Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.7 KB, 93 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ MINH VỤ

Hµ néi - 2014



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đô thị hóa
Giáo dục - đào tạo
Khoa học - công nghệ
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Trang
Thương binh xã hội
Xã hội chủ nghĩa
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
BCHTW
CTQG
CNXH
CNH, HĐH
ĐCSVN
ĐTH
GD – ĐT
KH - CN
KCN
KT - XH
Nxb

Tr
TBXH
XHCN
UBND


MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1

g
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,
14

1.1

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Quan niệm về đô thị hóa, việc làm và tác động của đô

14

1.2

thị hóa đến việc làm của nông dân
Khái niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh
hưởng đến việc làm của nông dân trong quá trình đô


Chương 2

thị hoá ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT

21

VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,
35

2.1

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Tình hình đô thị hóa trên địa bàn quận Hà Đông từ

35

2.2

năm 2008 đến nay
Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông

39

Chương 3

dân trong quá trình đô thị hóa ở Hà Đông
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC

LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HOÁ Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH

55

3.1

PHỐ HÀ NỘI
Quan điểm giải quyết việc làm cho nông dân trong quá

55

3.2

trình đô thị hoá ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho nông dân
quận Hà Đông trong quá trình đô thị hóa

65
77
79
83

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


3
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Đô thị hóa là quá trình tất yếu trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quá trình đô thị hóa tất yếu sẽ tác động mạnh đến nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc
biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân bị mất đất sản xuất. Vấn đề việc
làm và giải quyết việc làm của người lao động nói chung, lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
củng cố quốc phòng - an ninh, nên được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội thường
xuyên quan tâm giải quyết.
Sau gần 30 năm thực hiện đổi mới do Đảng ta khởi xướng, vấn đề việc
làm và thu nhập của người lao động từng bước được giải quyết theo hướng
tuân thủ quy luật khách quan của kinh tế thị trường, trong đó có thị trường lao
động. Đặc biệt, là vấn đề giải quyết việc làm cho người nông dân trong khu
vực nông thôn đã được quan tâm đúng mức và đạt hiệu quả tương đối tốt. Tuy
nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, cùng với
nó là tốc độ của đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, nhất là các địa bàn ven đô đã làm nảy
sinh nhiều vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm cho nông
dân cần quan tâm giải quyết.
Hà Đông là quận nội thành, song trước khi hợp nhất về Hà Nội diện
tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp còn rất lớn, dân số làm nông nghiệp
bằng một nửa tổng dân số trên toàn quận. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập của cả nước và thực hiện chủ trương
của Thành phố về ưu tiên phát triển đô thị về hướng tây nên Hà Đông sẽ có
không gian đô thị rộng và tốc độ đô thị hóa nhanh. Thực tiễn cho thấy, quá trình


4
đô thị hóa đã trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của quận phát triển,

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cơ cấu kinh tế được chuyển
dịch theo hướng ngày càng hợp lý; tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ
tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm trong tổng GDP, góp phần tạo ra tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh của quận. Tuy nhiên, từ chính quá trình đô thị hóa ở Hà
Đông cũng nảy sinh nhiều tác động tiêu cực như: Sự chuyển dịch và mất cân đối
trong cơ cấu kinh tế ngành, vùng do phát triển quá nhanh theo chiều rộng; hạ
tầng kinh tế - xã hội đô thị chưa đồng bộ, chưa tương xứng với sự phát triển của
quá trình đô thị hóa; đất nông nghiệp bị thu hẹp,. Đặc biệt, là sự tác động tiêu
cực của quá trình đô thị hóa đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động,
nhất là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tình trạng thiếu việc làm, thất
nghiệp có xu hướng gia tăng, các vấn đề tiêu cực về văn hóa xã hội trong khu
dân cư nảy sinh,. điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế - xã
hội một cách bền vững của quận.
Giải quyết việc làm cho người nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Hà
Đông đã trở thành vấn đề hết sức quan trọng, đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả
hệ thống chính trị và sự lỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn của từng người dân
trên địa bàn. Góp phần giải quyết các vấn đề bất cập trên, tác giả đã lựa chọn đề
tài: "Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở quận Hà
Đông, Thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó có giải quyết
việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa hiện nay đã trở thành một
vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách, thu hút nhiều nhà khoa học, nhà quản
lý quan tâm nghiên cứu, tiêu biểu như:
- PGS.TS Trần Văn Cho (2001), Mối quan hệ giữa nâng cao chất
lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện


