Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo của chi bộ khu phố ở quận gò vấp, thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.12 KB, 100 trang )

2

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN NGỌC ANH

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA CHI BỘ KHU PHỐ Ở QUẬN GÒ VẤP,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN NGỌC ANH

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA CHI BỘ KHU PHỐ Ở QUẬN GÒ VẤP,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
MÃ SỐ: 60 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN PHƯƠNG ĐÔNG


HÀ NỘI - 2014


3

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban điều hành

BĐH

Chi bộ khu phố

CBKP

Năng lực lãnh đạo

NLLĐ

Tập trung dân chủ

TTDC

Trong sạch, vững mạnh

TSVM


Thành phố Hồ Chí Minh

TP HCM

Tổ chức cơ sở đảng

TCCSĐ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC

Trang
3

TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
CHI BỘ KHU PHỐ Ở QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH

13

1.1 Chi bộ khu phố và những vấn đề cơ bản nâng cao năng
lực lãnh đạo của chi bộ khu phố ở quận Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh
1.2 Thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng

13

cao năng lực lãnh đạo của chi bộ khu phố ở quận Gò

Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh

37

Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO CỦA CHI BỘ KHU PHỐ Ở QUẬN GÒ VẤP,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

2.1

56

Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và phương hướng,
yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của chi bộ khu phố

ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
2.2 Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh đạo

56

của chi bộ khu phố ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

63
84
86

89


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn tự đổi mới, chỉnh
đốn nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo (NLLĐ) để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng đặt ra. NLLĐ của Đảng có vị trí, vai trò vô
cùng quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng; trực tiếp quyết định vai
trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng và thành công của sự nghiệp cách mạng.
Chi bộ khu phố (CBKP) có vai trò hết sức quan trọng, là tế bào của
Đảng, nơi trực tiếp thực hiện sự lãnh đạo của Đảng tới quần chúng nhân dân
nơi cư trú, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ đảng
viên và là hạt nhân chính trị ở khu phố. Vì vậy, NLLĐ của CBKP có vai trò, vị
trí hết sức quan trọng, là một nhân tố căn bản góp phần quyết định chất lượng
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Do
đó, nâng cao NLLĐ của CBKP có ý nghĩa to lớn trong công tác xây dựng Đảng
ở địa phương. Ý thức được điều đó, những năm qua Quận uỷ Gò Vấp đặc biệt
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nâng cao NLLĐ của các CBKP.
Thực tiễn những năm qua NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí
Minh đã thể hiện qua việc lãnh đạo toàn diện trong khu dân cư; lãnh đạo thực
hiện chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước thông qua các cuộc
họp giao ban giữa cấp ủy với Ban điều hành (BĐH) khu phố và các tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội để kiểm điểm nhiệm vụ đã được phân công và triển khai
nhiệm vụ trong thời gian tới. Trong thực hiện nhiệm vụ tại khu phố, các CBKP ở
quận Gò Vấp TP.Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân làm ăn, phát triển sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật;
quan tâm đến thực hiện chương trình giảm hộ nghèo, tăng hộ khá, đặc biệt quan

tâm chăm lo cho những hộ không có khả năng lao động đang hưởng trợ cấp xã
hội. Lãnh đạo nhân dân chấp hành nghiêm các quy định, Hiến pháp, pháp luật về


4
quản lý đô thị, đất đai, trật tự xây dựng, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm;
thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” vận động nhân dân
đóng góp xây dựng, sửa chữa và quản lý tốt các công trình phúc lợi ở khu dân
cư. Tổ chức thực hiện tốt nội dung Quy chế dân chủ ở cơ sở, đối với những việc
cần công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Lãnh đạo
nhân dân thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư” gắn với thực hiện phong trào “Thực hiện nếp sống văn minh
– mỹ quan đô thị” và phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy NLLĐ của các CBKP ở quận Gò Vấp, TP.Hồ
Chí Minh chưa ngang tầm nhiệm vụ, còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm, đó
là: khả năng quán triệt, vận dụng cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và xác định chủ trương, biện pháp lãnh
đạo còn thiếu cụ thể, chưa sát thực tiễn từng khu phố; trong xây dựng các nghị
quyết lãnh đạo của chi bộ chưa phát huy được trí tuệ của tập thể; một số cấp uỷ, bí
thư chi bộ NLLĐ, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ và khả năng vận động, tập hợp,
phát huy trí tuệ, sức mạnh của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Tổ chức chi đoàn khu
phố chưa được phủ kín các tổ dân phố, hoặc đã có nhưng hoạt động chưa hiệu quả.
Công tác tạo nguồn kết nạp đảng của CBKP còn hạn chế, có CBKP nhiều năm liền
không kết nạp được đảng viên mới.

