Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Phát triển làng nghề ở huyện thường tín, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.51 KB, 91 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

LÊ TUẤN TÚ

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

LÊ TUẤN TÚ

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN MINH KHẢI

HÀ NỘI – 2014


2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Bình quân
Cộng hòa liên bang
Công nghiệp
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Đơn vị tính
Tổng sản phẩm quốc nội
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Luận án tiến sĩ
Làng nghề
Làng nghề truyền thống
Thủ công nghiệp
Trách nhiệm hữu hạn
Tiểu thủ công nghiệp
Triệu đồng
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
Sản xuất kinh doanh

Chữ viết tắt
BQ
CHLB
CN
CNH-HĐH
ĐVT
GDP
HĐND

HTX
LATS
LN
LNTT
TCN
TNHH
TTCN
tr.đ
UBND
XHCN
SXKD


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Khái niệm và vai trò của làng nghề
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển làng nghề
1.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề một số địa phương và
bài học kinh nghiệm cho Thường Tín
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THƯỜNG TÍN TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát
triển làng nghề ở huyện Thường Tín
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra về phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín

Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
LÀNG NGHỀ THƯỜNG TÍN
3.1. Phương hướng phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín
3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển làng nghề tại
huyện Thường Tín
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
3
10
10
17
25
34
34
39
59
59
61
82
84


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông thôn Việt Nam đã tồn tại những làng nghề truyền thống có bề dày
lịch sử hàng trăm năm, và với nhiều loại sản phẩm nổi tiếng bởi tính độc đáo

và độ tinh xảo cao. Làng nghề truyền thống và sản phẩm của nó tạo nên bản
sắc riêng, do vậy việc giữ gìn, kế thừa, hiện đại hoá ngành nghề truyền thống
có ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và văn hoá. Trong lịch sử lâu dài, trong hiện
tại cũng như trong tương lai các làng nghề truyền thống có vai trò hết sức
quan trọng đối với đời sống kinh tế của nông thôn. Nó có ý nghĩa đặc biệt đối
với phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội nông thôn theo
hướng CNH- HĐH đất nước. Các làng nghề truyền thống đã thu hút được một
khối lượng lớn lao động cho xã hội, góp phần tích cực vào việc giải quyết tình
trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
Thường Tín là huyện thuộc châu thổ sông Hồng, nằm ở phía nam thủ
đô Hà Nội từ xưa đã nổi tiếng với rất nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ
truyền thống như: tiện Nhị Khê, thêu Quất Động, sơn mài Duyên Thái, điêu
khắc Nhân Hiền, bông len Trát Cầu.... Từ năm 1986, chuyển sang nền kinh
tế thị trường với cơ chế phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các
làng nghề truyền thống dần dần được hồi sinh. Nhiều làng trở thành làng
nghề mới như: làng nghề mộc Vạn Điểm, bông len Trát Cầu, thêu ren
Thắng Lợi, Dũng Tiến…. Hiện nay Thường Tín có 126 làng nghề (làng cổ)
trong đó đã có 46 làng nghề đã được UBND tỉnh Hà Tây và UBND Thành
phố Hà Nội công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề đã tạo
công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân vùng
nông thôn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của huyện.


5

Được may mắn phụ trách và làm việc tại Phòng Công thương trước
đây, nay là Phòng Kinh tế của huyện Thường Tín, tôi đã có nhiều năm gắn bó
với các làng nghề, cùng trăn trở nghiên cứu tìm giải pháp để đẩy mạnh ngành

nghề thủ công của huyện, nâng cao thu nhập, đời sống người thợ và ít nhiều
cũng đã đóng góp cho sự phát triển hiện nay các làng nghề của huyện. Vì thế
tôi chọn đề tài: “Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Làng nghề là mảng đề tài không phải quá mới mẻ nên đã có nhiều
nghiên cứu liên quan tới đề tài.
a. Các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài ở nước ngoài
Awgichew, “Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển các làng
nghề”, 2010.
Bài nghiên cứu của tác giả trong Hội thảo quốc tế về các chính sách
phát triển làng nghề đã đề cập tới các kinh nghiệm của Chính phủ Ethiopia
trong việc chú trọng nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng giúp các làng nghề
phát triển.
Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng (Trung Quốc), Dự án:
“Tìm hiểu và Thương mại hóa nghề thủ công ở tỉnh Vân Nam”, 2011.
Dự án đã đưa ra biện pháp cải thiện thu nhập của phụ nữ ở huyện miền
núi Malutang bằng cách thương mại hóa sản phẩm thêu truyền thống.
b. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan tới đề tài
Bùi Văn Vượng, “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”, NXB
Thống kê, 1998.
Tác giả đã tập trung trình bày các loại hình làng nghề truyền thống như:
đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm, trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân
gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây tre đan, ngọc trai, làm trống. Ở đây chủ yếu


