Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Biện pháp chuẩn hóa giáo viên tiếng anh ở các trường trung học cơ sở huyện hồng dân, tỉnh bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.16 KB, 112 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


ĐÀO CÔNG HUẤN

BIỆN PHÁP CHUẨN HÓA GIÁO VIÊN TIẾNG ANH
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


ĐÀO CÔNG HUẤN

BIỆN PHÁP CHUẨN HÓA GIÁO VIÊN TIẾNG ANH
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 01 14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN VĂN TẤN

HÀ NỘI - 2013




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUẨN HÓA GIÁO VIÊN

TIẾNG ANH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.2 Nội dung chuẩn hoá giáo viên tiếng Anh Trung học cơ sở
1.3 Những nhân tố tác động đến chuẩn hóa giáo viên tiếng

17

Anh Trung học cơ sở
CHUẨN HÓA GIÁO VIÊN
Chương 2 THỰC TRẠNG

26

23

TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
2.1.

CƠ SỞ HUYỆN HÔNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU
Khái quát chung về kinh tế - xã hội và giáo dục – đào tạo


2.2.

Thực trạng giáo viên tiếng Anh trung học cơ sở huyện Hồng

2.3.

Dân, tỉnh Bạc Liêu
Thực trạng chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh trung học cơ sở

huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu
2.4. Đánh giá chung

31
31
32
33

Chương 3 NGUYÊN TẮC, BIỆN PHÁP CHUẨN HÓA

40

GIÁO VIÊN TIẾNG ANH TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU HIỆN
NAY
3.1 Các nguyên tắc đề xuất các biện pháp quản lý chuẩn hóa

44

giáo viên Tiếng Anh trung học cơ sở huyện Hồng Dân,
3.2.


tỉnh Bạc Liêu
Các biện pháp chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh trung học

44

3.3.

cơ sở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu hiện nay
Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi các biện pháp đề xuất

46

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

66
70
74
77


CBQL
CSVC
GVBM

GD – ĐT
GV
BDTX
TW
KTTT
CNTT & TT
BD
QL

Cán bộ quản lý
Cơ sở vật chất
Giáo viên bộ môn
Giáo dục – Đào tạo
Giáo viên
Bồi dưỡng thường xuyên
Trung ương
Kinh tế tri thức
Công nghệ thông tin và truyền thông
Bồi dưỡng
Quản lý


3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục ngày nay đang khẳng định vai trò là động lực trực tiếp phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, khi mà yếu tố con người là nhân tố trung tâm
của sự phát triển. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: “Giáo
dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá

và con người Việt Nam” [8, tr.77]. Để phát triển sự nghiệp giáo dục, trong những
năm gần đây Đảng và Nhà nước ta xác định phải mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục cho phù hợp với xu thế thực tiễn giáo dục Việt Nam và xu thế phát triển
của giáo dục thế giới trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chính là việc
chuẩn hoá đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo
trong giai đoạn cách mạng mới.
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của đội ngũ nhà giáo đối với sự nghiệp
giáo dục, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “nhà giáo giữ vai trò quyết định
trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.” [26, tr.19]. Chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2011 – 2020 được Đảng ta xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá và hội
nhập quốc tế, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt” [8, tr. 20]. Đồng thời, Đảng cũng đặt ra yêu
cầu “giáo viên phải có đủ đức và tài”; các lực lượng giáo dục, trước hết là đội
ngũ giáo viên cần phải được “chuẩn hoá”. Vì vậy, mỗi nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân cần phải đặc biệt quan tâm đến việc “chuẩn hoá” đội
ngũ giáo viên.
Một trong những điều kiện để hội nhập tốt với thế giới là phải tạo ra một
đội ngũ các nhà tri thức trong tương lai phải biết ngoại ngữ mà chủ yếu là


4
tiếng Anh. Tiếng Anh có vai trò và vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục
đào tạo và trong sự phát triển của đất nước. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa của đất nước ta, để có thể đi tắt, đón đầu, để con người Việt
Nam có thể vươn lên tầm cao trí tuệ thế giới thì phải đầu tư, phát triển giáo
dục, phải biết tiếng Anh bởi vì phần lớn các tài liệu tri thức khoa học của nhân
loại được viết bằng tiếng Anh, nhiều quốc gia sử dụng tiếng Anh như tiếng

mẹ đẻ. Tại Việt Nam, môn tiếng Anh cũng được Bộ GD – ĐT đưa vào chương
trình dạy từ bậc phổ thông đến đại học. Để dạy và học tiếng Anh đạt hiệu quả
cần phải hội đủ nhiều yếu tố và một trong những nhân tố đó là trình độ đội
ngũ giáo viên (GV), những người đang trực tiếp giảng dạy ở các cơ sở giáo
dục. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành TW Đảng khoá VIII
đã khẳng định: “ GV là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội
tôn vinh. Chất lượng giáo dục trong nhà trường phụ thuộc phẩm chất, năng
lực của đội ngũ GV”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói khi bàn về vai
trò của người thầy trong sự nghiệp giáo dục: “Thầy giáo là nhân vật trọng tâm
trong nhà trường, là người quyết định và tạo nên những con người mới. Vậy
thầy giáo phải không ngừng vươn lên, rèn luyện tu dưỡng về mọi mặt để thực
sự xứng đáng là người thầy xã hội chủ nghĩa”. Đối với GV ngoại ngữ, theo đề
án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 2020, GV dạy ngoại ngữ phải có năng lực ngôn ngữ giảng dạy cao hơn trình
độ chung của cấp dạy hai bậc.
Qua kết khảo sát trình độ GV tiếng Anh do Sở GD – ĐT Bạc Liêu phối
hợp tổ chức, tất cả GV tiếng Anh ở các trường đều không đạt chuẩn theo quy
định của Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai
đoạn 2008 - 2020. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng GV đạt
chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo nhưng trình độ thực tế chưa tương
xứng là do trong thời gian qua công tác chuẩn hóa cho đội ngũ này còn nhiều