Hiện nay, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của
thành phố, của quận có sự phát triển cả về diện rộng và chiều sâu, đòi hỏi phải
nâng cao NLLĐ của các CBKP. Vì vậy, đi sâu nghiên cứu góp phần làm sáng
rõ thêm những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn Nâng cao năng lực lãnh

đạo của chi bộ khu phố ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài


5
Năng lực lãnh đạo và nâng cao NLLĐ của Đảng là một vấn đề lớn, có ý
nghĩa quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi
mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, nghiên cứu nâng cao NLLĐ
của Đảng luôn được sự quan tâm của Đảng, các đồng chí lãnh đạo cao cấp
của Đảng và các nhà khoa học. Thực tế đã có khá nhiều các văn kiện nghị
quyết của Đảng, các công trình khoa học, các bài viết đăng tải trên các tạp chí
khoa học bàn về NLLĐ và nâng cao NLLĐ của Đảng, của các tổ chức cơ sở
đảng. Trong những năm gần đây nổi lên một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu mang tính chuyên sâu như:
* Các đề tài khoa học ở các cơ quan, đơn vị dân chính Đảng:
Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng
TCCSĐ ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện
nay”, do Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10 năm 1998. Đề
tài tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và vị trí vai trò, đồng
thời đánh giá thực trạng xây dựng TCCSĐ ở nông thôn một số tỉnh miền núi,
vùng cao phía Bắc nước ta. Trên cơ sở đó đề tài xác định một số giải pháp để
củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi, cao phía Bắc tổ quốc.
Nguyễn Đức Ái, Nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng
nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
Luận án Tiến sĩ Chính trị học, H, 2001. Tác giả tập trung làm những rõ cơ sở
lý luận và thực trạng NLLĐ, từ đó tác giả đưa ra những những giải pháp cơ
bản để nâng cao NLLĐ của TCCSĐ ở nông thôn vùng cao phía Bắc.
* Các đề tài khoa học trong Đảng bộ Quân đội:
Nguyễn Quang Trung, Nâng cao chất lượng tập thể lãnh đạo, cá nhân

phụ trách của cấp ủy cơ sở thuộc Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện
nay, luận văn thạc sỹ xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, H, 2013.
Luận văn đã tập trung luận giải, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chất lượng và


6
nâng cao chất lượng tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách của cấp ủy cơ sở
thuộc Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 2; tác giả cho rằng tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt
Nam; là phương pháp căn bản để phát huy trí tuệ của tập thể và trách nhiệm
của từng cá nhân, góp phần nâng cao NLLĐ, sức chiến đấu của Đảng và là
một trong những đặc trưng thể hiện bản chất giai cấp công nhân, tính cách
mạng và khoa học của Đảng Cộng sản; đồng thời luận văn đánh giá ưu,
khuyết điểm rút ra nguyên nhân và 5 bài học kinh nghiệm từ đó đề xuất 5 giải
pháp nâng cao chất lượng tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách như sau: Tăng
cường giáo dục, quán triệt tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của đội ngũ
đảng ủy viên của các đảng ủy cơ sở đối với nâng cao chất lượng tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách; Củng cố, kiện toàn đảng ủy cơ sở đủ về số lượng, có
cơ cấu hợp lý, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo hiện nay;
Nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng ủy cơ sở, đề cao tự phê bình và phê bình,
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện
nghiêm quy chế, đổi mới phong cách và lề lối làm việc của đảng uỷ cơ sở;
Phát huy vai trò, trách nhiệm của đảng ủy cơ sở, đội ngũ cán bộ chủ trì và mọi
cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy trình lãnh đạo của đảng uỷ.
Nguyễn Quyết Thắng, Đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của
chi bộ đại đội học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay, luận văn thạc sỹ
Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, H, 2012. Tác giả đã đi sâu phân
tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và vai trò của nội dung, phương pháp lãnh
đạo và đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của chi bộ đại đội học viên,
chỉ ra những yếu tố tác động và yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp lãnh

đạo. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất 4 giải pháp cơ bản đổi mới nội dung,
phương pháp lãnh đạo của chi bộ đại đội học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1


7
như sau: Nâng cao nhận thức của cấp ủy, chi bộ đại đội học viên Trường Sĩ
quan Lục quân 1 về đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo; Phát huy vai
trò, trách nhiệm của chi ủy, chi bộ đại đội học viên Trường Sĩ quan Lục quân
1 tự đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo; Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng ủy Nhà trường, Phòng Chính trị, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
đảng ủy tiểu đoàn về đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của chi bộ đại
đội học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay; Thường xuyên sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của chi bộ đại
đội học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay.
* Sách tham khảo và báo khoa học:
Sách tham khảo: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ
mới” GS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần
Khắc Việt đồng chủ biên-Nxb CTQG-Hà Nội-2004; “Nâng cao NLLĐ và
SCĐ của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác
giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội- năm 2004.
Giáo trình tham khảo: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ
mới” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS Lê Văn Dương (chủ
biên); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức đảng trong quân đội bảo
đảm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ trong mọi tình huống” Nxb Quân đội nhân dân, H, 2000. Các tài liệu
tham khảo chủ yếu đề cập tới những đặc điểm, kinh nghiệm, những yếu tố
tác động đến hoạt động lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay, đề
xuất một số giải pháp có tính định hướng, nhằm từng bước nâng cao NLLĐ
của của Đảng, của các tổ chức cơ sở đảng nhằm xây dựng tổ chức đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức đủ sức lãnh đạo cơ quan, đơn vị

hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


8
Các bài báo khoa học về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao
NLLĐ trong Đảng bộ Quân đội:
Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Tiếp tục nâng cao NLLĐ, sức chiến đấu
của Đảng bộ Quân đội theo Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tạp chí
Quốc phòng Toàn dân số 2 – 2014. Bài viết đã đánh giá, làm rõ kết quả 8 năm
thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW ngày 20 tháng 7 năm 2005 của Bộ Chính trị,
từ đó đề xuất năm nội dung cần tiếp tục thực hiện để nâng cao NLLĐ, sức
chiến đấu của Đảng bộ Quân đội gồm: tiếp tục làm tốt công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực
hiện Nghị quyết 51 ở từng cấp, từng đơn vị; tập trung xây dựng các tổ chức
đảng trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính
trị; chủ động tạo nguồn đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng đủ số lượng và nâng cao
chất lượng đội ngũ chính ủy, chính trị viên, cán bộ đảm nhiệm công tác đảng,
công tác chính trị và người chỉ huy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Quân đội
trong giai đoạn mới; chăm lo xây dựng cơ quan chính trị các cấp vững mạnh
toàn diện; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong công tác xây dựng
Đảng.
Nguyễn Văn Tuý, Đảng bộ Biên phòng tỉnh Nghệ An: Nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 03 –
2012. Bài viết đã khái quát đặc điểm tình hình địa bàn đóng quân của bộ đội
Biên phòng Nghệ An tác động tới NLLĐ, sức chiến đấu của Đảng bộ và đánh
giá những ưu điểm, hạn chế khuyết điểm trong nâng cao NLLĐ, sức chiến
đấu của toàn đảng bộ, trên cơ sở đó tác giả đề xuất 3 giải pháp nâng cao
NLLĐ, sức chiến đấu của Đảng bộ Bộ đội Biên phòng Nghệ An đó là Tiếp tục
đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và cấp uỷ các cấp trong toàn Đảng bộ;

nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, gắn xây dựng đội ngũ đảng viên với


9
quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ; đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng, mở rộng dân chủ, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, phát huy vai trò
của quần chúng trong công tác xây dựng đảng.
Các bài báo khoa học về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao
NLLĐ ở các đơn vị dân chính đảng:
Nguyễn Thành Dũng, Xây dựng đội ngũ cấp ủy viên cơ sở ở Krông Pắc,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 03 – 2014. Bài viết đã khái quát đặc điểm địa bàn
huyện Krông Pắc; đánh giá những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong xây dựng đội ngũ cấp ủy viên cơ sở ở đảng bộ huyện là do nhận
thức về vai trò, vị trí và sự quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ cấp ủy
viên cơ sở ở một số tổ chức đảng, đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ chủ chốt
chưa sâu sắc; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình
chưa tốt… trên cơ sở đó tác giả đề xuất 4 giải pháp xây dựng đội ngũ cấp ủy
viên cơ sở ở huyện Krông Pắc là: nâng cao NLLĐ, sức chiến đấu của TCCSĐ
để tạo điều kiện xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên cơ sở;
hoàn thiện quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể và rèn luyện các cấp
ủy viên trong thực tiễn; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; thực
hiện tốt công tác cán bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; thực hiện tốt việc đánh
giá chất lượng TCCSĐ và đội ngũ cấp ủy viên cơ sở.
Nguyễn Văn Huyên, Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng đáp ứng yêu
cầu hoạt động của hệ thống chính trị, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 01 – 2013.
Bài báo đã làm rõ Chức năng, vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị
và NLLĐ của Đảng, từ đó tác giả đã đề xuất một số giải pháp nâng cao NLLĐ
của Đảng đối với hệ thống chính trị như sau: Rèn luyện phẩm chất đạo đức, lý
tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị, biết đặt lợi ích Tổ quốc, nhân dân trên hết.
Học tập nâng cao trí tuệ, tài năng, tầm nhìn khi quyết định những vấn đề trọng

đại của quốc gia. Không ngừng đổi mới tư duy, nâng cao năng lực hoạt động


10
thực tiễn. Kết hợp đúng đắn, khoa học, nhuần nhuyễn nguyên lý xây dựng
CNXH với thực tiễn sinh động của đất nước, nâng cao khả năng phán đoán thời
cuộc một cách khoa học. Nhận thức đúng và phán đoán tình hình thế giới và
thời cuộc chính xác có ý nghĩa quyết định đối với chiến lược phát triển đất
nước. Nắm chắc quy luật vận động của xã hội và quá trình xây dựng xã hội
XHCN. Nâng cao năng lực vận hành và kỹ năng điều hành Nhà nước pháp
quyền XHCN. Nâng cao kỹ năng điều hành cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ: Đảng lãnh đạo phải bảo đảm nhân dân
làm chủ và quản lý đất nước bằng pháp luật. Người lãnh đạo, kể cả người lãnh
đạo cao cấp trong hệ thống chính trị phải thường xuyên được đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và khoa học lãnh đạo, khoa học quản lý.
Đỗ Phương Đông, Nâng cao năng lực lãnh đạo của cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 07 – 2013. Tác giả đã luận giải,
làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và vị trí, vai trò của cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn và làm nổi bật tính chất, đặc điểm tình hình của cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn. Từ đó tác giả đề xuất giải pháp nâng cao NLLĐ của cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn đó là: tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX) và Trung ương 6 (khóa X) và các văn bản khác của Đảng về xây dựng
TCCSĐ trong sạch, vững mạnh. Xây dựng quy chế làm việc của cấp uỷ, thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, giữ
nghiêm kỷ luật, tăng cường đoàn kết trong Đảng. Nâng cao chất lượng các kỳ
họp, năng lực quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở. Đổi mới cách ra nghị
quyết của cấp uỷ, HĐND. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Thực hiện
tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật tạo
thuận lợi cho hoạt động của cấp uỷ cơ sở. Gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa
vào dân xây dựng Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.