6

giới thiệu lịch sử, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết
nghề, thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật của các nghệ nhân và các làng nghề thủ

công truyền thống Việt Nam.
Dương Bá Phượng, “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình CNH, HĐH”, NXB Thống kê, 2001.
Tác giả đã đề cập khá đầy đủ từ lý luận đến thực trạng của làng nghề:
từ đặc điểm, khái niệm, con đường và điều kiện hình thành làng nghề, tập
trung vào một số làng nghề ở một số tỉnh với các quan điểm, giải pháp và
phương hướng nhằm phát triển các làng nghề trong CNH, HĐH.
Tập thể tác giả Học Viện Tài Chính, đề tài khoa học “Hoàn thiện các
giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi phục và phát triển làng nghề ở nông
thôn vùng Đồng bằng sông Hồng”, 2004.
Đề tài tập trung làm rõ lý luận về làng nghề ở nông thôn, đánh giá thực
trạng phát triển làng nghể ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng và đi sâu
vào các giải pháp kinh tế, tài chính nhằm khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống này.
“Nghiên cứu qui hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng CNH
nông thôn Việt Nam” của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (2002) đã đạt được một số kết quả sau:
+ Lập bản đồ ngành nghề thủ công trên toàn quốc.
+ Đánh giá hiện trạng các mặt hàng thủ công như: cói, sơn mài, chạm
khắc đá...
+ Đánh giá hiện trạng các vấn đề nguyên liệu, điều kiện làm việc, tài
chính, vốn...
+ Đặc biệt, đưa ra vấn đề hỗ trợ của chính phủ cho sản xuất nghề thủ
công truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Sự hỗ trợ trên các phương
diện: hỗ trợ trực tiếp vốn, hỗ trợ gián tiếp về thực hiện thương mại bình đẳng,
năng lực quản lý kinh doanh.


7


GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh, “Phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng
bằng sông Hồng”, 2005.
Tác giả đã phân tích vai trò của làng nghề và những nhân tố tác động
đến sự phát triển của làng nghề. Dựa trên cơ sở chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề đề tài đã đi sâu khảo sát, đánh giá
thực trạng phát triển làng nghề ở đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới
từ 1986 đến nay. Từ đó, đề xuất hệ quan điểm và các giải pháp chủ yếu phát
triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của các làng nghề ở
một số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Liên Minh, “Một số vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề’ tại Hội
thảo ‘Nghề và làng nghề thủ công truyền thống: Tiềm năng và định hướng
phát triển’ được tổ chức tại Thành phố Huế (6/2009).
Ông đã đưa ra được những nhận định về việc bảo tồn và phát triển làng
nghề thủ công truyền thống nói chung ở Việt Nam và chủ trương, chính sách
hỗ trợ của Chính phủ trong lĩnh vực này. Đồng thời, ông đã đưa ra những
quan điểm; mục tiêu; định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề theo vùng
lãnh thổ; nội dung bảo tồn và phát triển làng nghề và một số giải pháp thực
hiện bảo tồn và phát triển làng nghề. Tuy nhiên, hạn chế của bài viết chỉ nêu
khái quát tình hình mà chưa có nghiên cứu sâu về thực trạng các làng nghề.
Do đó, các giải pháp đưa ra cũng chỉ mang tính định hướng là chính mà
không có tính chiến lược cho từng địa phương cụ thể.
- Mai Thế Hởn với đề tài " Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình CNH,HĐH vùng ven thủ đô", LATS trường Đại học Kinh tế quốc dân,
năm 2000.
Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề
truyền thống, phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH.
Đồng thời luận án cũng nghiên cứu kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền


8


thống tại các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở này, luận án đánh giá thực
trạng phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH vùng ven
thủ đô từ năm 1994 – 1999 và đề xuất giải pháp phát triển làng nghề truyền
thống trong thời gian từ 2000 – 2005.
- Trần Minh Yến với đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông
thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH", LATS trường Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2003.
Luận án cũng đã trình bày đầy đủ những vấn đề lý luận cơ bản về phát
triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH,
HĐH. Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển làng nghề trong giai đoạn từ
1997 – 2002 tại nông thôn Việt Nam, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát
triển làng nghề nông thôn trong quá trình CNH, HĐH.
Nguyễn Trọng Tuấn : "Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", LVTHS kinh tế, năm 2006.
Luận văn đã trình bày đầy đủ những vấn đề lý luận cơ bản về nghề
truyền thống. Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển nghề truyền thống trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ 2000 - 2005, tác giả đã đề xuất các
giải pháp phát triển nghề truyền thống trong quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế.
- Trần Văn Chăm: "Tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong quá
trình CNH, HĐH", LVTHS kinh tế năm 2006.
Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tiểu thủ công
nghiệp, phát triển làng tiểu thủ công nghiệp. Trên cơ sở này, luận văn đánh giá
thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bản tỉnh Bắc Ninh trong
quá trình CNH, HĐH và đề xuất giải pháp phát triển tiểu thủ công nghiệp
trong thời gian tới.
Ngoài ra, trong nước và trên thế giới còn có nhiều bài báo khoa học,
báo cáo nghiên cứu về làng nghề và phát triển làng nghề.



9

Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Phát triển làng
nghề ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế
chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành..
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển làng nghề ở huyện Thường
Tín, từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển làng
nghề ở huyện Thường Tín trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về làng nghề và phát triển làng nghề
- Đánh giá thực trạng phát triển các làng nghề ở huyện Thường Tín, chỉ
ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần phát triển các làng nghề
trên địa bàn huyện Thường Tín thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển làng nghề trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làng nghề về phát triển làng nghề trong phạm vi
huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 2008 cho tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính
trị, gồm: Phương pháp trừu tượng học, phương pháp thống kê, phân tích, điều



10

tra xã hội học, phương pháp hệ thống hóa, mô hình hóa và đồ thị, phương
pháp chuyên gia,….
6. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa được các vấn đề lý luận cơ
bản về làng nghề nói chung và làng nghề huyện Thường Tín nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc đánh giá phân tích thực trạng phát
triển làng nghề tại huyện Thường Tín, Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp
giúp các nhà quản lý tại huyện trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn
gồm 3 chương


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN
THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Khái niệm và vai trò của làng nghề
1.1.1. Khái niệm làng nghề
Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời và gắn chặt với nông nghiệp
và kinh tế nông thôn. Thông thường các làng xã ban đầu sống chủ yếu dựa
vào trồng trọt và chăn nuôi có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển
của xã hội, một số nghề phụ trong các gia đình đã phát triển và dần dần hình
thành làng nghề. Ngày nay, ở nhiều địa phương bên cạnh làng nghề truyền
thống (LNTT) còn có những làng nghề (LN) mới.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về LN cũng như các quy định

khác nhau về tiêu chuẩn để công nhận LN giữa các địa phương trong nước.
Khái quát chung lại thì LN được hiểu là những làng ở nông thôn có một hay
một số nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng
thu nhập so với nghề nông.
Trong quá trình phát triển của kinh tế thị trường, ngày nay LN không bị
bó hẹp trong phạm vi một làng mà chúng lan toả ra thành nhiều làng, xã, vùng
cùng sản xuất các ngành nghề thủ công. Mặt khác ngành nghề ở các LN cũng
được mở rộng và phát triển cả về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hoạt
động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống con người với các loại hình sản
xuất kinh doanh (SXKD) chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Các thành phần kinh
tế không còn phổ biến là các hộ gia đình mà đã đa dạng các thành phần, các tổ
chức kinh tế như các tổ hợp, hợp tác xã, các loại hình doanh nghiệp tư nhân,
các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn...
Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Có nhà nghiên cứu cho
rằng "Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành


12

bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định
trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính,
giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa". Có nhà nghiêu cứu
định nghĩa "Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ
công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công.
Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng
yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất
hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình” [54, tr.1].
Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành
và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hoá nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của nông nghiệp và

nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền
kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng ở đó có số người
chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ
nghề đó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng dân số của làng. Tiêu chí để xem xét
một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là:
Thứ nhất, số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công chiếm từ
40- 50%.
Thứ hai, thu nhập từ nghề thủ công chiếm trên 50% tổng giá trị sản
lượng của làng .
Tuy nhiên những tiêu chí trên không phải là tuyệt đối mà chỉ có ý nghĩa
tương đối về mặt định lượng. Bởi vì ở mỗi làng nghề bao giờ cũng có sự khác
nhau về quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm và số
người tham gia vào trong quá trình sản xuất. Do vậy sự phát triển của các làng
nghề thường khác nhau và có những biến động khác nhau trong từng thời kỳ.
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phân công
lao động đã phát triển ở mức độ cao hơn thì khái niệm làng nghề cũng được


13

mở rộng hơn, nó không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ chuyên làm
nghề thủ công. Điều này có thể hiểu dưới hai góc độ: Thứ nhất là, công
nghệ sản xuất không hoàn toàn là công nghệ thủ công như trước đây, mà ở
nhiều làng nghề đã áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ khí. Thứ hai là,
trong các làng nghề khi sản xuất phát triển ở mức độ cao hơn thì sẽ làm nảy
sinh sự phát triển của nhiều nghề khác nhằm phục vụ cho nó. Do vậy, xuất
hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản
phẩm cho các hộ và cơ sở sản xuất chuyên làm nghề thủ công, từ đó hình
thành và phát triển những làng nghề với mô hình kết hợp nhiều nghề.

