Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.79 KB, 15 trang )

Đề 18: Phân tích đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
bằng trọng tài thương mại.

MỤC LỤC

1


I.

MỞ ĐẦU

Cơ chế thị trường đang diễn ra vô cùng sôi động, đa dạng và phức tạp, các hoạt
động kinh doanh không ngừng tăng lên về số lượng và mức độ, do đó những bất đồng,
mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp trong các quan hệ kinh doanh cũng diễn ra ngày càng
nhiều, đặt cho chúng ta yêu cầu bức thiết là phải đổi mới một cách sâu sắc toàn diện cơ
chế giải quyết tranh chấp kinh tế cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ
kinh tế trong tình hình mới. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài luôn đảm
bảo tối đa quyền tự định đoạt của đương sự. Cơ sở pháp lý không thể thiếu để xác định
thẩm quyền của trọng tài đối với một vụ tranh chấp là trọng tài thương mại. Việc nắm
vững những vấn đề pháp lý cơ bản về trọng tài thương mại, từ đó vận dụng sáng tạo,
linh hoạt trong hoạt động thương mại không những tạo được điều kiện thuận lợi cho
việc giải quyết tranh chấp mà còn góp phần giữ vững trật tự và ổn định xã hội tạo điều
kiên thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong khuôn khổ nghiên cứu môn học khung pháp luật kinh tế Việt Nam, bài viết
sẽ đi sâu phân tích đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng
trọng tài thương mại với các nội dung chi tiết như dưới đây:
II.

NỘI DUNG CHI TIẾT


1. Khái quát các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng
trọng tài thương mại
1.1. Khái niệm, đặc điểm trọng tài thương mại và giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài
Theo khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 đã nêu: “Trọng tài thương
mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
quy định của Luật này”.
Tại Khoản 1, Điều 4 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định nguyên tắc
giải quyết tranh chấp trọng tài thương mại đầu tiên là: “Trọng tài viên phải tôn trọng
thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã
hội”. Đồng thời Điều 14 của Luật này quy định “Đối với tranh chấp có yếu tố nước
ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có
thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội
đồng trọng tài cho là phù hợp nhất. Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các
bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng
trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc
hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”.
Thực hiện các quy định trên, các Tòa án và cơ quan tư pháp có thẩm quyền đã
tiếp nhận và giải quyết nhiều yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam trên cơ sở của Công ước New York, đảm bảo quyền và lợi
2


ích của các bên có liên quan. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, cải cách pháp luật và
tư pháp thì trọng tài thương mại sẽ ngày càng có vị trí quan trọng hơn trong đời sống
kinh doanh tại Việt Nam.
Thực tiễn trên cho thấy pháp luật Việt Nam cũng giống với các nước trên thế
giới, đề cao nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Hiện nay, Việt Nam cũng
đang tiếp tục hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại, do đó những quy định của

UNIDROIT chắc chắn sẽ rất hữu hiệu đối với Việt Nam.
Có thể đánh giá trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp mang bản chất phi
chính phủ, thông qua hoạt động của các trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập,
được các bên có tranh chấp tin tưởng lựa chọn để giải quyết những mâu thuẩn giữa các
chủ thể này. Giữa các bên xảy ra tranh chấp phải tồn tại một thỏa thuận trọng tài thống
nhất đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài mới có quyền giải quyết.
Trọng tài sẽ giải quyết các xung đột này bằng cách đưa ra phán quyết trên cơ sở nguyên
tắc tự định đoạt của các bên đương sự và buộc các bên phải thi hành phán quyết được
đưa ra.
 Đặc điểm của trọng tài thương mại

-

-

Thứ nhất, tranh chấp giải quyết bằng trọng tài luôn có sự tham gia của bên thứ ba
là một hội đồng trọng tài hay một trọng tài viên duy nhất do các bên thỏa thuận
lựa chọn đóng vai trò trung gian đứng giữa hai bên. Các bên có thể thỏa thuận lựa
chọn trọng tài do chính các bên tự lập ra để giải quyết là trọng tài vụ việc hoặc
trọng tài thường trực mà họ tin tưởng.
Thứ hai, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục tố tụng
chặt chẽ.
Thứ ba, phán quyết cuối cùng của trọng tài đưa ra là sự kết hợp linh hoạt giữa
yếu tố thỏa thuận và yếu tố tài phán. Dựa trên nền tảng tôn trọng sự thỏa thuận
của các bên đương sự, trọng tài xem xét, cân nhắc và được quyền đưa ra phán
quyết cuối cùng, phán quyết này mang tính chung thẩm.