11
Các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập khá hệ thống đến NLLĐ
và nâng cao NLLĐ nhưng với đối tượng, phạm vi khá rộng. Tuy nhiên, chưa
có công trình, bài viết nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận,
thực tiễn cũng như nội dung, giải pháp nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò
Vấp TP HCM. Vì vậy, tác giả luận văn hy vọng những nghiên cứu của mình
sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp khả thi
nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp TP HCM hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn về NLLĐ, nâng cao NLLĐ của CBKP, đề
xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp, TP
HCM hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ cơ sở lý luận về NLLĐ, nâng cao NLLĐ của CBKP
ở quận Gò Vấp.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm về nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp.
- Xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp, TP HCM hiện nay là đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao NLLĐ của CBKP ở
quận Gò vấp. Các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát chủ yếu từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
* Cơ sở lý luận của đề tài



12
Những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng, xây dựng tổ
chức cơ sở đảng, xây dựng cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Trực tiếp về
NLLĐ của tổ chức Đảng, NLLĐ của chi bộ.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài
Toàn bộ thực tiễn nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò Vấp, TP HCM
trong những năm qua; các tổng kết, báo cáo về hoạt động CBKP ở quận Gò
Vấp và tổ chức đảng thuộc Đảng bộ quận Gò Vấp. Đồng thời, luận văn quan
tâm tới các tài liệu tổng kết kinh nghiệm nâng cao NLLĐ của các chi bộ trên
địa bàn TP HCM.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Mác-Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp
các phương pháp của các khoa học liên ngành, chuyên ngành, trong đó chú
trọng các phương pháp: Kết hợp lôgíc với lịch sử, phân tích tổng hợp, so
sánh, tổng kết thực tiễn...
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp thêm cơ sở khoa học cho
cấp ủy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao NLLĐ của CBKP ở quận Gò
Vấp nói riêng và TP HCM nói chung, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên
cứu, bồi dưỡng học tập môn chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền
nhà nước ở các trường chính trị địa phương.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.



13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CHI BỘ KHU PHỐ Ở QUẬN GÒ VẤP,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.1. Chi bộ khu phố và những vấn đề cơ bản nâng cao năng lực
lãnh đạo của chi bộ khu phố ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1. Chi bộ khu phố ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
* Khái quát về tình hình quận Gò Vấp, TP HCM
Gò vấp là quận nội thành của TP HCM nằm vào khoảng 106 048’15’’
kinh độ Đông và 1005’29’’ vĩ độ Bắc. Phía Bắc và phía Tây giáp quận 12, phía
Nam giáp quận Tân Bình và quận Phú Nhuận, phía Đông giáp quận Thủ Đức
và quận Bình Thạnh, cách trung tâm TP HCM 7 km. Diện tích tự nhiên của
quận là 19,74 km2; dân số quận Gò Vấp 612.407 người; có 16 phường, 186
khu phố; 1.434 tổ dân phố; nhân dân sinh sống ở quận Gò Vấp có đa dân tộc,
trong đó người Kinh chiếm khoảng 98%; người Hoa chiếm khoảng 1,8%; các
dân tộc còn lại (gồm Tày, Mường, Khơ me, Chăm…) chiếm khoảng 0,2%.
Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao,
quận Gò Vấp là một trong những quận dẫn đầu của TP HCM về giá trị sản
xuất công nghiệp. Các hoạt động thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong cơ cấu kinh tế; tình hình an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã
hội ổn định; trình độ dân trí; an sinh xã hội và đời sống nhân dân từng bước
được nâng lên “Đã phát huy các nguồn lực trong xã hội, các thành phần kinh
tế phát triển, cơ cấu kinh tế bảo đảm chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng thương mại – dịch vụ. Bình quân mức tăng trưởng kinh tế trong nhiệm
kỳ là 13,89%”[44, tr. 13]. Tuy nhiên, “Chất lượng cuộc vận động xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở còn hạn chế” “Hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, vai trò tự quản của nhân dân chưa cao”

[44, tr. 33].