Chẳng hạn như ở Ninh Hiệp xuất hiện thêm nhiều nghề mới ngoài những
nghề truyền thống và dần dần hình thành nên một mô hình kết hợp nôngcông- thương - dịch vụ.
Tóm lại, khái niệm làng nghề cần được hiểu là một cụm dân cư sinh
sống trong một làng (thôn, tương đương thôn) thuộc các xã, phường, thị
trấn, có hoạt động sản xuất kinh doanh các ngành nghề ở từng hộ gia đình
hoặc các cơ sở trong làng , sử dụng các nguồn lực trong và ngoài địa
phương sản xuất và kinh doanh một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau,
phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ yếu của
một bộ phận người dân trong làng (những làng ở nông thôn có các ngành
nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, lao động và tỷ trọng thu nhập
so với nghề nông).
LN mới được hình thành trên cơ sở phát triển lan toả của nghề truyền
thống, việc truyền nghề, nhận cấy nghề mới sang các làng xã khác. Cùng với
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và phát triển
kinh tế thị trường đã hình thành các LN hiện đại, SXKD đa dạng, kỹ thuật
công nghệ hiện đại. Đó chính là những LN mới ra đời trong quá trình CNH HĐH nông nghiệp, nông thôn.


14

Nghề truyền thống
Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của
một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ
này qua thế hệ khác. Truyền thống thể hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy nhiên
cũng có sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình thức
như truyền thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề
truyền thống.
Với vị trí là nền công nghiệp thôn xã, từ xa xưa các nghề truyền thống
ở Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hoá phục vụ
sản xuất và đời sống của nhân dân. Qua gần ba mươi năm đổi mới, nền kinh

tế Việt Nam chuyển dần sang cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, các nghề truyền thống vùng này đã có nhiều biến động. Nhiều nghề
mới, mặt hàng mới, làng nghề mới hình thành góp phần to lớn về kinh tế – xã
hội ở nông thôn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời vẫn mang nặng
tính chất nông nghiệp, nông thôn với những yếu tố tích cực và hạn chế. Hiện
nay, khái niệm về nghề truyền thống, làng nghề truyền thống còn có những ý
kiến khác nhau. Có người coi nghề truyền thống là nghề cổ truyền, có người
căn cứ vào thời gian tồn tại, số hộ theo nghề và thu nhập từ nghề so với tổng
thu nhập trong làng xã nhưng cũng có người lại quan niệm ngành nghề truyền
thống là ngành nghề nông thôn đã được tồn tại trong một số năm nhất định…
Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thì: “Nghề truyền thống là nghề đã được hình
thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu
truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền”
[6, tr.2].
Theo định nghĩa này thì một nghề được xếp vào các nghề thủ công truyền
thống cần hội đủ các yếu tố sau:


15

Một là, đã hình thành và phát triển lâu đời
Hai là, sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề
Ba là, có nhiều thế hệ nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề
Bốn là, kỹ thuật và công nghệ khá ổn định
Năm là, sử dụng nguyên liệu trong nước
Sáu là, sản phẩm tiêu biểu và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất
lượng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá của dân tộc, mang bản sắc
văn hoá Việt Nam, với những giá trị văn hoá phi vật thể rất cao.
Làng nghề truyền thống

Khái niệm làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai khái
niệm nghề truyền thống và làng nghề được trình bày ở trên.
Như vậy làng nghề truyền thống là làng nghề có lịch sử hình thành
và phát triển lâu đời, sản phẩm có tính truyền thống, có uy tín trên thị
trường, có giá trị kinh tế và văn hoá cao.
Nói cách khác, làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay
nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất
kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm; những
nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là qua nhiều
thế hệ; cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở
thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với những tầng lớp thợ thủ
công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp chuyên tâm sản xuất, có quy trình
công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó; sản phẩm làm ra có tính
mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường.
1.1.2. Vai trò của làng nghề
Làng nghề có ý nghĩa và tác dụng nhiều mặt trong việc giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của cư dân nông thôn, trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, ổn định xã
hội, đồng thời có ý nghĩa to lớn về bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc.


