Hà nội do đô thị hóa gây ra.
Từ khái niệm trên cho thấy, quá trình đô thị hóa tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi
của kinh tế nông thôn. Những biến đổi đó có thể là tích cực, có nghĩa phù hợp với quá trình
phát triển; cũng có thể là tiêu cực, có nghĩa không phù hợp với sự phát triển của kinh tế
nông thôn Hà Nội.
* Nội dung sự tác động của đô thị hóa đến nông thôn Hà Nội
Như trên đã đề cập, quá trình đô thị hóa tất yếu sẽ tác động đến kinh tế nông thôn
Hà Nội. Tác động đó không chỉ là những tác động tích cực, mà còn có cả những tác động
tiêu cực:
Những tác động tích cực
Một là, đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần cải thiện đời sống của dân
cư vùng đô thị hóa và các vùng lân cận
Một trong những điều kiện đảm bảo nội dung tăng trưởng kinh tế là quá trình chuyển
dịch cơ cấu vùng, ngành để từng bước xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm mục tiêu tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục và bền vững. Tại các khu vực đô thị hóa thường có tốc độ tăng trưởng
nhanh hơn nhờ tập trung lực lượng sản xuất, tạo ra năng xuất lao động cao, cách tổ chức lao
động hiện đại. Mặt khác, quá trình đô thị hóa dẫn đến tập trung dân cư và tập trung sản xuất
trong các đô thị. Theo hướng đó, đô thị hóa sẽ mang lại sự thay đổi to lớn cho phát triển kinh tế
xã hội, nhất là đối với khu vực nông thôn đô thị hóa bởi lẽ, công nghiệp hóa tạo ra sức cung,
còn đô thị hóa sẽ tạo ra sức cầu. Sau khi cư dân nông dân trở thành cư dân đô thị, mọi nhu cầu
của họ kể cả nhu cầu về cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng và nhà ở và nhu cầu các mặt hàng
tiêu dùng khác đều tăng lên.
Sản xuất hàng hóa và dịch vụ thường đạt hiệu quả cao tại những đô thị lớn - nơi có
quy mô mật độ dân số tương đối lớn với nguồn lao động dồi dào, có quy mô hoạt động
kinh tế đủ lớn do các doanh nghiệp tập trung đông, có hệ thống phân phối rộng khắp trên

một không gian đô thị nhất định. Nhìn chung, tăng trưởng sản xuất với tốc độ nhanh tạo
tiền đề hết sức quan trọng để nền kinh tế nông nghiệp bắt đầu chuyển mạnh sang giai đoạn
công nghiệp hóa. Đây chính là mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế nông nghiệp và
quá trình đô thị hóa.


16

Trong quá trình đô thị hóa, kinh tế ở đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng nhờ có sự
tập trung lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao động hiện đại.
Khu vực giáp ranh giữa đô thị và nông thôn cũng chịu ảnh hưởng lớn, mật độ dân cư ở khu
vực này sẽ tăng dần, đất đai thay đổi về mục đích sử dụng. Một phần những người dân nội
thành mua làm nhà ở, một phần sẽ trở thành nơi cung cấp dịch vụ giải trí cho dân cư nội
thành. Quá trình đô thị hóa mở ra nhiều cơ hội cho dân cư ngoại thành, cơ hội việc làm,
được tiếp cận với nếp sống văn minh, tiếp cận phương pháp sản xuất hiện đại, cơ sở hạ
tầng được cải thiện. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà các đô thị có thể
tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao
thu nhập cho họ. Khi mức thu nhập bình quân người tăng lên thì nhu cầu chi tiêu đời sống
của dân cư cũng tăng nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Điều đó cho thấy
đô thị hóa làm mức sống của dân cư được cải thiện đáng kể, góp phần vào việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo.
Hai là, đô thị hóa đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đô thị mới theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Như trên đã đề cập, tại các khu vực đô thị hóa thường là khu vực có sự tập trung
lực lượng sản xuất. So với khu vực nông thôn, khu vực đô thị hóa có cách thức tổ chức lao
động hiện đại hơn. Chính vì vậy, khu vực nông thôn đô thị hóa sẽ có điều kiện thuận lợi
hơn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa - về mặt lý luận và quan
điểm định hướng là cần phải đạt tốc độ tăng trưởng cao của các ngành công nghiệp thương mại, dịch vụ. Trong đó, phải ưu tiên các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ
cao, công nghệ chủ lực, công nghiệp mũi nhọn và các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật cao, hiện