5
đại hoá đất nước, Đề tài cấp Nhà nước. Tác giả đã tập trung nghiên cứu và

làm rõ những vấn đề như mục đích, yêu cầu, nội dung và tác động của nâng
cao chất lượng việc làm của người lao động, tác động của lực lượng lao động
có chất lượng cao đến phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hội nhập. Vấn
đề càng trở lên quan trọng khi đất nước đang bước vào thời kì dân số vàng,
thời kì chỉ diễn ra một lần đối với mỗi quốc gia. Theo nghiên cứu của tác giả,
các nước trên thế giới khi trải qua thời kì dân số vàng đều tìm mọi giải pháp
hiệu quả nhất có thể để tậm dụng lợi thế về nguồn và chất lượng lao động
nhằm phát huy tiềm lực con người để phát triển kinh tế - xã hội. Trong số các
giải pháp đó, tác giả đánh giá cao giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực và tăng
đầu tư công để giải quyết đồng bộ vấn đề việc làm cho người lao động của
chính phủ Nhật Bản và Hàn Quốc. Mặc dù vậy, đối với một nước đang phát
triển như Việt Nam, ngoài quyết tâm tận dụng lợi thế của thời kì dân số vàng
thì cần thận trọng trong việc áp dụng các giải pháp đã thành công ở các nước
trong khu vực. Trong đó, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm phát
triển hài hòa giữa số và chất lượng, đặc biệt là chất lượng lao động được đánh
giá là sự lựa chọn khá phù hợp. Tuy nhiên, theo tác giả thì nâng cao chất
lượng lao động phải gắn chặt với quá trình giải quyết việc làm, tận dụng tốt
nguồn nhân lực có chất lượng cao của xã hội, tránh tình trạng đào tạo tràn lan
không phù hợp với nhu cầu của xã hội hoặc không ưu tiên đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn lao động ở một số lĩnh vực mà xã hội đang cần.
- Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải
pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Việc làm ở nông thôn luôn là một vấn
đề hết sức quan trọng, nhất là việc làm cho nông dân ở các khu vực bị thu hồi
đất sản xuất phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng –
an ninh, vì đây được coi là nhóm đối tượng dân cư trong xã hội dễ bị tổn
thương do trình độ dân trí chưa cao, khả năng tự tạo việc làm rất hạn chế, tập


6
quán canh tác tiểu nông còn rất nặng nề... Thực tiễn cho thấy, trong những

năm vừa qua, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế đã tác động đến mọi thành phần kinh tế, mọi khu vực dân cư
trên địa bàn cả nước. Quá trình đó cũng dẫn đến sự chuyển biến về cơ cấu giai
cấp, phân hóa giàu nghèo, chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động theo
hướng chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị, từ các khu vực có công lao động
thấp đến nơi có công lao động cao,.
Tác giả đã nghiên cứu, khảo sát đánh giá thực trạng việc làm và kết quả
giải quyết việc làm cho nông dân, trên cơ sở đó để tìm ra nguyên nhân. Đánh
giá đúng vai trò của việc làm đối với nâng cao chất lượng đời sống của nhân
dân, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và quá
trình xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, tạo việc làm cho nông dân khu vực nông
thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Hà Khoa (2005), Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất, Báo Nhân dân
cuối tuần, số 8 năm 2005. Theo đánh giá của tác giả, trong tiến trình đổi mới
đất nước, nhất là giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay thì việc phát triển
các khu công nghiệp là yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với
nhịp độ cao. Nhưng cùng đó, hàng nghìn hộ nông dân không còn đất canh tác,
buộc phải chuyển đổi nghề mới, trong khi họ chưa được trang bị kiến thức
phù hợp, chưa được quan tâm dạy nghề hoặc tiếp cận với các điều kiện cần
thiết để chuyển nghề, lại thiếu sự định hướng của chính quyền địa phương.
Vấn đề đặt ra là làm sao, cùng với sự phát triển chung, đời sống người nông
dân bị thu hồi đất vẫn được bảo đảm bằng và khá hơn thời điểm chưa bị thu
hồi đất. Câu trả lời trước hết và rõ nhất là giải quyết việc làm, đồng thời phải
coi đó là khâu then chốt. Tác giả đã đưa ra kết quả khảo sát của đề tài do TS
Lưu Song Hà, Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương thì, trong số những nông
dân không có việc làm thì số người có độ tuổi từ 35 trở lên chiếm 76,5% số


7

lao động ở khu vực nông thôn. Ðó là độ tuổi quá muộn để đi học và quá sớm
để được nghỉ ngơi. Trong khi đó, hầu hết cơ sở sản xuất, kinh doanh, doanh
nghiệp khi tuyển lao động đều ưu tiên nhận người trẻ, những người vừa có
sức khỏe lại dễ đào tạo, rất ít nơi chấp nhận lao động đã quá 40 tuổi mà chưa
qua đào tạo nghề hoặc chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất cụ thể.
Trong khi đó, không ít hộ nông dân vẫn ỷ vào chính sách hỗ trợ và tiền
đền bù của Nhà nước để coi đó như là nguồn sống chính của gia đình, chưa chủ
động tìm kiếm việc làm. Phần lớn họ chỉ quan tâm kiếm đồng tiền trước mắt,
trang trải hằng ngày. Họ cũng chẳng mặn mà với việc dùng tiền đền bù để học
nghề hay đầu tư vào giáo dục, sản xuất hoặc một hoạt động xã hội thực tiễn nào
khác. Thực tế cho thấy chỉ 11,2% số nông dân được hỏi cho biết có sử dụng
tiền được đền bù để học nghề mới. Đó là chưa kể tình trạng "chán học nghề",
do địa phương đưa những dự án không phù hợp, vừa tốn tiền của Nhà nước lại
mất thời gian, công sức của nông dân. Bất cập còn ở chỗ, một số biện pháp Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra như hỗ trợ chuyển đổi lao động
nông nghiệp sang các ngành nghề khác, phát triển khu đô thị - dịch vụ liền kề
gắn với khu công nghiệp, tăng cường đào tạo nghề, ban hành chính sách
khuyến khích KCN, doanh nghiệp lớn xây dựng cơ sở đào tạo nghề tại chỗ, v.v.
lại chưa phát huy được hiệu quả. Tình trạng nông dân bị mất đất, mất việc làm
phải tha hương tới các đô thị tiếp tục gia tăng. Ngay cả việc thắt chặt tuyển
dụng lao động đối với doanh nghiệp cũng được nhiều địa phương xúc tiến khá
kiên quyết, nhưng do những hạn chế về trình độ và chất lượng dạy nghề, số lao
động địa phương được tuyển vào các KCN chỉ chiếm tỷ lệ thấp. Tất nhiên,
cũng không ít chủ đầu tư tìm mọi cách để "né" trách nhiệm này.
Tác giả đã khẳng định: Để thực hiện có hiệu quả việc thu hồi đất, đồng
thời vẫn bảo đảm được việc làm cho nông dân, các tỉnh phải hình thành và
quản lý quỹ hỗ trợ đào tạo, phát triển các mô hình, liên kết chặt chẽ với các cơ
sở đào tạo nghề, xây dựng và đổi mới chương trình đào tạo phù hợp với lao