16

Thứ nhất, là giải quyết việc làm và giảm tình trạng thiếu việc làm,
nâng cao điều kiện sống ở nông thôn
Trước hết là giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động trong làng nghề.
Trên thực tế, làm nông nghiệp luôn là một nghề vất vả, nhiều khó khăn gian
khổ trong khi nguồn thu nhập lại thấp và bấp bênh do đặc trưng của nghề làm
nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thời tiết, khí hậu. Bên cạnh
đó, ngành nông nghiệp còn có đặc trưng là mang tính thời vụ cao, vì thế có

những khi người nông dân làm việc mệt nhọc từ sáng đến tối quần quật cho
kịp mùa vụ, nhất là vào vụ mùa hè thu, ngoài thu hoạch ra còn có vụ gieo
cấy…nhưng lại có những khi nông nhàn, hầu như không có nhiều việc làm.
Chính vì vậy, việc phát triển làng nghề sẽ góp phần giải quyết được thời gian
nông nhàn đó cho đội ngũ lao động.
Ngoài ra, hiện nay một số địa phương diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp, các làng quê phải tìm kiếm nghề mới để có thể qua đó tăng
thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Do đó, các làng nghề mới được hình
thành và phát triển, người dân ở đó tập trung vào sản xuất kinh doanh các sản
phẩm từ làng nghề để cải thiện đời sống.
Thứ hai, là góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn
Vấn đề giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn
luôn được xã hội quan tâm. Thông qua việc xem xét mức thu nhập bình quân
đầu người từ làng nghề có thể so sánh với mức thu nhập ở thành thị, từ đó có
thể đánh giá được khoảng cách thu nhập giữa thành thị và khu vực nông thôn.
Do hầu hết làng nghề ở Việt Nam đều nằm ở nông thôn, mặt khác ở nông thôn
nếu làm ở làng nghề thì thông thường sẽ có nguồn thu nhập bình quân cao
hơn so với sản xuất nông nghiệp thuần túy. Chính vì vậy mà thông qua phát
triển làng nghề cũng có thể góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giảm khoảng
cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, cùng với đó làng nghề phát triển sẽ


17

góp phần làm giảm dòng lao động di cư tự do từ nông thôn ra các đô thị đây
là một vấn đề mang tính quy luật của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường.
Thứ ba, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nước ta từ nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang cơ cấu mới: tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lên dần, nhất là tỷ trọng của
khu vực dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng của nông nghiệp giảm dần. Trong nội bộ
kinh tế nông thôn cũng vậy, tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ sẽ tăng lên, tỷ trọng của nông nghiệp sẽ giảm xuống. Phát triển ngành
nghề nông thôn, làng nghề chính là con đường chủ yếu để chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó, chuyển từ lao động nông nghiệp năng
suất thấp, thu nhập thấp sang lao động ngành nghề có năng suất và chất lượng
cao với thu nhập cao hơn. Mục tiêu nâng cao đời sống của cư dân nông thôn
một cách toàn diện cả về kinh tế và văn hóa cũng chỉ có thể đạt được nếu
trong nông thôn, có cơ cấu hợp lý của nông thôn mới, có nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ vận động và phát triển tốt với hệ thống làng nghề tiếp nối
truyền thống văn hóa làng nghề với chuỗi đô thị nhỏ văn minh, lành mạnh.
Thứ tư, là góp phần giữ gìn phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của
địa phương
Phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của địa phương là yếu tố quan
trọng. Ngoài việc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh nó còn ảnh
hưởng đến tiêu dùng và đời sống của dân cư ở nông thôn. Do đó nhân tố này
vừa tác động tích cực lại vừa tác động tiêu cực đến sự phát triển làng nghề.
Về mặt tích cực, yếu tố truyền thống sẽ có tác dụng góp phần bảo tồn
những nét đặc trưng văn hóa riêng có của làng nghề, của dân tộc, làm cho sản
phẩm của làng nghề có tính độc đáo và giá trị cao hơn. Đó là đối với các làng
nghề truyền thống, bởi vì ở những làng nghề này bao giờ cũng có những
người thợ có trình độ tay nghề cao, có trình độ kinh nghiệm sản xuất, có tâm