5
hạn chế. Trong những năm qua, Phòng GD – ĐT Hồng Dân và Sở GD – ĐT
Bạc Liêu hàng năm đều có tổ chức bồi dưỡng GV nhưng đó là chương trình
bồi dưỡng GV THCS nói chung chứ chưa phải là chương trình đặc thù dành
riêng cho chuẩn hóa GV tiếng Anh. Đối với các trường, hiệu trưởng nhà
trường cũng chưa thật sự quan tâm đến chương trình chuẩn hóa riêng cho GV
dạy môn tiếng Anh. Kết quả của kì thi khảo sát năng lực, đặt ra cho các nhà
quản lí là phải làm sao tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ GV từ mục đích,

nguyên tắc, phương pháp, nội dung, hình thức, các bước khi bồi dưỡng GV để
đạt được trình độ chuẩn theo quy định. Như vậy để có được một đội ngũ GV
đủ trình độ thì cần phải làm tốt công tác chuẩn hóa GV, làm cho mỗi GV thấy
được việc bồi dưỡng để chuẩn hóa là nhu cầu của mình nhằm đáp ứng các
tiêu chuẩn về trình độ theo đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp
chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh ở các trường Trung học cơ sở huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu”, làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ở Ấn Độ vào năm 1988 đã quyết định thành lập hàng loạt các trung tâm
học tập trong cả nước nhằm tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Việc
bồi dưỡng, phát triển GV được tiến hành ở các trung tâm này đã mang lại hiệu
quả rất thiết thực.
Hội nghị UNESCO tổ chức tại NêPan vào năm 1998 về tổ chức quản lý
nhà trường đã khẳng định: “Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ GV là vấn đề cơ
bản trong phát triển giáo dục”.
Tại Pakistan, nhà nước đã xây dựng chương trình bồi dưỡng về sư phạm
cho đội ngũ GV và quy định trong thời gian 3 tháng cần bồi dưỡng những nội
dung gồm: giáo dục nghiệp vụ dạy học; Cơ sở tâm lý GV; Phương pháp


6
nghiên cứu, đánh giá và nhận xét học sinh . . .đối với đội ngũ GV mới vào
nghề chưa quá 3 năm.
Ở Philippin, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ GV không tiến hành
tổ chức trong năm học mà tổ chức bồi dưỡng thành từng khóa học trong thời
gian học sinh nghỉ hè. Hè thứ nhất bao gồm các nội dung môn học, nguyên
tắc dạy học, tâm lý học và đánh giá giáo dục; Hè thứ hai gồm các môn về
quan hệ con người, triết học giáo dục, nội dung và phương pháp giáo dục; Hè

thứ ba gồm nghiên cứu giáo dục, viết tài liệu trong giáo dục và Hè thứ tư gồm
kiến thức nâng cao, kỹ năng nhận xét, vấn đề lập kế hoạch giảng dạy, viết tài
liệu giảng dạy, viết sách giáo khoa, viết sách tham khảo.
Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ GV, CBQL giáo
dục là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tùy theo thực tế
của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lý giáo dục đề ra các phương thức
bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi theo yêu cầu nhất định. Cụ thể là mỗi
cơ sở giáo dục cử từ 3 đến 5 GV được đào tạo lại một lần theo chuyên môn
mới và tập trung nhiều vào đổi mới phương pháp dạy học.
Tại Triều Tiên một trong những nước có chính sách rất thiết thực về bồi
dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ GV, tất cả GV đều phải tham gia học tập đầy
đủ các nội dung về chương trình về nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
theo quy định. Nhà nước đã đưa ra “Chương trình bồi dưỡng GV mới” để bồi
dưỡng đội ngũ GV được thực hiện trong 10 năm và “Chương trình trao đổi” để
đưa GV đi tập huấn ở nước ngoài.
Tại Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục như: M.I.Kônđacốp,
P.V. Khuđominxki…đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng dạy học thông
qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải
có đội ngũ GV có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động
của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác
quản lý bồi dưỡng, phát triển đội ngũ.


7
Tại Singapore, một quốc gia có nền giáo dục phát triển ở Đông Nam Á và
Châu Á, một kế hoạch bồi dưỡng chuyên nghiệp dành cho GV được đưa ra trong
đó việc đào tạo và bồi dưỡng, phát triển năng lực sư phạm cho GV đang giảng
dạy được kết hợp một cách chặt chẽ với sự phát triển sự nghiệp. Các thầy cô
giáo được trả lương mỗi người 100 giờ một năm và một số chi phí nhất định để
xây dựng và thực hiện những kế hoạch đào tạo bồi dưỡng.