đại. Sự phát triển của các ngành này và khả năng gắn kết ảnh hưởng của nó với các quan
hệ liên kết, hỗ trợ, định hướng sự phát triển các ngành còn lại trên địa bàn vùng, lãnh thổ.
Theo hướng đó, nền kinh tế sẽ có sự thay đối mang tính cách mạng về phương thức sản
xuất, về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đây cũng chính là mục đích của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như các bộ phận
cấu thành của nó. Như vậy, đô thị hóa có vai trò gạch nối giữa yêu cầu, mục tiêu quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với thành tựu, kết
quả đạt được trong tương lai.


17

Mặt khác, quá trình đô thị hóa dẫn đến không chỉ sự phát triển của ngành công
nghiệp, mà còn gắn liền với sự phát triển của các ngành giao thông vận tải, thương mại và
dịch vụ. Theo hướng đó, đô thị hóa có tác động thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở khu vực nông thôn trở thành đô thị mới.
Trong quá trình Đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng
của khu vực nông nghiệp và gia tăng nhanh tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng, đô thị hóa góp phần làm thay đổi về cơ cấu diện
tích gieo trồng và cơ cấu giá trị sản xuất. Các loại cây có giá trị kinh tế thấp, sử dụng nhiều
lao động đang có xu hướng giảm dần diện tích. Các loại cây cần ít lao động hơn và cho giá
trị kinh tế cao hơn đang được tăng dần diện tích canh tác. Trong tổng giá trị sản xuất của
ngành nông nghiệp thì xu hướng chung là giảm dần tỷ trọng của ngành trồng trọt và tăng tỷ
trọng ngành chăn nuôi. Đồng thời với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị hóa sẽ
thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ khối ngành kinh tế này sang ngành kinh tế
khác. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, hiện đại thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội.
Ba là, thúc đẩy quá trình cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế
Như trên đã đề cập, quá trình đô thị hóa dẫn đến tập trung dân cư và tập trung sản
xuất trong các đô thị. Điều đó dẫn đến nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội tăng lên. Để đáp ứng

nhu cầu đó đòi hỏi phải đầu tư nâng cấp và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội một
cách đồng bộ. Theo hướng đó, quá trình đô thị hoá tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết là vùng nông thôn đô thị hóa, tiếp đó
là khu vực nông thôn phụ cận; thúc đẩy đầu tư xây dựng các tuyến đường từ liên thôn, liên
xã, liên huyện và tỉnh nhằm tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá;
phát triển nhanh mạng lưới điện, cung cấp nguồn nước sạch cho nhu cầu của dân cư.
Bốn là, đô thị hoá góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Quá trình đô thị hóa tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận với khoa học kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng tiên tiến, tiếp cận với nếp sống văn minh của đô thị, từ đó loại bỏ dần
những quan niệm, phương pháp sản xuất lạc hậu. Tư duy của người dân thay đổi từ sản
xuất đóng kín sang kinh doanh đa ngành nghề, có tính toán lỗ lãi và hiệu quả kinh tế;
họ cũng năng động nhạy bén hơn để thích ứng với xu hướng diễn biến thị trường;
hình thành lối sống đô thị, phép ứng xử văn minh.


18

Người dân của thủ đô sẽ nhanh chóng làm biến đổi tập quán của những người mới
đến thông qua các hoạt động xã hội, quan hệ, sinh hoạt, làm việc hàng ngày. Những người
mới đến về mặt tâm lý họ cần phải nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng mới. Từ đó,
những tục lệ ma chay, cưới xin sẽ thay đổi theo kiểu đô thị hợp với xã hội đô thị.
Văn minh đô thị - công nghiệp cùng với kinh tế thị trường kết hợp lại với nhau, nhờ
thế tạo ra một thế hệ công dân mới, đời sống tinh thần mới, trật tự xã hội mới. Trong đó
tiêu biểu với lối sống và tác phong tôn trọng kỷ luật, kỷ cương, pháp chế thay thế cho nếp
sinh hoạt theo truyền thống, thói quen đôi khi tùy tiện và theo chủ nghĩa tình cảm.
Mặt tiêu cực:
Bên cạnh những mặt mạnh của nói trên thì ĐTH cũng kéo theo hàng loạt vấn đề
tiêu cực khác, đó là:
Thứ nhất, do quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh, không thực hiện đúng quy
hoạch dẫn đến thu hẹp diện tích đất nông nghiệp