18

huyết với nghề, và họ cũng chính là người gánh trách nhiệm duy trì, phát triển
những bí quyết riêng của làng nghề, và cứ thế, các bí quyết riêng đó sẽ được

truyền từ đời này qua đời khác, qua các thế hệ. Họ chính là cơ sở cho sự tồn
tại, phát triển bền vững làng nghề trước mọi biến cố và duy trì những nét độc
đáo truyền thống của làng nghề.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì ngoài việc truyền kinh
nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác cũng cần phải biết áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, đó là những công nghệ hiện đại. Khi đó lại cần phải có đội
ngũ những người năng động, sáng tạo để có thể đưa hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển mạnh mẽ được. Trong điều kiện đó, một số yếu tố truyền
thống, phong tục tập quán lại cản trở sự phát triển của làng nghề theo hướng
hiện đại. Bên cạnh đó, còn có những quy định, quy tắc khắt khe, hạn chế
trong nghề, tục lệ làng quê đã trở thành rào cản đến việc mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh của các làng nghề.
Chính vì vậy, sự phát triển bền vững của làng nghề góp phần quan
trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
làng nghề
1.2.1. Quan niệm về phát triển và phát triển làng nghề
Phát triển
Phát triển là khái niệm dùng để khái quát những vận động theo chiều
hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
Trong kinh tế, phát triển bao hàm nghĩa rộng hơn, bao gồm nhiều khía
cạch khác nhau. Sư tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu
kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự
đô thị hoá, sự tham gia của một quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi


19

nói trên là một nội dung của sự phát triển. Phát triển là nâng cao phúc lợi của

nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm
bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là
sự tăng trưởng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng, vật chất,
giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ môi trường.
Phát triển làng nghề
Phát triển làng nghề là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có
hiệu quả cao trong các làng nghề, gắn liền với việc khai thác hợp lý, bảo vệ và
nâng cao chất lượng môi trường sống cũng như đảm bảo những đòi hỏi về ổn
định, nâng cao đời sống, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn có làng nghề.
1.2.2. Nội dung phát triển làng nghề
Nội dung cơ bản của phát triển làng nghề là sự tăng lên về số lượng
làng nghề về quy mô làng nghề, đa dạng sản phẩm làng nghề, chất lượng phát
triển của làng nghề.
- Phát triển làng nghề theo hướng mở rộng về quy mô, số lượng các cơ
sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề
Phát triển làng nghề trước hết là sự gia tăng về số lượng, quy mô làng
nghề, số người tham gia vào sản xuất, chế biến sản phẩm của nghề truyền
thống và nghề mới phát triển và đảm bảo được hiệu quả sản xuất, chế biến.
Sự tăng lên về số lượng làng nghề, quy mô của người tham gia vào
sản xuất, chế biến các sản phẩm thuộc nghề truyền thống có nghĩa là số
lượng ngày được tăng lên cả về số lượng, quy mô sản xuất của các hộ trong
làng nghề. Trong đó những nghề cũ được khôi phục, củng cố, phát triển
nghề mới được hình thành và phát triển cả về số lượng và chất lượng, từ đó
giá trị sản lượng sản phẩm làng nghề không ngừng được nâng lên, sự phát
triển của một làng nghề phải đảm bảo hiệu quả cả về mặt kinh tế - xã hội –
môi trường.


20


Để đánh giá sự phát triển của làng nghề về lượng có thể đánh giá thông
qua mức độ tăng số lượng làng nghề, mức độ tăng về số hộ sản xuất trong các
làng nghề, quy mô lao động các làng nghề. Ngoài ra, còn được đánh giá thông
qua chỉ tiêu. Phát triển về mặt số lượng cũng chính là sự tăng lên không
ngừng qua các năm về số lượng sản phẩm của mỗi làng nghề. Có như vậy mới
thể hiện được rằng số lượng sản phẩm từ làng nghề vẫn đang được duy trì và
phát triển.
- Phát triển làng nghề theo hướng nâng cao chất lượng sản xuất, đổi
mới quy trình công nghệ
Phát triển làng nghề phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm sản
xuất ra, sản phẩm mà thị trường trong nước và nước ngoài thích ứng về mẫu
mã, quy cách, giá cả, đặc biệt là sản phẩm làng nghề truyền thống phát triển
phải được kết hợp sản xuất công nghệ tiên tiến, kết hợp với công nghệ cổ
truyền, kỹ năng kỹ xảo đặc trưng của sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong phát
triển làng nghề luôn luôn được gắn liền với nhau trong làng nghề như một mắt
xích hoàn hảo, sản xuất làng nghề phát triển luôn gắn liền với dịch vụ phát triển
như dịch vụ vật tư nguyên nhiên vật liệu, dịch vụ tiêu dùng dân sinh…
Nội dung cụ thể về sự phát triển về chất lượng của làng nghề như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất. Việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ làm tăng năng suất lao động tăng năng
suất lao động và thu nhập cho người lao động ở địa phương. Đồng thời nâng
cao chất lượng người lao động sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm đầu ra. Chất
lượng sản phẩm là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của làng nghề nhất là trong giai đoạn nền kinh tế khủng hoảng, suy thoái
trên thế giới như hiện nay. Sản phẩm từ làng nghề hầu hết đều là những sản
phẩm thủ công, tiểu thủ công nghiệp, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ…đều