Ở Việt Nam, ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò của
người thầy giáo như: “Không thầy đố mày làm nên”, không có thầy giáo thì sẽ
không có giáo dục. Điều đó nhắc nhở mọi người phải quan tâm mọi mặt và
toàn diện đến giáo dục mà chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất đó chính là
đội ngũ GV.
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ GV đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong thư gửi các cán bộ, các thầy giáo, cô giáo,
công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới ngày 16
tháng 10 năm 1968 rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự
nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành các cấp
Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này, phải
chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta những bước
phát triển mới”, “Cán bộ và giáo dục phải tiến bộ cho kịp thời đại mới làm
được nhiệm vụ, chớ tự túc tự mãn cho là giỏi rồi thì dừng lại” .
Kể từ sau cách mạng tháng Tám thành công và các cuộc cải cách giáo
dục năm 1950, 1956, 1979 và trong những năm “Đổi mới” nhiều công trình
nghiên cứu đã để lại những bài học quý giá về xây dựng và phát triển đội ngũ
GV như: Nguyễn Thị Phương Hoa (2002, Con đường nâng cao chất lượng
cải cách các cơ sở đào tạo GV); Đinh Quang Báo (2005, Giải pháp đổi mới
phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV); Đặng Quốc
Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa (2007, Cẩm nang nâng cao năng lực


8
và phẩm chất đội ngũ GV); Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá
Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm Quang Thiệp (Đổi mới nội dung đào tạo GV
THCS theo chương trình cao đẳng sư phạm mới); Bùi Văn Quân, Nguyễn
Ngọc Cầu (Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ giảng
viên) v.v…Các công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3 hướng:
Nghiên cứu phát triển đội ngũ GV dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực;

Nâng cao chất lượng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
Nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ GV
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau hơn hai thập kỷ đổi mới, nhiều giải pháp nhằm xây dựng và phát
triển đội ngũ GV ở các cấp học, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng rộng
rãi. Đặc biệt từ khi có chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thì một số dự án, công trình nghiên
cứu khoa học lớn liên quan đến đội ngũ GV ở tất cả các cấp học, bậc học đã
được thực hiện.
Trong những năm gần đây, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục đào
tạo nói chung và đổi mới phương pháp dạy học nói riêng, nhiều nhà nghiên
cứu trong đó có những nhà giáo dục học, tâm lý học như: Trần Hồng Quân,
Phạm Minh Hạc, Phan Trọng Luận, Vũ Văn Tảo, Đỗ Đình Hoan, Trịnh Xuân
Vũ, Phạm Viết Vượng, Đặng Thành Hưng... đã đi sâu nghiên cứu vấn đề đổi
mới nội dung dạy học theo hướng nâng cao tính hiện đại và gắn khoa học với
thục tiễn sản xuất và đời sống, vấn đề lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt
động dạy học.
Xét ở góc độ nghiên cứu lý luận quản lý giáo dục, dựa trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học nước
ta đã tiếp cận quản lý giáo dục (QLGD) và quản lý trường học để đề cập đến
việc phát triển công tác quản lý trường học; các tác phẩm tiêu biểu như:


9
Phương pháp luận khoa học giáo dục của Phạm Minh Hạc; Khoa học Quản
lý giáo dục - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Trần Kiểm ...
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ GV và CBQL giáo dục là khâu

then chốt”.
Đối với môn ngoại ngữ, các trường phổ thông của Việt Nam tập trung
vào tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung và tiếng Pháp, trong đó tiếng Anh
chiếm hơn 90% số lượng học sinh theo học. Đây là môn học có nhiều tiết học
trong tuần (3 tiết/tuần), là một trong ba môn thi tốt nghiệp THPT. Bên cạnh
đó, ngành giáo dục cũng đã đầu tư rất lớn về CSVC, thiết bị dạy học ngoại
ngữ, biên soạn lại nội dung chương trình cho phù hợp với tình hình xã hội
mới. Điều đó chứng tỏ Nhà nước rất quan tâm, chú trọng đến bộ môn ngoại
ngữ. Đối với học sinh, sinh viên Việt Nam, ngoại ngữ có một ý nghĩa đặc biệt
vì nước ta đang trong bối cảnh hợp tác, quan hệ, hội nhập quốc tế ngày càng
rộng mở. Biết ngoại ngữ không những để vượt qua các kỳ thi bắt buộc, để đáp
ứng yêu cầu tất yếu của lao động có kỹ thuật cao với các quy trình công nghệ
thường xuyên được đổi mới, mà còn là một năng lực cần thiết đối với người Việt
Nam hiện đại
Bàn về vai trò, tiêu chuẩn người giảng viên trong công trình lý luận dạy
học của tác giả Đặng Vũ Hoạt và tác giả Hà Thị Đức cho rằng: Đối với người
cán bộ giảng dạy đại học, nâng cao trình độ chuyên môn, nghệ thuật sư phạm và
phẩm chất đạo đức là điều kiện chủ yếu để tạo nên uy tín của người thầy. Tuy
chưa đề cập sâu sắc những yêu cầu cụ thể về năng lực chuyên môn, nghệ thuật
sư phạm nhưng những khái quát của tác giả đã định hướng cho việc xác định
tiêu chuẩn và chuẩn hoá đội ngũ giảng viên.