8
động nông thôn (LÐNT) vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Chỉ khi đó,
nông dân bị thu hồi đất mới có thể thoát khỏi cảnh thất nghiệp.
- Nông Mạnh Hải (2007), Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bồi thường cho nông dân bị mất đất sản xuất một cách thỏa đáng và đúng quy
định trong quá trình phát triển là một chủ trương lớn của Đảng, đã được triển
khai thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên trên thực tiễn triển khai thực hiện ở
từng địa phương thì lại nảy sinh rất nhiều vấn đề hết sức phức tạp và nhạy
cảm, gây nhiều bức xúc trong nhân dân, thậm chí xảy ra khiếu kiện kéo dài,
mất ổn định kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương. Theo tác giả, một thực tế
diễn ra khá lâu và ở rất nhiều địa phương là chính quyền và doanh nghiệp chỉ
chú trọng đến việc đền bù, giải phóng nhanh mặt bằng và tiến hành thi công
các công trình, coi đó là trách nhiệm và nghĩa vụ chính chứ rất ít nơi quan tâm
đến việc định ra một quy định hay giúp định hướng cho người dân sử dụng
nguồn tiền đền bù đất vào việc chuyển đổi việc làm.
Trên cơ sở nghiên cứu của mình, tác giả đã tìm ra những nguyên nhân
cơ bản, trong đó việc quán triệt và tổ chức thực hiện ở một số địa phương
chưa đúng với quy định, đội ngũ cán bộ thiếu trình độ và công tâm là những
nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác bồi thường cho nông dân bị mất
đất sản xuất. Trong đó, tác giả đề cao giải pháp về phát huy dân chủ ở cơ sở
trong xét duyệt, định giá và đền bù giải phóng mặt bằng; nâng cao trình độ và
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và chuyên trách ở địa phương.
- GS. TS. Phùng Hữu Phú (2009) Đô thị hóa ở Việt Nam - từ góc nhìn
nông nghiệp, nông thôn, nông dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trên cơ
sở nghiên cứu của mình về quá trình đô thị hóa ở Việt Nam, tác giả đã khẳng
định: Đô thị hóa là quá trình phát triển tất yếu của một nước đang phát triển;
đặc biệt, đối với Việt Nam đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để



9
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 thì quá
trình đô thị hóa lại càng diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng. Tuy nhiên, với góc
nhìn từ vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, tác giả đã nghiên cứu và
chỉ ra những tác động trực tiếp từ quá trình này là rất lớn trên tất cả các khía
cạnh. Về vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân bị mất đất sản xuất trong
quá trình đô thị hóa đã trở thành một vấn đề xã hội được tất cả mọi người
quan tâm. Mặc dù Đảng, Nhà nước, Chính phủ và chính quyền các cấp quan
tâm giải quyết bằng quyết tâm chính trị cao nhất, nên trong thời gian vừa qua
số lao động ở khu vực này đã được hỗ trợ nguồn tài chính để học nghề, tạo
việc làm mới, chuyển nghề,. Tuy nhiên, ngay nội tại quá trình đô thị hóa ở Việt
Nam thời gian vừa qua vẫn còn nhiều vấn đề nảy sinh cần tiếp tục giải quyết
nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội ở từng địa phương, cũng như bình
diện quốc gia. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm
phát huy hiệu quả và hạn chế những thiếu sót, bất cập từ quá trình này.
- TS Nguyễn Tiến Dũng (2010), "Dạy nghề cho nông dân - muôn nẻo
khó khăn", Tạp chí Cộng sản, số 1l (2010). Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát
về thực trạng công tác dạy nghề cho nông dân ở một số địa phương, từ đó tác
giả khẳng định vai trò quan trọng của vấn đề đào tạo nghề cho nông dân trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù đã
được triển khai khá rầm rộ, có kế hoạch và được đầu tư bài bản từ ngân sách;
tuy nhiên, kết quả thu được vẫn còn khiêm tốn và bộc lộ nhiều khó khăn đã và
đang tồn tại cần được quan tâm giải quyết nhằm khắc phục những hạn chế
trong công tác đào tạo nghề ở các địa phương. Đáng lưu ý, có rất nhiều địa
phương triển khai việc dạy nghề cho nông dân nhưng chưa quan tâm đến đầu
ra cho người được dạy nghề, chưa gắn với nhu cầu nguồn nhân lực của địa
phương; hầu hết là dạy nghề để đáp ứng đúng quy định của cấp trên. Thực tế
này đã tạo ra sự lãng phí rất lớn nguồn kinh phí và tiềm năng lao động, trong