1.2. Đánh giá ưu điểm của giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài thương
mại
Việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài được đánh giá là phương

thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận tiện, thủ tục linh hoạt, nhanh chóng; có
tính chung thẩm; giữ được bí mật kinh doanh cũng như uy tín trên thương trường, đồng
thời tiết kiệm thời gian cho các bên tranh chấp hơn so với việc giải quyết tranh chấp
thông qua Tòa án. Trọng tài thương mại từ lâu đã là một phương thức phổ biến trên thế
giới dùng để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các doanh
nghiệp, tổ chức với nhau. Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 tổ chức trọng tài
thường trực như: Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA), Tòa án trọng tài Quốc tế LonDon
(LCIA), Hiệp hội Trọng tài Singapore (SIAC), Hiệp hội Trọng tài thương mại Nhật Bản
(JCAA), Phòng Thương mại Stockholm (SCC)...

3


Những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài
thương mại bao gồm:
-

-

-

-

Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian. Đối với
phương thức trọng tài các bên được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa
điểm, phương thức giải quyết tranh chấp theo hướng tiện lợi, nhanh chóng,
hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này góp
phần làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết
tranh chấp.
Thứ hai, nguyên tắc trọng tài không công khai giúp các bên hạn chế sự tiết lộ

các bí mật kinh doanh, giữ được uy tín của các bên trên thương trường.
Thứ ba, khả năng chỉ định trọng tài viên giúp các bên lựa chọn được trọng tài
viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về vấn đề đang tranh chấp. Qua
đó có đủ điều kiện giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chính xác.
Thứ tư, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc giải
quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài phán
quyết có giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Tính chung thẩm của
quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà
nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo.
Thứ năm, trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước nên rất
phù hợp để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Thứ sáu, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ chức
phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ , bảo đảm về pháp lý của tòa án trên các
mặt sau: Xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại
về thẩm quyền của hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời; xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết
định trọng tài.Trong quá trình giải quyết tranh chấp nếu quyền và lợi ích của
một bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu
tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong
trường hợp chứng cứ bị tiêu hủy; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa
hoặc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện
trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
phong tỏa tài sản tại ngân hàng.

2. Bình luận về pháp luật giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
2.1. Bình luận về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài hiện
nay
2.1.1. Tình hình thực tế và một số đánh giá chung
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài đã phổ biến ở hầu hết
các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế, chính trị, xã hội nên

hình thức này phát triển muộn hơn. Từ năm 1993 đến nay, trước sự đòi hỏi của thực tiễn,
ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 204/1993/TTg về việc thành
4


lập trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). VIAC được ghi nhận là tổ chức phi
chính phủ được thành lập bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như các
hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc
tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế.
Tại Việt Nam, trong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được giải
quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC liên tục tăng, từ 18 vụ/năm (giai đoạn
1993 – 2003) lên 42 vụ/năm (giai đoạn 2004 – 2010). Đội ngũ trọng tài viên không
ngừng được mở rộng.
Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật đối với sự phát triển của trọng tài cũng
như để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương thức này ngày càng gia tăng,
đồng thời thể hiện sự tôn trọng luật chơi chung trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ngày
25/4/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại.
Tiếp đó, Luật Trọng tài thương mại, được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011, khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm
quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, cho phép trọng tài viên là người
nước ngoài cũng như nội luật hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ trọng
tài…
Với lợi thế đó, trong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được giải
quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC liên tục tăng, từ 18 vụ/năm (giai đoạn
1993 – 2003) lên 42 vụ/ năm (giai đoạn 2004 – 2010). Đội ngũ trọng tài viên cũng
không ngừng được mở rộng. Sáu tháng đầu năm 2012, VIAC đã kết nạp thêm 37 trọng
tài viên, trong đó có 12 trọng tài viên nước ngoài, nâng tổng số trọng tài viên của Trung
tâm lên 151 người, tăng gần 30% so với năm 2009. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài
thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết

khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại. Số vụ tranh chấp mà VIAC thụ lý trong
năm 2011 là 83, vẫn rất khiêm tốn nếu so với 188 vụ mà Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Singapore (SIAC) giải quyết hay như Uỷban trọng tài Bắc Kinh là 1.500 vụ.
Nguyên nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều thiếu sót,
chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm 2010 mặc dù đáp ứng
phần nào yêu cầu thực tế song sau một thời gian đi vào hoạt động đã bộc lộ nhiều thiếu
sót, bất hợp lý. Chưa kể, thói quen, tập quán của thương nhân Việt Nam tin tưởng tòa án
hơn trọng tài. Hơn nữa, trình độ trọng tài viên ở Việt Nam đều là những người kiêm
nhiệm trong lĩnh vực thương mại. Cho nên, một số trọng tài viên còn chưa chuyên
nghiệp. Trong khi đó, các tranh chấp thương mại ngày càng phức tạp, nhất là tranh chấp
có yếu tố nước ngoài.
2.1.2. Các tồn tại hạn chế và nguyên nhân
 Các hạn chế đang tồn tại
5


Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, thực tiễn cho thấy thời gian qua,
hoạt động trọng tài thương mại đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, chất lượng đội ngũ trọng tài viên tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn
hạn chế. Một số trọng tài viên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức thương mại quốc tế;
còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp, nhất là các vụ việc
tranh chấp đầu tư quốc tế; số trọng tài viên có trình độ ngoại ngữ để có thể tham gia
tranh tụng tại các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế còn rất ít.
Thứ hai, số vụ việc được giải quyết bằng trọng tài trong 4 năm qua đã có xu
hướng tăng lên. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn, việc giải quyết các tranh chấp
thương mại vẫn còn ở mức khiêm tốn. Theo thống kê, số vụ tranh chấp giải quyết bằng
trọng tài tại Việt Nam mới chỉ chiếm chưa đến 1% trên tổng số vụ tranh chấp thương
mại được tòa án thụ lý, xét xử hàng năm. Bên cạnh đó, trung tâm trọng tài được thành
lập nhiều nhưng số trung tâm thường xuyên có vụ việc giải quyết còn ít, thậm chí có
trung tâm từ khi thành lập cho đến nay chưa ban hành một phán quyết trọng tài nào. Nếu

so sánh về số lượng các vụ tranh chấp thương mại được giải quyết bằng phương thức
trọng tài tại các trung tâm trọng tại của Việt Nam với một số trung tâm trọng tài quốc tế
trên thế giới, thì ở Việt Nam ít hơn rất nhiều. Theo đó, năm 2015, Phòng Thương mại
quốc tế (ICC) giải quyết 801 vụ; Tòa án Trọng tài Quốc tế LonDon (LCIA) giải quyết
326 vụ; Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại quốc tế Trung Quốc (CIETAC giải
quyết 1.968 v..v...
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài còn chưa được
quan tâm đúng mức; việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong tổ chức, hoạt động trọng
tài còn chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao; công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa thực hiện
thường xuyên.
Thứ tư, hiện vẫn chưa thành lập được Hiệp hội trọng tài - tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của trọng tài viên để đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của trọng tài viên;
đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp,
kiểm tra, giám sát trọng tài viên trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức
nghề nghiệp.
 Nguyên nhân của vấn đề tồn tại