10
Khi bàn về phát triển đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tác giả Trần Kiểm nhấn mạnh: Muốn phát
triển đội ngũ giáo viên phải xác định được trình độ hiện có của đội ngũ người
thầy giáo trong tương lai; yêu cầu đặt ra cho sự phát triển đội ngũ giáo viên trong
thời kỳ mới trở thành những thách thức không nhỏ. Việc vượt qua những thách
thức đó, đến lượt nó trở thành nhân tố quyết định chất lượng giáo dục theo yêu

cầu xã hội. Việc đầu tư phát triển đội ngũ giáo viên là trách nhiệm của Nhà nước
và toàn xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Những năm gần đây, sự tăng nhanh về số lượng các trường trung học cơ sở
trong cả nước dẫn đến sự thiếu hụt và mất cân đối của đội ngũ giáo viên. Vì thế,
nhiều đề tài ở các cấp độ khác nhau trong đó có các luận văn thuộc chuyên
ngành Quản lý giáo dục đã đề cập đến vấn đề này: Luận văn thạc sỹ của tác giả
Nguyễn Thị Thanh, Đại học Sư phạm Hà Nội, “Các giải pháp tổ chức nhằm ổn
định đội ngũ cán bộ dạy ở trường Đại học Sư phạm” (1999); Luận văn thạc sỹ
của tác giả Trần Công Chánh, có đề tài: “Các giải pháp quản lý công tác phát
triển đội ngũ giáo viên trường Cao đẳng sư phạm Bạc Liêu” (2001); Luận văn
thạc sỹ của tác giả Nguyễn Sơn Thành, Đại học Sư phạm Hà Nội, “Một số giải
pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ giảng viên trường Đại học Hải Phòng đến
năm 2010” (2004); Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đình Dũng, Đại
học sư phạm Hà Nội, “Một số biện pháp xây dựng đội ngũ giáo viên trường
Cao đẳng Thống kê” (2005); Đề tài luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng
Sinh đã đề cập đến “Các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên nhằm đáp
ứng yêu cầu nâng cấp trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Thành phố Hồ
Chí Minh” (2006); Luận văn thạc sỹ của tác giả Đặng Văn Doanh, Đại học
Thái Nguyên “Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên ở trường Cao đẳng
kinh tế - kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên” (2008); Luận văn thạc sỹ của
tác giả Lê Đình Huấn, Đại học sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh “Thực


11
trạng công tác quản lý phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Bình
Phước” (2010); Các công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3
hướng: Nghiên cứu phát triển đội ngũ GV dưới góc độ phát triển nguồn nhân
lực; Nâng cao chất lượng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ GV
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhìn chung, các đề tài đã đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực để phát
triển đội ngũ giảng viên của các trường cao đẳng, đại học nhằm chuẩn hóa đội
ngũ, đáp ứng các đặc điểm, yêu cầu của từng nhà trường. Tuy nhiên, giới hạn
của các đề tài là chỉ đáp ứng các yêu cầu thực tiễn phù hợp với thực trạng của
từng nhà trường. Đối với giảng viên các trường đại học, cao đẳng, các đề tài đã
phân tích được thực trạng về tình hình đội ngũ và đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
trong những năm vừa qua. Đồng thời, các đề tài cũng đã đưa ra một số phương
án, giải pháp bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng hiện có nhằm
nâng cao trình độ cho đội ngũ này, chưa đáp ứng được các yêu cầu của nội dung
xây dựng và phát triển đội ngũ nhằm chuẩn hóa không chỉ về chất lượng mà còn
phát triển về số lượng và cơ cấu hợp lý.
Tuy nhiên, các công trình kể trên hầu hết vẫn còn để lại khoảng trống
nghiên cứu về quản lý đội ngũ GV trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, về chính sách tuyển dụng, sử dụng và về vai trò, vị trí mới của
đội ngũ GV trong tiến trình phát triển nhà trường Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều
chỉ dừng lại ở lí luận quản lý, lí luận dạy học. Có rất ít các công trình nghiên
cứu đối với đặc thù của bộ môn tiếng Anh. Nội dung các công trình nghiên
cứu về bộ môn tiếng Anh đã góp phần nêu lên được những tồn tại, khó khăn
và bất cập về nội dung chương trình, phương pháp dạy học tiếng Anh và cả
QL dạy học tiếng Anh hiện nay. Các công trình trên cũng đã đề xuất được một


12
số biện pháp QL dạy học tiếng Anh hiệu quả và thiết thực. Hầu hết các đề tài
nghiên cứu có liên quan đề cập đến nhiều vấn đề dạy học môn tiếng Anh,
phương pháp dạy... nhưng chưa đề cập đến vấn đề chuẩn hóa đội ngũ GV, đặc
biệt là chuẩn hóa về trình độ theo chuẩn Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020. Tại huyện Hồng Dân chưa có
công trình nghiên cứu nào về thực trạng dạy môn Tiếng Anh mà đặc biệt là về