10
khi vấn đề chính là tạo được nghề mới để người nông dân mất đất có thể kiếm
được việc làm trên quê hương mình lại chưa được giải quyết. Đồng thời, tác
giả cũng đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề
cho nông dân hiện nay.
- PGS. TS Cao Duy Hạ (2011), "Giải quyết vấn đề việc làm ở nước ta
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Cộng sản, số 8 (201l).
Tác giả khẳng định: Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan
trọng, là vấn đề cấp thiết và cơ bản đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các
nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như nước ta, thì việc làm đã trở
thành vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Giải quyết việc làm
cho người lao động không chỉ tận dụng nguồn nhân lực, tạo điều kiện phát triển
kinh tế đất nước mà còn góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội. Mặc dù đã được Nhà nước quan tâm đầu tư khá bài bản về tài
chính, cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, nhân viên; tuy nhiên, hiệu quả giải quyết
việc làm vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Đứng trước những đòi hỏi của giải
quyết việc làm, tạo ra nhiều chỗ làm mới cho người lao động, giải quyết an sinh
xã hội đang rất bức xúc, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra
chủ trương về giải quyết việc làm trong giai đoạn 2011-2015 và những năm tiếp
theo. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra 6 giải pháp giải quyết việc làm nhằm thực
hiện mục tiêu Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
- Phạm Thị Túy (2011), “Vấn đề việc làm của nông dân hiện nay – bài
toán không dễ giải”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 8. Tác giả đã luận giải
những khó khăn trong vấn đề việc làm của nông dân nói chung, trên địa bàn
các khu vực đang trong tiến trình đô thị hóa, hình thành các khu công ghiệp
nói riêng. Mặc dù Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến vấn đề giải quyết
việc làm cho nông dân bằng nhiều chủ trương, chính sách phù hợp; cùng với
đó đã huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc; tuy nhiên, quá trình triển
khai ở các địa phương vẫn nảy sinh nhiều bất cập, thiếu thống nhất, thậm chí



11
có địa phương còn triển khai không sát so với các quy định của trên, gây
nhiều khó khăn, phiền toái cho nông dân. Mặt khác, chính người nông dân,
do nhiều lý do khác nhau vẫn chưa thực sự chủ động, tích cực trong học tập
nâng cao tay nghề, tiếp cận các cơ hội việc làm mới. Một yếu tố nữa tác
động trực tiếp đến giải quyết việc làm trong những năm vừa qua là tình trạng
suy thoái của nền kinh tế đất nước, nhu cầu về sử dụng lao động của tất cả
các thành phần kinh tế giảm sút, điều này chỉ có thể khắc phục được khi nền
kinh tế có dấu hiệu phục hồi và phát triển. Tất cả những lý do đó đã thực đưa
vấn đề việc làm của nông dân hiện nay trở thành một bài toán không dễ giải
cho cả chính quyền và người nông dân.
- Hạ Long (2011), “Phát triển làng nghề - một lời giải bài toán phát
triển kinh tế nông nghiệp sau thu hồi đất phục vụ công nghiệp”, Tạp chí
Nông thôn đổi mới, số 5. Một trong những hướng giải quyết việc làm hiệu
quả cho nông dân bị thu hồi đất phục vụ công nghiệp ở một số địa phương
trong thời gian vừa qua chính là khôi phục và phát triển các làng nghề
truyền thống. Phát triển làng nghề và hình thành nhiều làng có nghề trên
địa bàn là giải pháp hữu hiệu để người nông dân có việc làm ngay chính
trên quê hương mình mà không phải tìm việc ở nơi khác; mặt khác, việc
làm ổn định và có thu nhập sẽ giúp người nông dân yên tâm khi trả đất
cho thực hiện các dự án, tránh được những tác động tiêu cực về văn hóa –
xã hội..Tuy nhiên, quá trình khôi phục và phát triển các làng nghề truyền
thống phải được triển khai đồng bộ, thận trọng, phải tính đến giá trị và
đầu ra của sản phẩm, đặc biệt cần tránh những tác động về môi trường.
Tác giả đã nghiên cứu và đưa ra các mô hình tiêu biểu ở một số địa
phương trong phát triển làng nghề truyền thống như ở Khoái Châu (Hưng
Yên), Sen Chiểu (Sơn Tây)... và khẳng định: Khôi phục và phát triển các
làng nghề truyền thống là một trong những lời giải hữu hiệu cho quá trình