14
* Khu phố ở quận Gò Vấp, TP HCM
“Khu phố không phải là một cấp hành chính mà là một phương thức tổ
chức để điều hòa, phối hợp và kiểm tra, đôn đốc công việc ở khu phố. Khu
phố là địa bàn để tổ chức thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa
khu dân cư, các phong trào văn hóa - xã hội, an ninh trật tự ở khu phố theo kế
hoạch của Ủy ban nhân dân phường, thị trấn. Khu phố còn là địa bàn để Ban
công tác Mặt trận, các tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng ở khu phố triển
khai các hoạt động phong trào quần chúng ở địa phương, dưới sự lãnh đạo của
Cấp ủy Chi bộ khu phố” [44].
Theo Quyết định số 21/2010/QĐ-UBND ngày 29 tháng 3 năm 2010
của UBND TPHCM “Khu phố bao gồm nhiều tổ dân phố liền kề trên một địa
bàn và có từ 700 hộ dân trở lên” [45]. Đối chiếu với quyết định trên ở quận
Gò Vấp , TP HCM hiện nay có 186 khu phố.
* Chi bộ khu phố ở quận Gò Vấp, TP HCM
Về cơ cấu tổ chức CBKP ở quận Gò Vấp, TP HCM được Thành ủy quy
định cụ thể như sau:
- “Chi bộ khu phố, ấp gồm những đảng viên của đảng bộ phường, xã,
thị trấn đang cư trú trong cùng một khu phố, ấp hoặc được đảng uỷ phường,
xã, thị trấn phân công công tác, sinh hoạt ở khu phố, ấp. Chi bộ khu phố, ấp
có dưới 9 đảng viên chính thức, bầu bí thư chi bộ; nếu cần bầu phó bí thư. Chi
bộ có 9 đảng viên chính thức trở lên bầu chi uỷ, bầu bí thư và phó bí thư chi
bộ trong số chi uỷ viên”[42].
- “Khu phố, ấp có dưới 30 đảng viên thì lập chi bộ khu phố, ấp; chi bộ đông
đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng theo liên tổ dân phố, tổ nhân dân”[42].
- “Khu phố, ấp có từ 30 đảng viên trở lên thì lập một số chi bộ theo liên
tổ dân phố, liên tổ nhân dân hoặc chi bộ tổ dân phố, tổ nhân dân”[42].

- “Khu phố, ấp có nhiều chi bộ được thành lập đảng bộ bộ phận khu phố,
ấp (gọi tắt là đảng bộ khu phố, đảng bộ ấp) trực thuộc đảng uỷ phường, xã, thị


15
trấn; thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo hướng dẫn cụ thể của Ban Tổ chức
Thành uỷ”…[42]. Đối chiếu với quy định của Thành uỷ, hiện nay Đảng bộ quận
Gò Vấp có 45 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc; 187 chi bộ khu phố; 16 đảng bộ bộ
phận khu phố; 92 chi bộ trực thuộc đảng bộ bộ phận; với 7.809 đảng viên.
* Đặc điểm CBKP ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Theo Quyết định số 72/2007/QĐ - UBND ngày 10 tháng 5 năm 2007
của chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP HCM: “Khu phố không phải là một cấp
hành chính mà là một phương thức tổ chức để điều hòa, phối hợp và kiểm tra,
đôn đốc công việc ở khu phố. Khu phố là địa bàn để tổ chức thực hiện cuộc
vận động xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, các phong trào văn hóa - xã
hội, an ninh trật tự ở khu phố theo kế hoạch của Ủy ban nhân dân phường, thị
trấn. Khu phố còn là địa bàn để Ban công tác Mặt trận, các tổ chức đoàn thể,
tổ chức quần chúng ở khu phố triển khai các hoạt động phong trào quần
chúng ở địa phương, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy CBKP”[43]. Theo đó CBKP
ở quận Gò Vấp có những đặc điểm sau:
Một là, nhân dân Gò vấp có truyền thống yêu nước và cách mạng lâu
đời. Xuất phát từ vị trí, địa hình, địa thế thuận lợi, Trung ương Đảng và Tỉnh ủy
Sài Gòn – Gia Định (cũ) chọn Gò Vấp làm địa bàn hoạt động của cách mạng,
tại đây Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Sài Gòn – Gia Định đã mở nhiều hội nghị
và cuộc họp quan trọng. Tại Số nhà 302 đường Nguyễn Văn Nghi - Phường
7 (nhà Thầy giáo Tý xưa, Nhà truyền thống Quận nay) cũng là nơi hội họp của
Tỉnh ủy Gia Định và là trụ sở của Ủy ban Mặt trận Việt Minh Gò Vấp năm
1945. Ngày 21 tháng 9 năm 1945 Hội nghị của Tỉnh ủy Gia Định đã nhận định
thực dân Pháp sẽ tấn công và chiếm đóng Gò Vấp trong thời gian tới. Ngay sau
đó Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng võ trang Gò

Vấp triển khai các tuyến phòng thủ chống địch từ phía Sài Gòn ra Gò Vấp, xây
dựng trận địa ở Ga Xóm Thơm, Ngã Ba Chú Ía, Cầu Hang Dưới, Vũng Bèo,
Cầu Bến Phân… khi quân Pháp tấn công vào Gò Vấp, lực lượng võ trang và