trình độ GV tiếng Anh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu công tác chuẩn hóa GV
tiếng Anh ở các trường THCS huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu càng trở nên
bức thiết.
Vấn đề xây dựng, chuẩn hóa giáo viên trong những năm gần đây được
đặc biệt quan tâm của toàn xã hội, trong đó những vấn đề về chất lượng, đã có
nhiều nhà nghiên cứu về khoa học giáo dục và quản lý giáo dục đã có những
đóng góp đáng chân trọng. Ở đây có thể kể đến các tác giả như: Bùi Minh Hiền
với đề tài: Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phải coi trọng
ba vấn đề chủ yếu: Đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng và đồng bộ về cơ
cấu. Trong đó, chuẩn về chất lượng giáo viên cần đạt chuẩn ở ba khía cạnh:
Chuẩn về trình độ chuyên môn sư phạm (học vấn), chuẩn về trình độ nghiệp vụ
sư phạm, chuẩn về đạo đức tư cách người thầy [17].
Khi đề cập đến những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo viên, tác
giả Trần Bá Hoành đã đưa ra ba nhân tố: Quá trình đào tạo, sử dụng và bồi
dưỡng giáo viên; hoàn cảnh, điều kiện lao động sư phạm của người giáo viên;
ý trí, thói quen và năng lực của người giáo viên... [18]. Đây cũng là những
vấn đề cần lưu ý trong quá trình chuẩn hoá đội ngũ giáo viên.
Từ sự khái quát những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn chúng
tôi nhận thấy:
Một là, những tư tưởng, những nghiên cứu đều cho rằng chuẩn hoá giáo
viên giữ vai trò quan trọng, là giải pháp then chốt để nâng cao chất lượng giáo


13
dục và đào tạo, phát huy tốt nhất vai trò của đội ngũ giáo viên trong sự nghiệp
trồng người.
Hai là, muốn chuẩn hoá giáo viên phải bảo đảm chuẩn hoá về chất lượng,
chuẩn về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đặc biệt, chú trọng chuẩn hoá về chất
lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề
nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Ba là, mỗi công trình nghiên cứu đều đi sâu vào những vấn đề cụ thể
riêng, căn cứ vào tình hình, đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, nhà trường
mà các tác giả đề xuất hệ thống giải pháp với mong muốn công trình có những
đóng góp nhất định trong việc chuẩn hoá giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu giáo
dục và đào tạo của cơ sở nói riêng, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước
nói chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về chuẩn hoá giáo viên nói chung, từ đó
đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh trung học cơ sở, đề
xuất các biện pháp chuẩn hóa giáo viên tiếng anh các trường Trung học cơ sở
huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuẩn hóa giáo viên
tiếng Anh các trường trung học cơ sở.
Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo viên tiếng Anh và chuẩn hóa giáo viên
tiếng Anh các trường Trung học cơ sở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Đề xuất các biện pháp chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh các trường Trung
học cơ sở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu hiện nay.


14
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo viên tiếng Anh các trường Trung học cơ sở huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh các trường Trung

học cơ sở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
Phạm vi
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên ở các trường Trung
học cơ sở trên địa bàn huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Từ đó đề xuất
các biện pháp chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh các trường Trung học cơ sở huyện
Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu, đáp ứng với yêu cầu dạy và học môn tiếng Anh trong
tình mới.
Các số liệu, kết quả điều tra, khảo sát thực trạng đội ngũ giáo viên trong
phạm vi 5 năm từ 2008 đến 2013.
5. Giả thuyết khoa học
Chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh các trường Trung học cơ sở huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu là nội dung rất quan trọng nếu trong quá trình chuẩn hóa chủ
thể quản lý đề xuất và thực hiện tốt các biện pháp như: nâng cao nhận thức về
vai trò tầm tầm quan trọng của chuẩn hóa giáo viên tiếng Anh; xác định mục tiêu
chuẩn hóa; xây dựng nội dung chuẩn hóa; tiến hành tốt các phương pháp, hình
thức chuẩn hóa; phát huy vai trò của Hiệu trưởng trong quá trình chuẩn hóa; bảo
đảm các điều kiện thực hiện chuẩn hóa giáo viên dạy môn tiếng Anh viên thì
chất lượng giảng dạy môn tiếng Anh của các trường Trung học cơ sở sẽ không
ngừng được nâng lên.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và cơ sở lý luận theo đường lối, quan điểm của Đảng


15
Cộng sản Việt Nam; Chỉ thị, Hướng dẫn của các cấp về giáo dục và đào tạo và
quản lý giáo dục đào tạo mà trực tiếp nhất là chuẩn hóa đội ngũ giáo viên.
Để đạt được mục đích nghiên cứu và luận giải các nhiệm vụ của đề tài,
chúng tôi sử dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc; lịch sử - lôgíc;

quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của
chuẩn hoá đội ngũ giáo viên nói chung và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên tiếng Anh
các trường Trung học cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thực hiện việc thu thập, nghiên cứu tài liệu; phân tích, tổng hợp, hệ thống
hoá, khái quát hoá các tài liệu về giáo dục và đào tạo, đặc biệt là những tài liệu
có liên quan đến chuẩn hoá đội ngũ giáo viên; nghiên cứu Nghị quyết của Đảng
uỷ, ủy ban nhân tỉnh, kế hoạch chuẩn hoá đội ngũ giáo viên ở các trường Trung
học cơ sở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Phương pháp nghiên cứu từ các sản phẩm, công cụ quản lý: Chương trình,
quy trình đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn đội ngũ giáo viên tiếng Anh.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong công tác chuẩn hoá đội ngũ giáo viên các
trường trung học cơ sở; hoạt động dạy học, giáo dục, hoạt động học tập nâng cao
trình độ, rèn luyện của đội ngũ giáo tiếng Anh để rút ra những kết luận về nội
dung nghiên cứu.
Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học bằng phiếu đối với 150 phiếu. Đối
tượng điều tra bao gồm: Giáo viên 100 phiếu; cán bộ lãnh đạo quản lý 50 phiếu.
Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Toạ đàm, trao đổi với đội ngũ giáo viên
tiếng Anh, cán bộ quản lý giáo dục về chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh và
thực trạng về chuẩn hoá đội ngũ giáo viên của các trường Trung học cơ sở.