Quá trình đô thị hóa nhanh đã làm cho nhu cầu về sử dụng đất chuyên dùng xây
dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và đất đô thị tăng lên rất nhanh. Theo định hướng chung, việc
quy hoạch phát triển các khu đô thị chỉ thực hiện ở những khu vực đất đai cằn cỗi, hiệu quả
sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp thấp. Tuy nhiên, do không thực hiện đúng chủ
trương chung nên dẫn đến tình trạng nuốt chửng những diện tích đất nông nghiệp vốn rất
cần thiết cho một đô thị như: sản xuất lương thực thực phẩm, tạo mảng không gian xanh có
vai trò “giải độc” cho môi trường sống, tạo khu nghỉ ngơi cho thị dân... Đồng thời sự suy
giảm diện tích đất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc cải thiện mức sống của
nhiều người dân ở khu vực ngoại ô vì họ trở nên thiếu phương tiện lao động và kế sinh
nhai truyền thống.
Thứ hai, quá trình đô thị hóa dẫn đến một bộ phận không nhỏ cư dân nông thôn
trong vùng đô thị hóa phải đối mặt với nghèo đói
Như trên đã đề cập, đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố lực lượng sản xuất
cùng với quan hệ sản xuất tương ứng vùng nông thôn. Chính vì vậy, nếu quá trình đô thị
hóa diễn ra quá nhanh, không theo quy hoạch và thiếu đồng bộ sẽ dẫn đến một bộ phận dân
cư nông thôn rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu đất nông nghiệp canh tác. Trong khi đó, họ
chưa chuẩn bị tâm lý của một người dân đô thị với phương thức sản xuất hiện đại. Mặt khác,
cùng với quá trình đô thị hóa, việc di dân từ khu vực nông thôn ra thành thị đã gia tăng áp lực
về việc làm, thu nhập, nhà ở, dịch vụ y tế vốn là vấn đề nhức nhối ở các đô thị, nó ảnh hưởng


19

đến quá trình tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt, khi đô thị hóa giá đất tại các
khu vực quy hoạch hoặc chờ quy hoạch tăng cao, một số người dân nông thôn không tập trung
sản xuất nông nghiệp mà bán đất hoặc chờ bán đất. Sau khi bán đất sản xuất, số tiền thu được
cần phải được dùng để chuyển đổi nghề nghiệp. Tuy nhiên, số tiền đó không được sử dụng
đúng mục đích, người nông dân không biết cách sản xuất trong môi trường mới và tình trạng
nghèo đói xảy ra đối với họ là điều khó tránh khỏi.
Thứ ba, gia tăng tình trạng di dân tự do từ khu vực nông thôn phụ cận vào khu vực

đô thị mới
Do sự chênh lệch về thu nhập cũng như những dịch vụ xã hội giữa nông thôn và
đô thị cao, từ đó luôn luôn xuất hiện các luồng dân di cư từ nông thôn vào các khu đô
thị. Đặc biệt, những cố gắng xoá đói giảm nghèo cho dân đô thị như tạo công ăn việc
làm, cung cấp các dịch vụ công cộng vốn không có ở nông thôn lại càng thu hút sự di
cư từ nông thôn ra thành thị. Khi đô thị càng phát triển thì lực hút đối với dân di cư
càng lớn. Cộng đồng di cư vào đô thị bao gồm nhiều thành phần, đồng thời mang theo
cả gánh nặng của đói nghèo.
Mặt khác, khi tình trạng nông dân ồ ạt vào đô thị kiếm việc làm dẫn đến lực lượng
lao động ở nông thôn phụ cận chỉ còn lại những người già yếu và trẻ nhỏ, không đáp ứng
được những công việc nhà nông vất vả. Cơ cấu lao động ở nông thôn hoàn toàn bị thay đổi
theo hướng suy kiệt nguồn lực lao động. Đồng thời thị trường lao động ở thành thị lại bị ứ
đọng
Thứ tư, môi trường bị ô nhiễm
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, việc xây dựng phát triển các khu đô thị
mới một cách tự phát, không đồng bộ, tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng không theo kịp tốc
độ đô thị hóa, gây tác động xấu đến đời sống nhân dân như: bị ngập nước vào mùa mưa,
thiếu hệ thống xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Mặt khác, do mật độ
dân số tập trung cao, sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, sự bùng nổ của các phương
tiện giao thông cơ giới, làm phát sinh một lượng chất thải, trong đó chất thải gây hại ngày
càng gia tăng. Những vấn đề đó làm cho chất lượng môi trường sống ở các khu đô thị mới
bị suy thoái khá nặng nề.
1.2 Thực trạng tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội và
những vấn đề đặt ra cần giải quyết
1.2.1. Khái quát quá trình đô thị hoá ở Hà Nội