12
phát triển kinh tế nông nghiệp, ổn định xã hội ở khu vực nông thôn sau
khi thu hồi đất.
Kết quả nghiên cứu của các công trình đã tổng quan là khá toàn diện và
sâu sắc; tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, luận giải một cách cơ
bản, hệ thống về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong quá trình
đô thị hóa ở quận Hà Đông dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Do đó, đây
vẫn là một trong những “khoảng trống” khoa học để tác giả luận án đi sâu
nghiên cứu và làm rõ. Đây là những cơ sở chính để tác giả lựa chọn và quyết
tâm nghiên cứu thành công đề tài “Giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình đô thị hoá ở quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội” theo đúng mã số
chuyên ngành khoa học kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về giải quyết việc làm cho
nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận Hà Đông, trên cơ sở đó đề xuất
những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải
quyết việc làm cho nông dân trong thời gian tiếp theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những vấn đề liên quan đến việc làm và giải quyết việc làm
cho nông dân trong quá trình đô thị hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giải quyết việc làm cho nông
dân trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn quận Hà Đông trong thời gian qua.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả của giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị
hóa ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu

Tập trung nghiên cứu vấn đề về giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình đô thị hoá ở quận Hà Đông.


13
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân
trong quá trình đô thị hoá ở quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội.
- Về không gian: Nghiên cứu trong pham vi quận Hà Đông.
- Về thời gian: Từ năm 2008 đến nay. Tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu
có tính hệ thống, đề tài có đề cập đến một số nội dung liên quan trong khoảng
thời gian trước năm 2008.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền Thành phố
Hà Nội, đặc biệt là của quận Hà Đông về phát triển kinh tế - xã hội gắn với
giải quyết việc làm cho nông dân và các lý luận kinh tế khác để tiếp cận, giải
quyết vấn đề.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, sử dụng các phương pháp khác
như: Phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp tổng hợp, thống kê,
phân tích, so sánh và phương pháp chuyên gia,.. để thực hiện đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Thành công của luận văn góp phần vào việc hoạch định những chủ
trương, biện pháp của đảng bộ, chính quyền địa phương nhằm phát huy những
tác động tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của quá trình đô thị hóa đến giải quyết
việc làm cho nông dân trên địa bàn quận Hà Đông.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng

dạy môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và các phụ lục.


14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Quan niệm về đô thị hóa, việc làm và tác động của đô thị hóa
đến việc làm của nông dân
Đô thị hóa là quá trình diễn ra tất yếu đối với mỗi quốc gia trên con
đường phát triển, , đặc biệt là các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Nền
kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng
nhanh. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của khu vực,
nâng cao đời sống nhân dân, đô thị hóa luôn gắn liền với quá trình CNH,
HĐH. Các nước phát triển thường có mức độ đô thị hóa cao hơn so với
các nước đang phát triển như Việt Nam hay Trung Quốc. Đô thị ở các nước
phát triển là kết quả của quá trình phát triển lâu dài phần lớn đã ổn định nên
tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, trước khi làm rõ khái niệm về đô thị hóa, cần hiểu đúng về
khái niệm liên quan đến đô thị. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, đô thị là
khái niệm dùng để chỉ phạm vi ranh giới địa chính nội thị của thành phố, thị
xã và thị trấn, bao gồm các quận và phường, không bao gồm phần ngoại thị;
là tụ điểm dân cư phi nông nghiệp và làm chức năng một trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa của vùng lãnh thổ, hoặc quốc gia. Trong quá trình phát
triển, các đô thị ngày càng được mở rộng. Việc mở rộng các đô thị diễn ra một
cách nhanh chóng trên một diện rộng được gọi là quá trình đô thị hóa.

Một trong các khuynh hướng định cư lâu đời của loài người là đô thị
hoá. Sự hình thành các đô thị gia tăng mạnh mẽ nhờ các tiến bộ về công
nghiệp. Các đô thị là thị trường lao động rộng lớn của dân cư có mức sống
cao với điều kiện giao thông và dịch vụ thuận lợi.


15
Đô thị hóa còn được xác định là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ
lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện
tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai
yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức
độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa. Đô thị hóa
là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số,
mật độ dân số, chất lượng cuộc sống... Đặc biệt, theo khái niệm của ngành địa
lí, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không gian hoặc mật độ dân cư hoặc
thương mại hoặc các hoạt động khác trong khu vực theo thời gian.
Như vậy, đô thị hóa được hiểu là quá trình thay đổi phương thức hay
hình thức cư trú của con người. Đô thị hóa không chỉ thay đổi phương thức
sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự thay đổi lớn trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với điều kiện sản xuất
công nghiệp và lối sống hiện đại. Đô thị hóa là sự phản ánh những chuyển
biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã
hội. Có thể nói, đô thị hóa là quá trình biến nông thôn thành thành thị với
tốc độ nhanh, quy mô lớn, là quá trình phát triển lực lượng sản xuất gắn
với phân bố lại lực lượng lao động và thay đổi môi trường sống của cư
dân với mật độ cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Đô thị hóa là quá
trình biến người nông dân thành lao động phi nông nghiệp trong môi trường
sống, làm việc theo hướng văn minh công nghiệp. Quá trình đô thị hóa là kết
quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đô thị hóa
đã và sẽ tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tâm tư, tình cảm, việc làm, thu

nhập, mức sống và lối sống của người lao động và cư dân. Sự tăng trưởng của
đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị so với kích thước (về dân số
và diện tích) ban đầu của đô thị. Do đó, sự tăng trưởng của đô thị khác tốc độ
đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng theo các giai đoạn thời gian xác định
như 1 năm hay 5 năm).