16
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu báo cáo tổng kết năm học,
kết quả chuẩn hoá đội ngũ giáo viên tiếng Anh ở các trường Trung học cơ sở.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học, cán bộ quản
lý giáo dục về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới việc nghiên cứu

của đề tài.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết
quả nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Từ những kết quả nghiên cứu lý luận về chuẩn hóa đội ngũ giáo viên tiếng
Anh các trường Trung học cơ sở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc liêu thành công sẽ
góp phần rất quan trọng giúp cho các nhà quản lý giáo dục, ứng dụng việc chuẩn
hóa GV tiếng Anh THCS các địa phương khác và cũng là tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu chuẩn hóa và phát triển giáo viên trong tỉnh hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 3 chương (10 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


17
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUẨN HÓA GIÁO VIÊN TIẾNG ANH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chuẩn hoá
Chuẩn là cái được đặt ra và mang tính pháp lý để là thước đo đo lường số
lượng, trong lượng, giá trị hoặc chất lượng. Chuẩn Theo từ điển Tiếng Việt
(Hoàng Phê chủ biên) có 3 nghĩa; Là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để
hướng tới theo đó làm cho đúng; Là vật được chọn làm mẫu để thể hiện một
đơn vị đo lường; Là cái được công nhận đúng theo quy định hoặc thói quen
trong xã hội. Thuật ngữ “chuẩn hoá” được sử dụng phổ biến hiện nay trên
nhiều lĩnh vực như: kinh doanh, dịch vụ, sản xuất, giáo dục, y tế, thể thao… Do
đó, khái niệm “chuẩn hoá” có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo quan niệm của Quốc tế về “chuẩn hoá” (Standardization) là những
quá trình là cho các sự vật, đối tượng thuộc phạm trù nhất định (kinh doanh, dịch

vụ, sản xuất, giáo dục, y tế, thể thao…) đáp ứng được các chuẩn đã ban hành
trong phạm vi áp dụng và hiệu lực của các chuẩn đó. Đồng thời, chuẩn hoá cũng
có nghĩa nói đến những sự vật, đối tượng đã đạt chuẩn, có tính chuẩn, thí dụ trắc
nghiệm chuẩn hoá, phần mềm chuẩn hoá, văn bản hành chính chuẩn hoá… như
là những kết quả của việc áp dụng chuẩn, tuân thủ chuẩn.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt “Chuẩn hóa” nghĩa là “xác lập chuẩn mực”.
Theo đó, có thể hiểu chuẩn hóa là một quá trình xác lập chuẩn mực về một lĩnh
vực nào đó trong đời sống, xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, chuẩn hoá là “làm cho trở thành có chuẩn rõ
ràng”. Theo quan niệm trên, thì chuẩn hoá là làm cho đối tượng có những tiêu
chuẩn có thể xác định được định lượng, định tính.


18
Như vậy, chuẩn hoá là một hoạt động có mục đích, có kế hoạch của chủ
thể, nhằm tác động vào một đối tượng nào đó, làm cho nó biến đổi đáp ứng yêu
cầu tiêu chuẩn đã xác định.
Muốn chuẩn hoá một đối tượng nào đó thì chủ thể phải xác định tiêu
chuẩn của đối tượng đó. Tiêu chuẩn chính là căn cứ để xác định, để làm thước đo
đánh giá hoạt động, công việc, sản phẩm, dịch vụ..., đồng thời để đối chiếu, để
hướng theo mà làm cho đúng. Căn cứ vào tiêu chuẩn mà chủ thể tìm ra các biện
pháp tác động làm cho đối tượng biến đổi phát triển nhằm đạt được kết quả
mong muốn.
Như vậy, từ khái niệm trên có thể thấy rằng chuẩn hoá có các chức năng
cơ bản là: Định hướng các hoạt động quản lý và thực hiện các chức năng, các
nhiệm vụ, các biện pháp quản lý khác nhau trên những nguyên tắc nhất quán;
Quy cách hoá sản phẩm và các quá trình tạo ra sản phẩm (nguồn lực, công nghệ,
phương tiện...), làm cho chúng có tính chuẩn mực thống nhất, tức là đưa những
đối tượng này vào trật tự nhất định; khuyến khích sự phát triển, tạo môi trường ngày
càng thích hợp hơn cho sự phát triển đồng thời ngày càng hạn chế những nhân tố tự

phát, phi chính thức trong phát triển hoặc những nhân tố phản phát triển.
Cái được chọn làm chuẩn, làm mục tiêu của chuẩn hoá có nhiều cấp độ.
Chuẩn hoá trong giáo dục đang được bàn đến với nội hàm rất rộng: Chuẩn hoá
các khâu, các bước; chuẩn hoá các nhân tố; chuẩn hoá toàn bộ quá trình giáo dục
và đào tạo hoặc chuẩn hoá cấp trường, chuẩn hoá cấp ngành, chuẩn quốc gia,
chuẩn quốc tế. Giáo dục hiện đại chỉ ra rằng, các nhân tố của quá trình giáo dục
có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa chế ước nhau, ràng buộc lẫn nhau, vừa
hỗ trợ nhau, tác động vào nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến các nhân tố khác.
1.1.2. Khái niệm chuẩn hoá giáo viên tiếng Anh trung học cơ sở
Chuẩn hoá giáo viên tiếng Anh Trung học cơ sở là một hoạt động mang
tính mục đích, tính kế hoạch của các chủ thể quản lý giáo viên tiếng Anh. Chủ