16
quần chúng nhân dân đã tích cực tham gia chiến đấu, chặn quân địch tại các
cầu ra vào Sài Gòn như Cầu Bông, Cầu Kiệu, Cầu Thị Nghè, Cầu Tham
Lương… không cho chúng tiến vào Gò Vấp và các vùng ngoại vi Sài Gòn.
Trong suốt 02 cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm và bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ quê hương, Đảng bộ và nhân dân Gò Vấp đã phát huy truyền
thống yêu nước và truyền thống của quê hương góp phần to lớn trong công
cuộc giải phóng dân tộc. Đã có biết bao người con của quê hương Gò Vấp đã
ngã xuống cho sự nghiệp cách mạng tiêu biểu có anh hùng Lê Văn Thọ người
con của mảnh đất Gò Môn - Chiến khu An Phú Đông nổi tiếng (sinh năm
1932 tại xã Thạnh Lộc - Gò Vấp xưa) được Nhà nước tuyên dương danh hiệu
Anh hùng Lực lượng Vũ trang tháng 5 năm 1955.
Ngay sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân
Gò Vấp đã phát huy truyền thống, bắt tay khắc phục những hậu quả chiến
tranh, vượt qua những khó khăn, thách thức trước mắt để xây dựng quê hương
ngày càng giàu đẹp, xứng đáng là quận dẫn đầu của thành phố mang tên Bác.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, hòa với xu thế phát triển chung của
Thành phố và cả nước, Gò Vấp đã có những bước đi vững vàng để thay đổi mọi
mặt. Bên cạnh đó, Gò Vấp đã căn cứ vào điều kiện thực tế của quận chọn cho
mình bước đi riêng phù hợp nên những năm qua đã đạt được những thành quả to
lớn, nhất là các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Hai là, CBKP của quận Gò Vấp có quy mô ở mức trung bình. Theo số
liệu thống kê đến tháng 7 năm 2014, tổng số đảng viên ở CBKP 7.809 đảng
viên, trong đó nam đảng viên 4.883 chiếm tỷ lệ 62,53%, nữ đảng viên 2.926
chiếm 37,47%, đảng viên là cán bộ hưu trí, nghỉ mất sức 1.781 chiếm 22,80%

[PL 5]. Đội ngũ đảng viên của CBKP quận Gò Vấp được hình thành từ nhiều
nguồn: Bộ đội xuất ngũ, cán bộ công chức nghỉ hưu, nghỉ mất sức và nghỉ theo
chế độ, chuyển từ địa phương khác đến, cán bộ công chức sinh hoạt tại địa
phương, phát triển tại chỗ..v.v. Nhìn chung, trình độ học vấn, trình độ chuyên


17
môn - nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị không đồng đều. Số lượng đảng viên
có trình độ học vấn cao chưa nhiều, cụ thể trình độ chuyên môn nghiệp vụ: cao
đẳng đạt 3,93%; đại học đạt 44,4%, trình độ sau đại học chỉ có 1,46%; trình độ
lý luận chính trị sơ cấp chiếm 41,77%, trình độ trung cấp lý luận chính trị đạt
26,80%, trình độ cao cấp chính trị và cử nhân chính trị chỉ 6,01% [PL 5].
Ba là, hoạt động lãnh đạo của các CBKP ở quận Gò Vấp rất đa dạng,
phong phú. Xuất phát từ cơ cấu ngành nghề, đặc điểm dân cư, tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn quận nhanh và không đồng đều, có nhiều phường
thương mại dịch vụ phát triển mạnh như: Phường 3, Phường 7, phường 8,
phường 9, Phường 10, phường 11 và Phường 17; bên cạnh đó, tốc độ phát triển
ngành dịch vụ - thương mại, cơ cấu ngành nghề kinh doanh chưa đều giữa các
khu phố; hơn nữa, tình hình chấp hành kỷ cương, pháp luật, tình hình an ninh
trật tự, an toàn xã hội, trình độ dân trí cũng có sự chênh lệch giữa các phường và
trong từng khu phố trên địa bàn quận nên hoạt động lãnh đạo của từng CBKP về
cơ bản giống nhau nhưng có những điểm khác nhau để sát hợp với điều kiện cụ
thể. Mặt khác, với đặc thù phát triển công nghiệp của quận là công nghiệp xen
cài dân cư nên khác với những nơi phát triển công nghiệp tập trung. Chính từ
những vấn đề nêu trên, nên chi bộ từng khu phố xác định nhiệm vụ trọng tâm, để
lãnh đạo khác nhau; cũng từ đó mà đối tượng lãnh đạo, yêu cầu, các chủ trương
lãnh đạo, biện pháp tổ chức thực hiện nghị quyết ở từng CBKP có tính đa dạng,
phong phú. Từ đặc điểm này CBKP cần phải bám sát tình hình cụ thể để xác
định mục tiêu, chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, sát đúng góp phần nâng
cao đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn trong khu phố.

Bốn là, đại bộ phận đảng viên và chi ủy của CBKP ở Gò Vấp đều là
những người có kinh nghiệm thực tiễn, từng trải qua các cương vị khác nhau
trong các tổ chức chính trị - xã hội, gắn bó và gần gũi với đời sống các tầng
lớp nhân dân cho nên nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
người dân. Hầu hết đảng viên ở CBKP có tâm huyết, luôn trăn trở mong