16
Quá trình đô thị hóa sẽ có những tác động nhất định đến việc làm và
giải quyết việc làm của nông dân. Vấn đề đó được biểu hiện ở cả những
khía cạnh tích cực và tiêu cực.
Về tác động tích cực của quá trình đô thị hóa đến giải quyết việc làm
của nông dân và sản xuất nông nghiệp:
Thứ nhất, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho nông dân từ
lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp và dịch vụ
Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho cầu về lao động ngày càng tăng,
nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người lao
động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch
vụ. Ngoài ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng giảm
việc làm nông nghiệp, tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa góp
phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường sức
lao động hoạt động sôi nổi hơn...Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội chuyển
đổi việc làm cho lao động, nhất là nông dân. Để làm tốt vấn đề này, không chỉ
đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân nông dân, mà điều quan trọng hơn là nhà nước
phải có kế hoạch và tổ chức tuyên truyền, đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp
cho người lao động.
Thứ hai, tạo cho nông dân được tiếp cận với các dịch vụ tiến bộ của xã
hội như: Văn hóa - xã hội, giáo dục, giao thông công cộng
Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu chế
xuất các trung tâm dịch vụ, các khu đô thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của

đất đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động, tạo
môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá kích thích và
tạo cơ hội để con người năng động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn
các phương thức, hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu
chính đáng. Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện –
đó là xu hướng chủ đạo và là mặt tích cực của đô thị hoá.


17
Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô thị hoá cùng với sự phát triển hạ
tầng văn hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại chúng, tăng cường quan
hệ làm ăn, buôn bán giữa các vùng miền… đã làm cho diện mạo nông thôn và
đời sống tinh thần của cư dân nông thôn ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
Ở nông thôn đã xuất hiện những yếu tố văn hoá đô thị mới mẻ, hiện đại, sự
truyền bá các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học, nghệ thuật có giá trị;
sự du nhập lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ…) làm
cho văn hoá làng quê có những sắc thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ
hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của nông dân các vùng đô thị hoá,
nhìn trên tổng thể, được nâng lên.
Ngoài ra, ở các đô thị, hệ thống giao thông công cộng phát triển, các
dịch vụ đời sống như giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật… rất
đa dạng cũng góp phần nâng cao chất lượng đời sống người dân.
Về tác động tiêu cực:
Thứ nhất, quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp thu hẹp,
dẫn đến làm giảm, thậm chí mất việc làm của một bộ phận nông dân.
Khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phục vụ sản
xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ và phát triển đô thị, làm xuất hiện
một bộ phận không nhỏ những người nông dân bị mất việc làm do diện
tích đất canh tác bị giảm. Đây là vấn đề khó khăn trong giải quyết việc
làm cho nông dân, bởi vì, đại đa số người nông dân có trình độ học vấn

thấp, không có tay nghề, không có vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa,
do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ còn mang nặng sắc thái văn hóa
nông thôn, làng, xã truyền thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập
các mối liên hệ để giải quyết việc làm cho mình, khả năng tiếp cận các
dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị... Những vấn đề
trên đã cản trở nông dân tìm kiếm việc làm mới.


18
Thứ hai, đô thị hóa làm gia tăng sức ép tìm kiếm, chuyển đổi việc làm
và phân bố lại lực lượng lao động xã hội
Cùng với quá trình đô thị hóa, ở nông thôn sẽ diễn ra quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp. Đó là sự chuyển dịch tiến bộ,
hợp quy luật trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Song trong thời gian qua, ở nước ta nói chung, ở quận Hà
Đông nói riêng, sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, chưa đáp ứng
được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong khi giá trị nông nghiệp trong
tổng GDP giảm xuống, nhưng thực tế lao động nông nghiệp vẫn còn ở mức
cao. Điều đó chứng tỏ rằng, công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn phát
triển chậm, chưa đủ sức tạo nhiều việc làm mới để thu hút lực lượng nông dân
còn rất tiềm tàng. Ngoài một bộ phận được tuyển dụng vào các doanh nghiệp
trên địa bàn hoặc đi kiếm việc làm ở các đô thị, các khu công nghiệp lớn, thì
phần lớn người nông dân ở khu vực nông thôn vẫn không có hoặc không đủ
việc làm. Một bộ phận nông dân tiếp tục sản xuất nông nghiệp trong điều kiện
đất canh tác ngày càng thu hẹp, một bộ phận chuyển sang các hoạt động phi
nông nghiệp giản đơn, số còn lại sẽ bị thất nghiệp khi thời vụ nông nhàn do
không tìm được việc làm. Từ đó dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao
động, làm cho đời sống của người nông dân ngày càng khó khăn hơn. Quá
trình đô thị hóa không chỉ tạo sức ép về việc làm cho nông dân mà cho cả lao

động xã hội nói chung, vì một bộ phận nông dân không còn đất đổ xô ra thành
thị kiếm việc làm, dẫn đến cung về lao động tăng.
Thứ ba, đô thị hóa làm nảy sinh rất nhiều những vấn đề xã hội phức
tạp cần được giải quyết
Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị dẫn đến mật độ dân số ở thành
thị tăng cao: Quá trình đô thị hoá nhanh cùng với sự thay đổi điều kiện sống
đã làm cho một bộ phận dân cư ở nông thôn di cư mạnh ra các đô thị. Số dân
cư sống ở thành thị tăng đột biến với mật độ dân cư dày đặc gây mất cân đối