20

Cùng với nhịp độ đô thị hóa của cả nước, từ những năm 1990 nhờ những chuyển

biến trong thời kỳ Đổi mới, quá trình đô thị hóa ở Hà Nội diễn ra nhanh và mạnh. Lúc này,
thành phố dần dần bắt nhịp cuộc sống mới, trong đó các hoạt động kinh tế diễn ra theo quy
luật thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước. Trên thực tế, quá
trình đô thị hóa Hà nội có sự thay đổi liên tục theo hướng mở rộng. Tuy nhiên trong khuôn
khổ của luận văn này, tác giả chỉ khái quát một số mốc từ khi cả nước ta thống nhất đến
nay.
Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà
Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị
xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc
Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người. Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới
định cư ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861
hộ, 21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới. Năm 1991,
ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, trả lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình
năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào Vĩnh Phúc. Hà Nội còn lại 4 quận nội
thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km².
Ngày 28 tháng 10 năm 1995, thành lập quận Tây Hồ trên cơ sở tách 3 phường:
Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An,
Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm [4].
Ngày 29 tháng 11 năm 1996, thành lập quận Thanh Xuân trên cơ sở tách 5 phường:
Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt, 78,1 ha diện tích
tự nhiên và 20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506
nhân khẩu của phường Khương Thượng thuộc quận Đống Đa; toàn bộ diện tích tự nhiên và
nhân khẩu của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện
Thanh Trì. Cũng trong Nghị định này quyết định thành lập quận Cầu Giấy trên cơ sở tách 4
thị trấn: Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung
Hòa thuộc huyện Từ Liêm [5].
Ngày 6 tháng 11 năm 2003, thành lập quận Long Biên trên cơ sở tách 10 xã:
Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long
Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện
Gia Lâm. Cũng trong Nghị định này quyết định thành lập quận Hoàng Mai trên cơ sở



21

tách 9 xã: Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh
Nam, Trần Phú, Yên Sở, 55 ha diện tích tự nhiên của xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh
Trì và 5 phường: Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc
quận Hai Bà Trưng [5].
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, với gần 93% đại biểu tán thành, Quốc hội Việt Nam đã
thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực
từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh
Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được nhập về Hà Nội. Từ diện
tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện
tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 19 thủ đô lớn nhất thế giới.
Ngày 11 tháng 12 năm 2008, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông
trước đây và thành phố Sơn Tây cũng được chuyển thành thị xã Sơn Tây [7].
Đến năm 2010, tỷ lệ đô thị hóa ở Hà Nội đạt 30 - 32% và và sẽ đạt 55 - 65% vào
năm 2020. Quá trình đô thị hóa của Hà Nội đã phát triển mạnh theo chiều rộng và có
sức lan tỏa mạnh (đô thị hóa theo chiều rộng). Những địa chỉ hấp dẫn dọc các quốc lộ
đã và đang tạo nên tốc độ đô thị hóa nhanh nhất. Các điểm dân cư ven đô, những khu
vực có khả năng tạo động lực phát triển đô thị, những quỹ đất thuận lợi để tạo thị đã
liên tục được khoác lên mình những chiếc áo đô thị ngày một rộng hơn. Diện tích đất tự
nhiên của Hà Nội hiện nay đã lên tới 3328,89 Km 2. Theo hướng đó dân số Hà Nội cũng
gia tăng với tốc độ cao: năm 1990, Hà Nội mới chỉ có 2 triệu người, đến năm 2000 lên
được 2,67 triệu thì đến năm 2009 đạt 6,5 triệu dân, đến năm 2011 đạt trên 6,8 triệu người
[9]. Như vậy, có thể kết luận rằng: trong khi mức độ và tốc độ đô thị hóa trên phạm vi toàn
quốc chậm hơn so với các nước khác trên thế giới và trong khu vực, thì Hà Nội, đã có tốc
độ đô thị hóa rất nhanh, nó đã đạt được tương đương với tỷ lệ đô thị hóa ở các thành phố
của các nước phát triển trong khu vực Châu Á và đang phấn đấu gia nhập hàng ngũ các
thành phố có dân số lớn hơn 10 triệu người của thế giới.