18
muốn lãnh đạo khu phố vươn lên, đời sống của người dân ngày càng được cải
thiện về mọi mặt, tình hình an ninh trật tự xã hội luôn được giữ vững. Thực tế
cho thấy, những kết quả đạt được ở từng khu phố đã thể hiện rõ vai trò lãnh
đạo của những đảng viên này.
* Chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ công tác của CBKP ở quận
Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Về chức năng CBKP được Điều 1 Quy định số 1262-QĐ/TU ngày
09/9/2009 của Thành ủy TP HCM xác định: “Chi bộ khu phố, ấp trực thuộc đảng
ủy phường, thị trấn là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở địa bàn dân cư, là cầu nối
giữa Đảng với nhân dân, có chức năng lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ do
đảng ủy phường, xã giao và các công việc của cộng đồng dân cư” [42].
Về nhiệm vụ của CBKP chủ yếu là lãnh đạo các tổ chức, mặt trận, đoàn
thể, phân công đảng viên trực tiếp thâm nhập vào các phong trào quần chúng,
vận động, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng, tổ chức lao động sản xuất
ở cơ sở để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng đời
sống văn hóa mới, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn dân cư. Theo
Quy định 1262 – QĐ/TU ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Thành ủy TP HCM,
CBKP có một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, lãnh đạo cộng đồng dân cư đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau
trong đời sống, giữ gìn trật tự, an toàn ở khu phố.
Tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch

vụ theo quy định của pháp luật; góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước.
Lãnh đạo nhân dân chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật Nhà
nước, nhất là về quản lý đô thị, đất đai, trật tự xây dựng, môi trường, vệ sinh
an toàn thực phẩm; thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm” vận động nhân dân đóng góp xây dựng, sửa chữa và quản lý tốt các công
trình phúc lợi trong khu phố.


19
Lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng văn hóa ở khu dân cư”, giảm nghèo, khuyến học và phổ cập giáo dục; xây
dựng khu phố, tổ dân phố, hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa đúng thực chất.
Lãnh đạo nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc, phòng chống cháy, nổ, thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm (tội phạm, ma
túy, mại dâm); vận động nhân dân chấp hành tốt luật nghĩa vụ quân sự, chăm lo chính
sách hậu phương quân đội; xây dựng lực lượng dân quân và tổ bảo vệ dân phố.

Báo cáo và kiến nghị với đảng ủy, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
phường xem xét giải quyết những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Hai là, lãnh đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Tổ chức quán triệt đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy cấp trên; thông tin thời sự trong nước
và quốc tế nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên ở khu
phố; thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, kịp thời phân tích, giải
quyết các tâm tư vướng mắc; giáo dục cán bộ, đảng viên nêu cao tính tiền phong
gương mẫu; phát hiện, đấu tranh khắc phục các biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ.

Tuyên truyền và nhân rộng gương người tốt việc tốt, các nhân tố tích

cực trong khu phố. Lãnh đạo việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về những vấn
đề liên quan đến cộng đồng dân cư, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tư
tưởng các tầng lớp nhân dân để có biện pháp giải quyết và phản ánh lên cấp
trên; đấu tranh chống các quan điểm sai trái, mọi luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc, kích động của kẻ xấu, âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng Đảng
Xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế hoạt động của chi bộ; bảo đảm
sinh hoạt chi bộ có nền nếp, chất lượng; thường xuyên thực hiện tự phê bình và
phê bình. Xây dựng chi ủy khu phố có đủ phẩm chất, năng lực, nhiệt tình, trách
nhiệm, đoàn kết, có uy tín tập hợp được đảng viên và quần chúng ở khu phố.


20
Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát của chi ủy, chi bộ, chủ động ngăn
ngừa đảng viên sai phạm.
Làm tốt công tác quản lý đảng viên; phân công công tác cho đảng viên phù
hợp với năng lực, sức khỏe và hoàn cảnh cụ thể, chú ý phân công công tác vận
động quần chúng; hướng dẫn đảng viên có chương trình học tập và rèn luyện,
định kỳ đảng viên phải báo cáo kết quả công việc được phân công, kết quả học
tập, rèn luyện cho chi bộ, (hoặc tổ đảng). Thực hiện tốt các quy định của Trung
ương và Thành ủy trong quản lý đảng viên đi làm ăn xa, chuyển nơi ở, đi ra nước
ngoài.
Tuyên truyền và lựa chọn những quần chúng ưu tú trong các phong trào
của khu phố, các đoàn thể, tổ dân phố, tổ nhân dân để bồi dưỡng phát triển Đảng.
Chi ủy khu phố thực hiện tốt việc nắm và nhận xét khách quan, thẳng
thắn đối với đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp cư trú tại
khu phố theo Quy định 76-QĐ/TW ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Bộ Chính
trị về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu

thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
Bốn là, lãnh đạo xây dựng khu phố, tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể ở khu phố

Lãnh đạo xây dựng khu phố, tổ dân phố thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ, bảo đảm sinh hoạt thường xuyên, đúng định kỳ; lãnh đạo việc xây dựng và
thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở và các quy ước của cộng đồng dân cư; ngăn
ngừa, đấu tranh giải quyết kịp tời những vụ việc tiêu cực trong khu phố.
Lãnh đạo xây dựng chi đoàn thanh niên khu phố hoạt động thực chất, đa
đạng hóa hình thức hoạt động, tập hợp rộng rãi, đông đảo thanh niên, làm tốt công
tác phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên trong lực lượng thanh niên.
Lãnh đạo xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng trong khu phố, thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ của đoàn thể; đổi mới phương thức
hoạt động, nội dung sinh hoạt theo hướng hiệu quả, thiết thực; mở rộng các hình