19
thể quản lý đó là: Chi bộ, Ban Giám hiệu (là người đại diện cao nhất trong nhà
trường). Đó là những chủ thể trực tiếp hay gián tiếp tiến hành các hoạt động tác
động vào khách thể chuẩn hoá là giáo viên tiếng Anh. Các hoạt động chuẩn hoá
của chủ thể tiến tới thực hiện mục tiêu là làm cho khách thể biến đổi, phát triển
về số lượng và chất lượng đạt được mục đích chuẩn hoá của nhà trường đề ra là:
chuẩn hoá về đầu vào, trình độ, kỹ năng sư phạm, chức danh, tin học – ngoại ngữ.
Việc tiến hành hoạt động chuẩn ngũ giáo viên tiếng Anh các trường trung
học cơ sở của các chủ thể phải được thể hiện ở tính kế hoạch hoá, thực hiện bằng
kế hoạch và mang tính mục đích rõ dàng. Kế hoạch chuẩn hoá là một văn bản
pháp lý để các lực lượng trong nhà trường quán triệt và tổ chức thực hiện một
cách nghiêm túc và có hiệu quả cao, trong đó vai trò quyết định là các chủ thể và
khách thể của việc chuẩn hoá. Kế hoạch được xây dựng trên cơ sở khoa học,
xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đội ngũ nhà giáo nói chung,
của các trường trung học cơ sở và căn cứ vào các văn bản, hướng dẫn về công
tác chuẩn hoá, phát triển, quy hoạch cán bộ, giáo viên của nhà trường, bộ môn
tiếng Anh. Có kế hoạch dài hạn, ngắn hạn theo nhiệm vụ năm học hay theo

nhiệm kỳ của chi bộ nhà trường. Kế hoạch đó được thể hiện ở các Nghị quyết
Đại hội chi bộ nhà trường; Kế hoạch năm học, học kỳ, của cơ quan chức năng.
Trong kế hoạch các chủ thể xây dựng các tiêu chí chuẩn hoá, nội dung và biện
pháp thực hiện từng tiêu chí. Trên cơ sở kế hoạch đã được xây dựng cả chủ thể
và khách thể cùng thực hiện và có sự phối hợp, tác động lẫn nhau và có mối
quan hệ biện chứng trong quá trình hoạt động. Hoạt động chuẩn hoá của chủ thể
và khách thể cùng hướng tới mục đích cao nhất là nâng cao chất lượng giáo viên
tiếng Anh đáp ứng yêu cầu phát triển đổi mới căn bản và toàn diện trong đó có
dạy và học tiếng Anh ở bậc trung học cơ sở.
Thuật ngữ chuẩn hóa giáo viên chỉ việc nâng cao, hoàn thiện trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho các giáo viên đang dạy học.


20
Bồi dưỡng giáo viên để chuẩn hóa được xem là đào tạo lại, cập nhật
kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, ở nước ta có 3 loại hình bồi dưỡng: Bồi
dưỡng thường xuyên theo chu kỳ, bồi dưỡng chuẩn hóa và bồi dưỡng để
dạy chương trình sách giáo khoa mới.
Chuẩn hóa cần làm cho giáo viên tham gia bồi dưỡng có những hiểu
biết đầy đủ những yêu cầu về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục; có
kỹ năng dạy học đảm bảo nguyên tắc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh.
Trước những yêu cầu đổi mới của đất nước, của xã hội, của ngành giáo
dục, yêu cầu đổi mới với người GV rất đa dạng, phong phú. Nhiều kiến thức
của các lĩnh vực khác nhau cần được trang bị để nâng cao trình độ.
Thế giới đã quen dùng thuật ngữ giáo dục GV (Teacher education) để chỉ
việc đào tạo GV bao gồm cả việc đào tạo tiếp tục sau đào tạo ban đầu trước khi
dạy học (Preservice training, initial T) và đào tạo tiếp tục sau đào tạo ban đầu, tiến
hành khi GV đang dạy học (In – service T, postinitial T). Nước ta thường dùng
thuật ngữ đào tạo GV và bồi dưỡng GV. Điều này có ưu điểm là đào tạo ban đầu

với bồi dưỡng sau đào tạo, vốn có một số đặc điểm khác nhau, nhưng đồng thời
có nhược điểm là chưa phản ánh được quan điểm đào tạo liên tục, tiếp nối, thường
xuyên trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của người GV.
Từ sự những phân tích ở trên chúng tôi cho rằng: Chuẩn hoá giáo viên
tiếng Anh các trường Trung học cơ sở là một hoạt động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý, nhằm tác động vào giáo viên tiếng Anh để đạt được
các tiêu chí về số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ
giảng dạy môn tiếng Anh của nhà trường.
Để tiến hành chuẩn hoá giáo viên tiếng Anh trung học cơ sở đạt được mục
tiêu đề ra, các chủ thể tiến hành đồng bộ các cách thức, biện pháp tác động vào
giáo viên để tạo ra sự biến đổi về chất lượng và số lượng. Trên cơ sở các chủ