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu
là các nguyên nhân sau đây:
Một là, thể chế về tổ chức, hoạt động trọng tài mặc dù đã từng bước được hoàn
thiện, tuy nhiên giữa quy định của pháp luật về trọng tài thương mại với quy định của
một số lĩnh vực pháp luật khác vẫn chưa đồng bộ; một số nội dung còn chưa thống nhất;
chưa có cơ chế hữu hiệu để giám sát việc hủy phán quyết trọng tài của cơ quan tòa án.
Hai là, số lượng trung tâm trọng tài ở nước ta được thành lập tương đối nhiều so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, cơ sở vật chất của phần lớn
các trung tâm trọng tài chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để phục vụ cho hoạt động của các
6


trọng tài viên; công tác quản lý, điều hành các hoạt động của một số Trung tâm còn

thiếu tính chuyên nghiệp, chưa hiệu quả.
Ba là, trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại mới hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Do
đó, hiểu biết và nhận thức của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, nhất là cộng đồng doanh
nghiệp về phương thức giải quyết này vẫn còn chưa đầy đủ. Phần lớn doanh nghiệp của
Việt Nam chưa có thói quen, niềm tin sử dụng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp
của mình và khả năng thực thi các phán quyết của trọng tài trong thực tế.
Bốn là, do các căn cứ pháp lý để hủy phán quyết trọng tài còn được hiểu chưa
thống nhất nên tình trạng hủy phán quyết trọng tài trong thời gian qua với tỷ lệ còn cao.
Bên cạnh đó, việc chậm thi hành phán quyết trọng tài; tỷ lệ đơn yêu cầu phán quyết
trọng tài được thi hành trên thực tế chưa cao đã làm cho hoạt động trọng tài kém hấp
dẫn.
Năm là, một số cơ quan quản lý nhà nước về trọng tài chưa phát huy hết trách
nhiệm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa phương; công tác kiểm
tra, thanh tra tổ chức, hoạt động của các trung tâm trọng tài đôi khi còn buông lỏng. Cơ
chế phối hợp trong việc quản lý tổ chức, hoạt động trọng tài tại địa phương còn chưa
được chặt chẽ. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý về lĩnh vực trọng tài thương mại
còn mỏng, chưa được đào tạo bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức, kỹ năng quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực này.
2.2. Bình luận một số quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
bằng trọng tài: thoả thuận trọng tài
2.2.1.

Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài

Luật TTTM không quy định các điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực
nhưng Điều 18 lại quy định các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, như vây với các
thỏa thuận trọng tài không vi phạm Điều 18 thì được coi là thỏa thuận trọng tài có hiệu
lực. Các điều kiện được quy định tại Điều 18 Luật trọng tài 2010 là hợp lý so với tổng
thể các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Như vậy một thỏa thuận trọng tài

đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định thì nó mới có hiệu lực.
- Điều kiện về thẩm quyền của trọng tài: Khoản 2 Điều 3 LTTTM 2010: “Thỏa thuận
trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể
phát sinh hoặc đã phát sinh”, việc quy định như vậy là phù hợp với luật mẫu và luật
trọng tài quốc tế. Quan trọng là nó đề cao thỏa thuận của các bên. LTTTM 2010 còn để
mở khả năng trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp không phát sinh từ hoạt
động thương mại nhưng được pháp luật có liên quan quy định sẽ được giải quyết bằng
trọng tài. Tuy vậy không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết được bằng trọng tài,
ngay cả khi giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự thỏa thuận, đó là khi pháp
luật nơi diễn ra trọng tài không cho phép giải quyết tranh chấp đó thông qua hình thức
trọng tài.

7


- Điều kiện về năng lực chủ thể: Pháp luật nước ta quy định khá cụ thể về năng lực chủ
thể khi ký kết thỏa thuận trọng tài, theo khoản 3 Điều 18 LTTTM 2010 quy định về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu: “Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi
dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự”. Đây chính là tiêu chí để xác định hiệu lực của
thỏa thuận thương mại, bởi chỉ khi các bên tham gia thỏa thuận trọng tài có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì mới xác định được nội dung của thỏa
thuận trọng tài, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Vì vậy người
tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự.
- Điều kiện về hình thức thỏa thuận trọng tài: Theo khoản 2 Điều 16 LTTTM năm 2010
thì hình thức của thỏa thuận thương mại được thể hiện dưới hình thức văn bản. Ngoài ra
còn có một số thòa thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản (thỏa thuận
được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng fax, telex...). Cũng theo quy định tại điều
luật này thì thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng có thể là hình thức thỏa thuận riêng theo
khoản 1 điều này. Có thể thấy rằng các quy định này linh hoạt hơn về thời điểm xác lập
thỏa thuận trọng tài và tạo sức hút cho phương thức giải quyết tranh chấp. Đồng thời đã