19
giữa thành thị và nông thôn, đồng thời đặt ra những vấn đề nan giải về giải
quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho
trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp. Theo thống kê của Quỹ Dân số
Liên hợp quốc (UNFPA), người di cư nông thôn chiếm tới 1/3 dân số của TP
Hồ Chí Minh và 1/10 dân số của Hà Nội và làn sóng này vẫn đang tiếp tục
không ngừng chảy. Dự kiến dân số đô thị của Hà Nội đến năm 2010 sẽ là 6,57,0 triệu người, năm 2020 là 7,9 - 8,5 triệu người.
Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo: Trong quá
trình hội nhập và phát triển, người dân đô thị cần có trình độ văn hoá tay
nghề cao để tiếp cận với khoa học kỹ thuật – công nghệ và đáp ứng với nhu
cầu tuyển dụng lao động. Song thực tế cho thấy ở các đô thị và các vùng ven
đô vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người thất nghiệp, trình độ học
vấn không cao. Đây chủ yếu là những lao động giản đơn di cư từ khu vực
nông thôn lên thành thị để kiếm việc làm. Phần lớn trong số họ chỉ tìm được
công việc giản đơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở gần thành thị,
một số khác kém may mắn hơn phải lang thang tìm kiếm công việc không ổn
định trong nội thị với thu nhập ít ỏi. Nhiều vấn đề phát sinh cũng bắt nguồn
từ đây, khi thu nhập của người lao động không đủ tích lũy để gửi về gia đình
như kỳ vọng trước đó. Điều tra gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy,
trong số lao động di cư, có tới 2/3 là lao động trẻ (15-19 tuổi); hơn 50% là di

cư để tìm việc làm, 47% là để cải thiện điều kiện sống. Tính đến tháng
12/2007 cả nước có hơn 170 khu công nghiệp, khu chế xuất phân bổ ở 55
tỉnh, thành phố trên cả nước với khoảng trên 1 triệu người lao động đang
làm việc, trong đó có 700.000 người lao động di cư từ các địa bàn khác đế n.
Do chỉ được hưởng mức lương thấp, lại phải làm việc vất vả nên số lao động
di cư này dễ nảy sinh những bất đồng và có những hành động thiếu kiềm


20
chế. Đây là sự bất ổn đối với chủ trương phát triển một xã hội đô thị công
bằng, ổn định và văn minh.
Vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị: Nhìn chung hầu
hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là dân
nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Thống kê của
UNFPA cho thấy, hiện 25% cư dân thành thị Việt Nam không đủ tiền để mua
nhà ở, 20% nhà ở thành thị bị xếp vào loại không đạt tiêu chuẩn, TP Hồ Chí
Minh còn có 300 ngàn người đang sống trong các nhà ổ chuột, 30% dân số Hà
Nội phải sống trong môi trường chật chội với diện tích ở không quá
3m2/người. Chính vì thế một số người đã bất chấp những quy định về quản lý
đô thị, tự ý san lấp, lấn chiếm, sang nhượng đất để xây nhà một cách tạm bợ,
tuỳ tiện không theo quy hoạch gây ảnh hưởng đến mỹ quan của các đô thị.
Việc xây cất không theo quy hoạch làm xuất hiện tình trạng “nhà không số,
phố không tên” chen lấn hỗn độn, tối tăm, chật chội. Điều này đã phần nào
tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội, tội phạm lẩn trốn pháp luật, gây
khó khăn cho công tác quản lý trật tự an toàn xã hội.
Vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước: Tại các đô thị việc
chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, sông ngòi, lấn chiếm lòng đề đường
để làm nhà và xậy dựng trái phép diễn ra hàng ngày làm cản trở đến việc
tiêu, thoát nước và chất thải đô thị. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng
không đáp ứng đủ, đường xá giao thông tắc nghẽn, nguồn nước ngầm và các

dòng sông bị đe dọa nhiễm bẩn nghiêm trọng vì chất thải, không khí ngày
càng ô nhiễm nặng nề vì bụi công trường, khói xe, khói nhà máy sản xuất
công nghiệp. Nghiên cứu của UNFPA cho thấy, chất lượng không khí tại Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh thuộc vào loại tồi nhất trong khu vực. Phần lớn hệ
thống nước thải không được xử lý, khối lượng chất thải rắn đang gia tăng
nhanh chóng, và chỉ có một phần nhỏ lượng chất thải công nghiệp nguy hại
được xử lý an toàn.