21
thức tập hợp quần chúng rộng rãi; xây dựng được nòng cốt trong từng đoàn thể,
bảo đảm đoàn thể là chỗ dựa ting cậy của đoàn viên, hội viên và quần chúng.
Xem xét, lựa chọn, giới thiệu những đảng viên và quần chúng tốt để
giới thiệu cho ủy ban nhân dân và các đoàn thể phường tổ chức bầu cử, hoặc
bổ nhiệm vào các chức danh trưởng, phó khu phố, tổ trưởng, tổ phó tổ dân
phố; ban chấp hành các đoàn thể khu phố.
Các mối quan hệ công tác của CBKP được Quy định 1262-QĐ/TU ngày 09
tháng 9 năm 2009 của Thành uỷ TP HCM xác định như sau:

Chi uỷ, CBKP chịu sự lãnh đạo trực tiếp của đảng uỷ phường; thường
xuyên thực hiện chế độ báo cáo, xin ý kiến đảng ủy phường trong thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình. Đảng ủy phường chỉ đạo ủy ban nhân dân, các
ban, ngành, đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc phường tích cực phối hợp, tạo điều
kiện hỗ trợ CBKP thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

Chi ủy, CBKP chịu trách nhiệm lãnh đạo, kiểm tra và giám sát hoạt
động của khu phố, tổ dân phố và ban công tác Mặt trận, các đoàn thể ở khu
phố thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước; nhiệm
vụ của đảng ủy, ủy ban nhân dân phường giao và nghị quyết của chi bộ.
Chi ủy, CBKP chủ động trao đổi công việc với ủy ban nhân dân, ban, ngành, đoàn
thể, Mặt trận Tổ quốc phường và các CBKP khác để phối hợp thực hiện nhiệm vụ.

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, CBKP có vị trí, vai trò của chi bộ là
cầu nối giữa Đảng với nhân dân là nơi trực tiếp quán triệt và tổ chức thực hiện
thắng lợi nghị quyết của Đảng... Đảng ta khẳng định: “Chi bộ lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục, quản lý và phân công công tác
cho đảng viên, làm công tác vận động quần chúng và công tác phát triển
đảng viên, kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng viên, thu nộp đảng phí.
Chi bộ, chi ủy họp thường lệ mỗi tháng một lần” 8, tr. 41.
Theo Điều 1 Quy định số 94-QĐ/TW ngày 03/3/2005 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, xã, thị trấn là hạt nhân chính
trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật


22
của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và
quản lý đô thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh,
phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước”1.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo của chi bộ khu phố
ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
* Quan niệm về năng lực lãnh đạo của CBKP
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam
- Bộ Giáo dục và đào tạo (1999)

Năng lực: một trong những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc
gì.1: năng lực tư duy của con người. 2: khả năng đủ để thực hiện tốt công
việc: có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức [ 45, tr.1172]
Lãnh đạo đgt 1. Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể: lãnh
đạo cuộc đấu tranh. 2. dt cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng
tổ chức dẫn dắt phong trào [45, tr.1979] .
Hay theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng (1997)
Năng lực 1: là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để
thực hiện một hoạt động nào đó, 2: phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo cho con
người hoàn thành một hoạt động nào đó [ 38, tr.639].
Lãnh đạo: đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức vận động thực hiện
đường lối đó [45, tr.524].
Như vậy có thể hiểu, NLLĐ là khả năng của một tập thể hay cá nhân có
khả năng đề ra mục tiêu, chủ trương đường lối và khả năng tổ chức, dẫn dắt
tập thể, thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Đối với NLLĐ của Đảng, theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái niệm
trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên thì


23
NLLĐ của Đảng là “khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng đúng đắn, cơ
bản, lâu dài, cũng như thời kỳ và bằng những phương thức, phương pháp
đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có hiệu quả” [29, tr. 38].
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện thực bao gồm nhiều nội
dung: năng lực đề ra chủ trương, đường lối, năng lực xây dựng nghị quyết, chỉ
thị, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, năng lực kiểm tra phát hiện và xử lý.
Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảng: đó là khả năng thực tế
được cụ thể hóa bằng việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến
lược và sách lược của Đảng, đồng thời nó phải là sự định hướng phát triển
cho cả thời kỳ lịch sử. Do vậy, Đảng phải nghiên cứu, am hiểu để dự báo,

tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương
và xây dựng giải pháp mang tính đồng bộ để thực hiện đối với tất cả lĩnh vực
liên quan đến đời sống xã hội, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.
Năng lực xây dựng nghị quyết của Đảng: đó là những vấn đề được
nghiên cứu, xem xét, thảo luận của một tập thể và đi đến quyết nghị (có
nhiều loại và do nhiều cấp bộ Đảng khác nhau quyết nghị). Đặc trưng cơ bản
của nghị quyết là biểu quyết tập thể, ý chí và trí tuệ tập thể, sự đúc kết sâu sắc
từ kinh nghiệm thực tiễn phong phú và thể hiện đầy đủ quyền dân chủ.
Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng là khả năng nắm vững những nội dung, quan điểm, tư tưởng và
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, vào hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đơn vị
để từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất, thích hợp nhất thực hiện thắng
lợi những mục tiêu đề ra.
Năng lực kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm là khả năng kiểm
nghiệm thực tiễn những chủ trương, đường lối của mình để phát huy những
ưu điểm, khắc phục những nhược điểm, tồn tại, hạn chế; đồng thời phát hiện
những biểu hiện tiêu cực, những vi phạm trong quá trình xây dựng và thực


×