có một cách tiếp cận mới về “văn bản” là tương thích với pháp luật quốc gia, LTTTM
2010 đã ghi nhận dưới hình thức trong giao dịch các bên có thể dần chiếu đến một văn
bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty...
- Điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể. Thỏa thuận trọng tài là một loại hợp đồng
trong đó ý chí tự nguyện của chủ thể đóng vai trò là một nguyên tắc vô cùng quan trọng
trong quá trình xác lập. Quy định của LTTTM 2010 cũng dựa trên quy định cơ bản của
bộ luật dân sự – đó là dựa trên ý chí tự nguyện của các bên. Đồng thời LTTTM 2010
cũng quy định thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp (khoản 1 Điều 5 LTTTM), quy định này đã mở rộng phạm vi giải quyết tranh chấp
giữa các bên. Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu nó không phải là kết
quả của sự thống nhất ý chí của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Dựa trên cơ sở sự
thống nhất ý chí, các bên thỏa thuận về các yếu tố liên quan đến quá trình giải quyết
tranh chấp: tở chức trọng tài, hình thức trọng tài, ngôn ngữ, địa điểm... và các nội dung
khác phù hợp với lợi ích của các bên. Đồng thời nội dung của thỏa thuận trọng tài không
vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
2.2.2. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
 Hiệu lực độc lập với hợp đồng chính

Theo Điều 19 LTTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng
chính: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy
bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực
của thoả thuận trọng tài”, có thể nói đây là một nguyên tắc rất quan trọng, đảm bảo mọi
tranh chấp phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô hiệu.
Trên thực tế thỏa thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn giản dưới
hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào hợp đồng thương mại. Thực tế điều
khoản trọng tài có một mức độ độc lập nhất định đối với hợp đồng chính. Nói cách khác,
8


việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng bằng trọng

tài.
Dưới đây là khái quát các trường hợp mà trong đó hợp đồng chính vô hiệu hoặc
hết hiệu lực nhưng thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực:
+ Trong trường hợp bất khả kháng kéo dài khiến hợp đồng không thể thực hiện được,
các bên phải chấm dứt hợp đồng nhưng điều khoản trọng tài vẫn phát huy hiệu lực để
giải quyết vấn đề chấm dứt hợp đồng;
+ Trong trường hợp hợp đồng đã được các bên thực hiện xong nhưng điều khoản trọng
tài vẫn còn hiệu lực để có thể thành lập tổ chức trọng tài xem xét hậu quả pháp lý và
nghĩa vụ của các bên;
+ Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu vì đối tượng của hợp đồng vi phạm điều cấm của
pháp luật nhưng điều khoản trọng tài thì vẫn có hiệu lực bởi đối tượng của thỏa thuận
trọng tài là hoàn toàn hợp pháp;
+ Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu từng phần nhưng phần hợp đồng bị vô hiệu không tự
động kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, sự vô hiệu của hợp đồng chính sẽ làm cho
điều khoản trọng tài cũng trở nên vô hiệu, nhất là trong trường hợp nguyên nhân làm
cho hợp đồng chính vô hiệu trùng với nguyên nhân làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu
như trường hợp thỏa thuận trọng tài nằm trong một hoạt động được ký kết bởi một trong
các chủ thể không có thẩm quyền và năng lực ký kết hợp đồng hoặc vi phạm nguyên tắc
tự nguyện ký kết hợp đồng.
 Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các chủ thể có liên quan