21


cần phải đảm bảo chất lượng cao nếu không sẽ khó thu hút được khách hàng.
Nhất là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì vấn đề chất lượng sản phẩm cũng
cần phải ngày càng được nâng cao, có như vậy mới đảm bảo được sự phát
triển bền vững cho làng nghề.
Để phát triển chất lượng nguồn nhân lực, Huyện cần có công tác tổ
chức đào tạo cho người lao động, hướng dẫn người lao động sử dụng máy
móc, thiết bị và các kỹ năng cần thiết để có thể thực hiện công việc.
Thứ hai, ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất
Quá trình CNH-HĐH là quá trình phát triển đất nước trong đó có sự
ứng dụng khoa hoc công nghệ, cơ giới hóa trong sản xuất để đạt được hiệu
quả sản xuất cao hơn, theo đó, để nâng cao chất lượng sản xuất, nhằm phát
triển làng nghề về mặt chất lượng thì các cơ sở sản xuất cần áp dụng công
nghệ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất.
Việc đưa máy móc thiết bị vào sản xuất sẽ giúp cho nâng cao chất
lượng sản phẩm, số lượng sản phẩm làm ra được nhiều hơn, tiết kiệm thời
gian hơn, đồng thời có sự đồng đều về kích lượng, chất lượng các sản phẩm
đầu ra, gọn nhẹ được nhiều khâu trong quy trình sản xuất.
Thứ ba, là tăng tính ổn định của thị trường đầu vào:
Nguồn nguyên liệu; nguồn lao động tại làng nghề có ổn định về mặt số
lượng và đảm bảo về mặt chất lượng (lành nghề, sáng tạo, khéo léo,…) hay
không; quy mô nguồn vốn có đủ lớn để phát triển sản xuất không. Sự ổn định
lâu dài của các yếu tố này quyết định tới năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp tại làng nghề, từ đó có thể thấy được khả năng phát triển sản xuất về
lâu dài của các làng nghề.
Thứ tư, là mở rộng thị trường đầu ra của sản phẩm
Thị trường đầu ra của sản phẩm phản ánh sản phẩm có giá trị sử dụng
và có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường. Mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh
khi tham gia vào thị trường thì đều mong muốn có một chỗ đứng nhất định,



22

đóng góp một thị phần nhất định trên thị trường cho dù quy mô của nó nhỏ
hay lớn. Nếu nhanh chóng theo kịp với những sự thay đổi nhu cầu của thị
trường thì mỗi làng nghề sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Điển hình như các
làng nghề sản xuất đồ gỗ gia đình, vật liệu xây dựng, gốm sứ, đá mỹ nghệ…
thì sẽ chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tốt này. Ngược lại, nếu các làng nghề
không thích ứng được với sự thay đổi về nhu cầu thị trường mà vẫn cứ cố
bám lấy kiểu làm ăn cũ thì sản xuất tất yếu sẽ bị giảm sút, có khi lại không thể
duy trì được sự tồn tại của nghề. Ví dụ như các nghề thuộc về đan lát: đan
nón, đan mành cọ, đan quạt, đan rổ rá…
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì các làng nghề
phải tự tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình. Có mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm thì các làng nghề mới có thể mở rộng quy mô sản
xuất và duy trì sản xuất trong lâu dài được.
Như vậy, ta có thể thấy được rằng, để có thể tồn tại và phát triển thì mỗi
làng nghề phải tự xây dựng cho mình thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ổn
định, có khả năng thì phải không ngừng tìm kiếm thị trường trong nước lẫn
thị trường nước ngoài
Thứ năm, cơ cấu làng nghề
Phát triển làng nghề theo hướng tăng trưởng quy mô, tuy nhiên cần ưu
tiên phát triển mạnh các nghề có giá trị sản xuất và lợi nhuận cao như các
nghề sơn mài, xương sừng, mây giang đan… các sản phẩm này không chỉ
được ưa chuộng trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu cao. Phát triển làng
nghề theo hướng tăng tỷ trọng các ngành cho giá trị cao sẽ góp phần tăng thu
nhập cho người dân, cải thiện kinh tế trên địa bàn
1.2.3. Các nhân tố tác động đến làng nghề
Một là, điều kiện tự nhiên
Những nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là vị

trí địa lý, và điều kiện tự nhiên như khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm... Nhân tố vị trí