21
trương biện pháp lãnh đạo của chi bộ, Ban giám hiệu, xây dựng kế hoạch hoá
việc chuẩn hoá đội ngũ, phân công, phân cấp quản lý việc thực hiện kế hoạch,
khuyến khích phát triển, tạo môi trường thuận lợi hơn cho mỗi giáo viên tự học
tập, tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu vươn lên đạt chuẩn, xây dựng và phát triển đội
ngũ đạt chuẩn về chất lượng, số lượng và cơ cấu.
Với vai trò là chủ thể của chuẩn hoá giáo viên: Chi bộ, Ban Giám hiệu;
thực hiện các chủ trương, biện pháp chuẩn hoá.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng tham mưu, hướng dẫn, triển khai thực
hiện các biện pháp chuẩn hoá; đề xuất các nội dung, hình thức, phương pháp
chuẩn hoá, theo dõi kết quả thực hiện, sơ kết, rút kinh nghiệm chuẩn hoá, góp
phần xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Anh của nhà trường.
GV có một vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng giáo
dục. Vấn đề này đã được xác định trong Điều 15 của Luật Giáo Dục: “Nhà
giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục.”
Trong nhà trường, đội ngũ GV có vai trò quan trọng trong việc đào tạo
rèn luyện, phát triển trí tuệ nhân cách cho thế hệ trẻ. Ở tầm vĩ mô, đội ngũ GV

góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục
vụ sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Ở những thập kỉ qua, người thầy luôn giữ vai trò quan trọng là cầu nối
giữa nền văn hóa dân tộc và nhân loại với việc tái hiện và phát triển nền văn
hóa ấy ở thế hệ trẻ. Thầy giáo là người giúp học sinh biến tinh hoa của nền
văn hóa thành tài sản riêng của mình. Trong nhà trường thầy giáo là người tổ
chức chính và quyết định chất lượng đào tạo.
Nghị quyết TW 2 (Khóa VIII) đã chỉ rõ: “GV phải có đủ đức, đủ tài”...
“phải nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ GV”. Phẩm chất “đức” và
năng lực “tài” là hai bộ phận tạo nên cấu trúc nhân cách của mỗi con người,
trong đó có GV. Nói đến phẩm chất là nói đến hệ thống những thuộc tính tâm


22
lí biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi người, thường được thể
hiện ra những thái độ, hành vi ứng xử. Nói đến năng lực là nói đến những
thuộc tính tâm lí, sinh lý tạo ra cho con người khả năng hoàn thành một loại
hoạt động nào đó với chất lượng cao. Phẩm chất và năng hòa quyện vào nhau,
chi phối lẫn nhau.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của ngoại ngữ trong công
cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, Đảng và Chính phủ đã có nhiều
văn kiện về việc đẩy mạnh việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân nước ta.
Ngày 11 tháng 4 năm 1968, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số
43/TTg về phương hướng và nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ ở các trường đại
học, trung học chuyên nghiệp và các trường phổ thông. Chỉ thị nêu rõ dạy và
học một ngoại ngữ ở các trường cấp II và phấn đấu dạy và học hai ngoại ngữ
ở các trường cấp III. Các thứ tiếng được dạy là: tiếng Nga, tiếng Trung Quốc,
tiếng Anh và tiếng Pháp.
Điều 24 của Luật Giáo dục (1998) cũng khẳng định vị trí quan trọng

của ngoại ngữ trong nội dung học vấn phổ thông và đề ra yêu cầu bảo đảm
cho học sinh có kiến thức cơ bản về ngoại ngữ.
Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội khoá 10 về đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông đã yêu cầu xây dựng đề án dạy và học ngoại
ngữ ở trường phổ thông đến năm 2010.
Ngày 11/6/2001, Thủ tướng chính phủ ra Chỉ thị số14/2001/CT-TTg về
đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, trong đó yêu cầu xây dựng
đề án “Giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong trường phổ thông.”
Báo cáo của Chính phủ tại kì họp thứ 6 Quốc hội khoá XI (12/2004)
cũng đã nêu lên một trong những giải pháp đẩy mạnh khả năng chủ động hợp
tác quốc tế trong giáo dục là “Triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ


23
trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủyếu vào tiếng Anh, khuyến
khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học
và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) ở
một số môn học, ngành học.”
Kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật giáo dục (sửa
đổi), trong đó có quy định tại Điều 7, mục 3 như sau: “Ngoại ngữ được quy
định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong
giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo
dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả”.
Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 30 tháng 9 năm
2008 đã thông qua Quyết định Số: 1400/QĐ-TTg về phê duyệt đề án “Dạy
và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”.
Tiếng Anh với tư cách là một môn ngoại ngữ, là môn văn hoá cơ bản,
bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông, là một bộ phận không thể
thiếu của học vấn phổ thông. Trong nhà trường môn tiếng Anh đã được tổ
chức dạy cho học sinh từ lớp 3.

Mục tiêu dạy học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng ở các
trường THCS là hình thành, bổ sung và phát triển ở học sinh những kiến thức,
kỹ năng cơ bản về ngoại ngữ, góp phần phát triển trí tuệ cần thiết để có thể
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Ngoài ra, nó còn cung cấp
cho học sinh một công cụ giao tiếp mới để tiếp thu những tri thức khoa học,
kĩ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hoá đa dạng và phong phú trên thế
giới, dễ dàng hội nhập với cộng đồng quốc tế.
1.2. Nội dung chuẩn hoá giáo viên tiếng Anh Trung học cơ sở
1.2.1 Những căn cứ chuẩn giáo viên tiếng Anh Trung học cơ sở
Phát triển, chuẩn hóa giáo viên các trường phải dựa trên quan điểm,
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công


×