Thứ nhất, đối với cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Thông
qua việc chỉ định các trọng tài viên, các bên trao cho hội đồng trọng tài quyền hạn để
giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài trao quyền cho hội đồng trọng tài quyết định
giải quyết một tranh chấp mà các bên có nghĩa vụ đệ trình lên trọng tài. Quyết định này
sẽ ràng buộc các bên và nó có thể được cưỡng chết thi hành bởi tòa án.
Thứ hai, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với tòa án quốc gia. Điều 6 LTTTM
năm 2010 đã quy định về việc tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng
tài: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi

kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu
hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Quy định này ddax thể hiện rõ
ràng thái độ của nhà nước đối với thỏa thuận trọng tài và nó như là sự đảm bảo mạnh mẽ
từ phía nhà nước để thỏa thuận trọng tài được các bên tôn trọng. Luật quy định tòa án
không được thụ lý vụ kiện tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài là để khẳng
định thẩm quyền của trọng tài, ngoại lệ được quy định là trường hợp thỏa thuận trọng tài
vô hiệu hoặc không thể thực hiện được. Đồng thời quy định này cũng thể hiện sự tiến bộ
so với pháp lệnh trọng tài thương mại khi pháp lệnh chỉ quy định một ngoại lệ duy nhất
9


là “thỏa thuận trọng tài vô hiệu”, điều này đã gây ra nhiều khó khăn trong thực tiễn hoạt
động tư pháp của Việt Nam
Thứ ba, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các bên tham gia thỏa thuận
trọng tài. Khi ta đã thỏa thuận, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ thỏa
thuận này và không bên nào được đơn phương thay đổi hoặc vi phạm nghĩa vụ trọng tài
 Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài khi có sự thay đổi của một bên

Sau khi thỏa thuận trọng tài được xác lập, có thể có những thay đổi lớn liên quan
đến một bên. Trong trường hợp này, LTTTM quy định thỏa thuận trọng tài tiếp tục có
hiệu lực, cụ thể:
Theo khoản 2, khoản 3 Điều 5 LTTTM quy định: “2. Trường hợp một bên tham
gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài
vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó,
trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. 3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận
trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối
với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác.”
 Thẩm quyền xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:


Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thẩm quyền xem xét và quyết định về hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài thuộc về hội đồng trọng tài do các bên thành lập, tòa án
nhân dân.
2.2.3. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu và hậu quả của thỏa thuận trọng tài vô hiệu
 Thỏa thuận trọng tài vô hiệu

Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thực hiện về việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thuận đó không được công nhận hiệu lực.Pháp
lệnh trọng tài thương mại 2003 đã liệt kê các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị coi là vô
hiệu, tuy nhiên một số quy định không hợp lý và mâu thuẫn với các quy định khác của
pháp lệnh này cũng như thông lệ của pháp luật quốc tế: Thỏa thuận trọng tài không quy
định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên có thẩm quyền bổ sung.
LTTTM 2010 đã khắc phục hạn chế trên của pháp lệnh trọng tài thương mại, Điều
18 LTTTM 2010 quy định cụ thể về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu như
sau:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực, không thuộc thẩm quyền của trọng tài quy
định tại điều 2 của luật này. Theo điều 2 của luật, phạm vi thẩm quyền của trọng tài
được mở rộng không chỉ bao gồm tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại hiểu

10


theo nghĩa rộng như quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại. Như vậy phạm vi xác
định thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không thuộc thẩm quyền của trọng tài được thu hẹp.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của
bộ luật dân sự.
- Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại điều 16 của luật

này.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng
tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên ký kết bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép, pháp luật đã trao cho họ quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô
hiệu. Khoản 5 Điều 18 LTTTM đã xóa bỏ quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa
thuận trọng tài vô hiệu là 6 tháng kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài ở khoản 6 Điều
10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Luật xóa đi thời hạn 6 tháng trong trường hợp
này đã góp phần đảm bảo lợi ích các bên khi ký kết thỏa thuận trọng tài. Bên bị lừa dối
đe dọa có thể gửi yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu bất cứ khi nào họ muốn
 Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật

Như vậy LTTTM 2010 đã thu hẹp các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
liên quan đến lĩnh vực tranh chấp vì lúc này phạm vi tranh chấp đã được luật mở rộng
hơn trước. Đối với nội dung của thỏa thuận trọng tài, thì trừ trường hợp vi phạm điều
cầm, còn lại luật không buộc các bên phải quy định rõ đối tượng tranh chấp, không phải
chỉ rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp như pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng trọng tài bị vô
hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp dù không được xác
định cụ thể trong thỏa thuận trọng tài.
 Hậu quả pháp lý của thỏa thuận trọng tài vô hiệu

Tùy thuộc vào từng giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp mà việc thỏa
thuận trọng tài bị vô hiệu có thể dẫn tới những hậu quả pháp lý khác nhau, cụ thể:
- Khi xem xét thụ lý đơn kiện, nếu có cơ sở để khẳng định thỏa thuận trọng tài vô hiệu
thì tổ chức trọng tài từ chối thụ lý vụ việc. Trường hợp các bên không xác lập được một
thỏa thuận trọng tài mới có hiệu lực thì một bên tranh chấp có thể khởi kiện vụ việc ra
tòa án.
- Trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà phát hiện thỏa thuận trọng
tài vô hiệu và các bên tranh chấp không đạt được thỏa thuận trọng tài mới có hiệu lực thì

hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc. Trong trường hợp
này một bên tranh chấp có thể khởi kiện vụ việc ra tòa án có thẩm quyền

11


- Khi hội đồng trọng tài đã ra quyết định cuối cùng mà có một bên yêu cầu tòa án xem
xét hủy phán quyết trọng tài thì trong quá trình xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài, nếu tòa án phát hiện thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu thì tòa án ra quyết định hủy
phán quyết trọng tài. Trong trường hợp này, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận với
nhau để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết. Nếu các bên tranh chấp không đạt được
thỏa thuận trọng tài mới thì một bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra tòa án giải quyết
3. Hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Trọng tài thương mại được các chuyên gia kinh tế đánh giá là phương thức giải
quyết tranh chấp trong tương lai với nhiều ưu điểm nổi trội. Do vậy, Việt Nam muốn hội
nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng và bền vững thì phải không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp
với xu thế phát triển chung.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng cần có hành động
cụ thể nhằm hỗ trợ cơ chế cho hoạt động này. Điển hình như như ở Trung Quốc, các Uỷ
ban trọng tài được cung cấp trụ sở cùng phương tiện làm việc trong thời gian đầu trước
khi tự hoạt động. Nhiều nước châu Á khác như: Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,
Philippines cũng tương tự. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài cũng
cần đến cơ chế phối hợp từ các cơ quan nhà nước, trực tiếp là hệ thống toà án, đặc biệt
trong việc cưỡng chế thi hành phán quyết cũng như công nhận và cho thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài.
Hiệu quả hoạt động của trọng tài còn phụ thuộc vào thái độ của các chủ thể kinh
doanh. Do đó, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng tài cũng như nâng
cao chất lượng dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp hiểu hơn về bản chất và ưu thế của trọng
tài thương mại, từ đó tạo điều kiện cho cơ chế này ngày càng phát triển.

Bên cạnh đó, mỗi trung tâm trọng tài cũng phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
trọng tài viên, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Đặc biệt, công tác nghiên cứu và
giảng dạy pháp luật trọng tài là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mô
hình. Vì thế, cần bồi dưỡng năng lực cũng như định hướng cho sinh viên, đặc biệt là
sinh viên luật và kinh tế về những vấn đề cơ bản trong pháp luật trọng tài.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và vai
trò, lợi ích của việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân, nhất là cộng đồng doanh nghiệp. Cần lựa chọn hình thức tuyên truyền,
phổ biến phù hợp với từng đối tượng; duy trì và phát triển các trang mạng để giới doanh
nghiệp và người dân dễ dàng tiếp cận, chia sẻ thông tin về lĩnh vực này.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển thị trường dịch vụ trọng tài, kết
hợp vai trò giải quyết tranh chấp bằng trọng tài với phương thức giải quyết thông qua
hòa giải thương mại của tổ chức trọng tài thương mại. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi
12


cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ trọng tài. Nhà nước
cần nghiên cứu, lựa chọn một hoặc một số trung tâm trọng tài để có chính sách hỗ trợ,
nâng cao năng lực cho trọng tài viên, thu hút các vụ việc giải quyết tranh chấp tại trung
tâm.
Triển khai có hiệu quả Luật Trọng tài thương mại năm 2010 gắn với việc thực
hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế và
những chủ trương, chính sách, định hướng quan trọng của Đảng về cải cách hành chính,
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từng bước đưa hoạt động trọng tài của Việt Nam
tiệm cận với thông lệ trọng tài thương mại quốc tế; tổng hợp những khó khăn, vướng
mắc về thể chế trọng tài và việc triển khai thi hành Luật Trọng tài thương mại để kịp
thời tháo gỡ, đề xuất sửa đổi, bổ sung thể chế.
Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trọng tài thương
mại. Kiện toàn, nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức tư pháp có nhiệm vụ tham
mưu quản lý nhà nước về trọng tài thương mại; chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin

trong quản lý tổ chức và hoạt động trọng tài thương mại; bố trí kinh phí, cơ sở vật chất
phù hợp cho công tác này. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để kịp thời phát hiện,
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về trọng tài; vi phạm quy tắc đạo đức nghề
nghiệp của các trọng tài viên. Đẩy mạnh sự giám sát đối với việc huỷ quyết định trọng
tài, công nhận và thi hành phán quyết trọng tài.

III.

KẾT THÚC.

Trong nền kinh tế thị trường, việc xảy ra các tranh chấp trong kinh doanh là điều
không thể tránh khỏi. Hiện có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp nhưng
phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang cho thấy nhiều lợi thế.
Việt Nam đã có hơn 20 năm thực hiện Công ước New York (Công ước) năm
1958 về công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài. Từ khi gia
nhập Công ước đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực tổ chức thực hiện Công ước New
York và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về thi hành phán quyết trọng tài. Việt
Nam đã ban hành Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng
tài nước ngoài; Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003; Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011); Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các văn bản pháp luật
khác liên quan đến công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam.
Trên đây là các phân tích đánh giá của em về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh bằng trọng tài thương mại trong tình hình thực tiễn nền kinh tế thị trường Việt
Nam. Trong phạm vi kiến thức còn hạn hẹp, bài viết còn nhiều thiếu sót nên rất mong
nhận được những nhận xét đóng góp của các thầy cô để có thể hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cám ơn thầy cô!
13



14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Luật trọng tài thương mại năm 2010
2.
Luật thương mại năm 2005
3.
Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật
thương mại quốc tế năm 1985
4.
Bộ luật dân sự 2005
5.
Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003
6.
Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật thương mại 2, NXB.CAND, Hà Nội,
2006
7.
Trần Thị Kim Liên, Những vấn đề pháp lí về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp
dụng ở Việt Nam,Luận văn thạc sĩ Luật học 2006
8.
Trần Thanh Huyền, Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thoả thuận trọng tài theo
Luật Trọng tài Thương mại năm 2010; Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội 2012
9.
Nguyễn Thành Nhân, Những vấn đề pháp lí cơ bản về thỏa thuận trọng tài, Khóa
luận Tốt ngiệp, Hà Nội 2004
10. Vũ Ánh Dương, Những nội dung cơ bản và những điểm mới của Luật trọng tài
thương mại năm 2010, Số chuyên đề pháp luật về trọng tài thương mại, tạp chí dân chủ
và pháp luật 2010, trang 1 -24

11. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Luật trọng tài thương mại năm 2010 – bước phát triển
mới của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam, luận văn Th.S, Hà Nội 2011
12. />13. />14. />%81-phap-lu%E1%BA%ADt-tr%E1%BB%8Dng-tai-ban-v%E1%BB%81-ch%E1%BA
%BF-d%E1%BB%8Bnh-th%E1%BB%8Fa-thu%E1%BA%ADn-tr%E1%BB%8Dngtai/
15. Bài đăng của PGS.TS Trần Thị Lan Hương – Trường đại học bách khoa Hà Nội trên
Tạp chí Tài chính số tháng 4 -2014

15



×