1.2.2. Thực trạng sự tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
* Những tác động tích cực
Một là, trong thời gian qua, đô thị hóa đã góp phần thúc đẩy kinh tế thành phố tăng
trưởng nhanh so với tốc độ chung của cả nước


22

Như trên đã trình bày, sau ngày 1-8-2008, toàn bộ địa giới tỉnh Hà Tây; huyện Mê
Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình sáp nhập vào Hà Nội.
Sau sự kiện này, địa giới Thủ đô là hơn 3.300 km 2, rộng gấp 3,6 lần diện tích cũ và là một
trong 19 thành phố, thủ đô lớn nhất thế giới. Mật độ dân số khoảng 3.500 - 4.000 người/
km2 tương đương với Paris, London, Tokyo, Bắc Kinh. Bên cạnh những thuận lợi khi thành
phố được mở rộng, Hà Nội đối mặt với vô vàn khó khăn như: Cơ cấu nông nghiệp cao hơn,
mặt bằng dân trí thấp hơn, tỷ lệ hộ nghèo tăng cao hơn, cơ sở hạ tầng ở nhiều địa bàn mới
sáp nhập nghèo nàn (thậm chí có nơi còn chưa có điện lưới).
Tuy nhiên, kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện vẫn là xu
hướng chủ đạo và là những tác động tích cực của đô thị hoá ở thủ đô Hà Nội. Trong những
năm qua, Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của
1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất
công nghiệp. Dước tác động của đô thị hóa, với sự chuyển dịch đúng hướng, dù cả năm
2009 tốc độ tăng trưởng GDP chỉ tăng 6,7% nhưng vẫn cao hơn mức tăng trưởng chung
của cả nước là 5,2%. Dù GDP đạt thấp so với những năm trước đó nhưng Hà Nội đã góp
phần cùng cả nước ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế. Năm 2010, GDP toàn thành phố
tăng 11% so với năm 2009, cao hơn chỉ tiêu Hội đồng nhân dân đề ra là 10,5%, thu ngân
sách Nhà nước trên địa bàn trong năm 2010 đạt 100 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với dự
toán Chính phủ giao và tăng 34,6% so với thực hiện trong năm 2009 [41]. Năm 2011 tăng
trưởng của Hà Nội đạt 10,1%,. Theo đánh giá của Ủy ban nhân dân thành phố, mức tăng
này tuy thấp hơn năm 2010 (11,04%) và kế hoạch năm (12%), nhưng vẫn cao hơn 1,67 lần

của cả nước. Năm 2012, mặc dù tình hình kinh tế rất khó khăn, song Hà nội vẫn tiếp tục
duy trì tăng trưởng khá tăng 8,1% cả năm 2012, gấp 1,56 lần so mặt bằng chung cả nước;
lạm phát ở mức 1 con số; thu ngân sách cao so với cả nước; an sinh xã hội cơ bản đảm bảo
[47]
Như vậy, mặc dù những năm gần đây tình hình kinh tế chung của cả nước có tốc độ
tăng trưởng không đạt được kế hoạch đề ra, trong đó có cả thành phố Hà Nội. Tuy nhiên,
so với cả nước, Hà Nội vẫn là địa phương có mức tăng trưởng cao hơn so với mức tăng
trưởng bình quân của cả nước. Để đạt được thành tựu đó có nhiều nguyên nhân, trong đó
có tác động tích cực của quá trình đô thị hóa nông thôn Hà Nội.


×