23

địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của làng nghề. Nếu một làng
nghề có địa thê nằm gần nơi có nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm
hay có những yếu tố thuận lợi tự nhiên về thông thương thì đó là những đặc
điểm thuận lợi quan trọng cần khai thác.
Nếu vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển lâu dài của các
làng nghề thì điều kiện tự nhiên của mỗi vùng cũng là một nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của làng nghề. Khí hậu, thời tiết tại mỗi nơi tạo ra
những nguồn nguyên liệu đặc trưng cho các làng nghề. Ví dụ như đối với làng
lụa vạn phóc có khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng dâu nuôi tằm, làng nghề
Bát Tràng có đất đai phù hợp với sản xuất gốm sứ...
Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên là nhóm nhân tố đầu tiên quan trọng
ảnh hưởng đến không chỉ sự hình thành mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển
lâu dài của các làng nghề.
Hai là, chính sách của Nhà nước về phát triển làng nghề
Một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của làng nghề là
các chính sách của Nhà nước. Chính sách của Nhà nước là tổng thể các biện
pháp tác động vào nông nghiệp- nông thôn nhằm thực hiện những mục tiêu
nhất định phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Thực tế cho thấy, nhờ có
các chính sách khuyến khích phát triển của Đảng và Nhà nước ta mà một số
lớn các làng nghề được bảo tồn và khôi phục. Các chính sách có vai trò quan
trọng, tác động trực tiếp đến sản xuất làng nghề tạo điều kiện cho sự phát triển
sản xuất hàng hoá, phát triển sức mạnh của các thành phần kinh tế, góp phần
xây dựng nông thôn mới, cải thiện mức sống chung của người dân nông thôn.
Sự tác động của chính sách đảm bảo cho sự thành công và phát triển của các
làng nghề, phát huy những yếu tố tích cực và khuyến khích sự nỗ lực phấn

đấu của người dân làng nghề. Những chính sách đúng đắn, kịp thời sẽ là động
cơ quan trọng tạo động lực cho phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn và
từ đó góp phần phát triển khu vực nông thôn.


24

Ba là, nhu cầu thị trường
Ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề còn là nhu cầu của thị
trường về các loại sản phẩm của làng nghề. Có cầu thì mới có cung, nếu thị
trường còn có nhu cầu về các loại sản phẩm của làng nghề thì làng nghề mới
có thể có đất sống. Các làng nghề sản xuất thực phẩm bún, bánh,... là đặc sản
quê hương tồn tại được cũng vì những lý do đó. Sản phẩm làm ra hàng ngày
cung cấp cho người tiêu dùng trong khu vực và trở thành những món quà đặc
sắc cho những người ở vùng khác. Cũng như vậy với những làng nghề sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làm ra là sự kết tinh của những tài
hoa, là văn hoá phẩm độc đáo, nhất là đối với người nước ngoài. Với các làng
nghề mới, thị trường khu vực có nhu cầu về sản phẩm của họ vì tính tiện
dụng, thuận lợi trong mua bán, vận chuyển và giá cả hợp lý. Nếu các làng
nghề này không đảm bảo đáp ứng được những yêu cầu trên thì thị trường dễ
dàng chuyển qua các loại sản phẩm tương tự khác có thể thay thế. Như vậy thị
trường là một nhân tố tác động từ phía ngoài nhưng không kém phần quan
trọng với sự phát triển của kinh tế làng nghề.
Bốn là, cơ sở hạ tầng
Vốn và cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định để phát huy các tiềm năng
khác về lao động, ngành nghề các nguồn lực khác. Đây là yếu tố quan trọng,
là cơ sở để giải quyết các yếu tố đầu vào khác. Vốn bao gồm vốn đầu tư và
vốn sản xuất, trong đó vốn đầu tư, trong đó vai trò quan trọng thuộc về vốn
sản xuất. Có vốn nghĩa là có khả năng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của đơn
vị sản xuất, có thể tiến hành nhập nguyên liệu, thuê lao động và giao dịch tiêu

thụ sản phẩm. Tất cả các khâu của sản xuất, tiêu thụ đều cần thiết sự có mặt
của vốn. Không chỉ quan trọng đôi với sản xuất đơn thuần mà quy mô vốn
đầu tư còn trực tiếp ảnh hưởng đến quy mô sản xuất, khả năng mở rộng quy
mô sản xuất và từ đó, có tác động đến hiệu quả kinh doanh. Như vậy, vốn có


×