21
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến
việc làm của nông dân trong quá trình đô thị hoá ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội
1.2.1. Việc làm và giải quyết việc làm
Việc làm là nhu cầu tự thân, là điều kiện để khẳng định bản thân của
con người trong xã hội. Thông qua việc làm, con người dùng sức lực và trí tuệ
của mình tác động vào thiên nhiên để chuyển hóa thiên nhiên thành của cải
vật chất phục vụ nhu cầu sinh hoạt của con người; đồng thời cũng là quá trình
rèn luyện các phẩm chất cần thiết cho người lao động. Ở một nghĩa khác,
thông qua việc làm, khả năng lao động sang tạo của con người được bộc lộ,
quá trình đó không khám phá, làm chủ tự nhiên mà còn sáng tạo ra chính bản
thân con người. Việc làm bao gồm rất nhiều các công việc khác nhau, ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc làm chính đáng phải là những công
việc không chỉ tạo ra nguồn thu nhập cho cá nhân và xã hội mà còn được sự
thừa nhận và bảo vệ của pháp luật hiện hành. Theo Điều 13, Chương II của
Bộ luật Lao động nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khái niệm
việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy, chỉ những
lao động tạo ra nguồn thu nhập chính đáng, làm lợi cho cá nhân và xã hội,
được pháp luật bảo hộ mới được công nhận là việc làm.

Tuy nhiên, giải quyết việc làm cho người lao động lại là mối quan tâm
của toàn xã hội và ở mọi thời đại khác nhau. Đây không chỉ là nhu cầu của
từng cá nhân mà còn là yêu cầu đối với toàn xã hội. Chỉ có giải quyết tốt việc
làm cho người lao động mới tạo ra sự ổn định và động lực cho mọi sự phát
triển. Đã có rất nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về giải quyết việc làm;
tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất thì: Giải quyết việc làm hiểu là tạo mới và
tạo thêm việc làm cho người lao động. Đây là yêu cầu đặt ra đối với sự phát


22
triển của xã hội, là điều kiện để mở rộng sản xuất, tạo việc làm, thu nhập ổn
định cho người lao động và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác.
Đối với người nông dân từ bao đời nay, đã là nông dân thì phải có
ruộng, do đó họ muốn được sở hữu, khai thác hiệu quả ruộng đất của mình để
có thể sống yên bình ở làng quê. Nhưng trong bối cảnh đô thị hóa, công
nghiệp hóa, dân số tăng, ruộng đất thu hẹp, nhu cầu chi tiêu tăng thì nông dân
có nhu cầu trước tiên là công ăn việc làm và thu nhập. Nông dân mong muốn
được tiếp sức về khoa học và công nghệ, khuyến nông để triển khai ngay công
nghiệp hóa sản xuất trên mảnh đất đã hạn hẹp của mình để có thu nhập cao
hơn, giảm bớt sự nặng nhọc, vất vả trong lao động. Nông dân mong muốn
được đối xử công bằng hơn so với các tầng lớp khác trong xã hội về đóng góp
xây dựng hạ tầng, các dịch vụ công cộng, thuế, lệ phí, thông tin, thu hồi đất
đai… Điều đó sẽ giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp họ sống tốt
hơn để họ có thể cung cấp nguồn lực có chất lượng cao cho xã hội. Nông dân
mong muốn có vai trò lớn hơn trong xây dựng và quản lý nông thôn. Họ
muốn có thông tin về công nghiệp hóa trên quê hương họ. Họ muốn được hỏi
ý kiến, tham gia quyết định và tham gia quản lý quá trình phát triển nông
thôn. Nông dân muốn được tiếp nhận các nguồn đầu tư để giúp họ sống tốt
hơn, nông thôn xanh đẹp hơn, sinh thái hơn.
Xuất phát từ những vấn đề trên cần phải có những định hướng phù hợp

cho người nông dân trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông dân
phải hiện đại, chuyên nghiệp và có tổ chức chặt chẽ, biết phát huy vai trò chủ
thể của nông dân và đào tạo nông dân còn ở lại sản xuất nông nghiệp trở
thành nông dân chuyên nghiệp, có trình độ, học thức, kĩ năng tốt trong sản
xuất kinh doanh giúp nông dân tổ chức lại trong các cộng đồng, để nông dân
để thực sự làm chủ cuộc sống của mình, trở thành chủ thể của phát triển nông
thôn trang giúp một bộ phận lớn nông dân thuận tiện chuyển sang công việc


23
phi nông nghiệp và di cư ra các đô thị, xuất khẩu lao động để phát triển nông
thôn và nâng cao mức sống người dân Từng bước xây dựng hệ thống an sinh
xã hội phục vụ nông dân và cư dân nông thôn, trước hết uy tiên áp dụng cho
các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc ít người, đối tượng khó khăn Chủ
động đào tạo trình độ và tay nghề cho nông dân ra thành phố làm việc và đây
là con đường giảm nghèo nhanh nhất.
Giải quyết việc làm cho người nông dân chính là việc khai thác và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực con người. Với tính cách là chủ thể, con người
tiến hành các hoạt động thực tiễn nhằm phát triển kinh tế - xã hội mà trước
hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tính cách là mục tiêu, con người
hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết, có
việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người
lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân
người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không
tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu
cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển của nền kinh tế.
Giải quyết việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá
trình sản xuất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bất kỳ một đất
nước nào, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động và tăng
trưởng kinh tế đều có mối quan hệ nhân - quả với nhau, ngay cả khi quốc

gia đó có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí bị
thiên tai đe dọa. Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc
gia, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý
nguồn lực con người đang được thừa nhận là quan trọng và quyết định
nhất đối với một nền kinh tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Thực hiện tốt các chính sách về lao
động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao


×