Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.27 KB, 15 trang )

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005
(sửa đổi, bổ sung 2009).
A.

Mở đầu.
Trong khi lượng hàng hóa, dịch vụ đang ngày càng gia tăng về cả chủng loại

và chất lượng thì nhãn hiệu ngày càng đóng một vai trò quan trọng. Nhãn hiệu
giúp phân biệt hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt những nhãn hiêu này đã khi trở nên nổi
tiếng, đem lại những lợi thế rất lớn cho các cá nhân tổ chức trong quá trình kinh
doanh. Những nhãn hiệu nổi tiếng này có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của đất
nước, vì vậy đòi hỏi phải có cơ chế bảo hộ chặt chẽ và hành lang pháp lý rõ ràng để
có thể điều chỉnh về vấn đề này cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong sản xuất kinh doanh.

Nội dung.
I.
1.

Khái niệm cơ bản.
Khái niệm nhãn hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng.
Với bối cảnh của nền kinh tế thị trường, nhãn hiệu ra đời và được coi là một

biện pháp pháp lý hữu hiệu chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhằm
bảo vệ uy tín cũng như quyền lợi hợp pháp cho mọi chủ thể trong sản xuất kinh
doanh. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 đã đưa ra khái niệm nhãn
hiệu như sau: “ Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các
tổ chức, cá nhân khác nhau”. Như vậy, nhãn hiệu thường là các dấu hiệu như một
từ, ngữ, hình ảnh, biểu tượng, logo hoặc sự kết hợp các yếu tố này được sử dụng
trên hàng hóa hoặc dịch vụ giúp phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau, thông tin cho người tiêu dùng có thêm thông tin và chỉ dẫn nguồn


gốc của hàng hóa, dịch vụ.


Hiện nay chưa có khái niệm thống nhất, chính xác về nhãn hiệu nổi tiếng trên
toàn thế giới. Thuật ngữ “nhãn hiệu nổi tiếng” đã từng được đề cập trong trong các
Điều ước quốc tế cơ bản trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp như
Công ước Paris 1883 và tiếp tục được ghi nhận sửa đổi nhằm hoàn thiện hơn trong
Hiệp định TRIPs. Việc thừa nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoàn toàn phụ thuộc vào điều
kiện và quan điểm riêng của từng quốc gia. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
thì “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, tính nổi tiếng của nhãn hiệu phụ thuộc vào việc
công nhận danh tiếng của nhãn hiệu đó đối với người tiêu dùng tại Việt Nam, ví dụ
như CocaCola, Nokia, Honda,… Hình thức công nhận danh tiếng của nhãn hiệu
hàng hóa, dịch vụ có thể thông qua việc tồn tại một số lượng người tiêu dùng nhất
định trực tiếp sử dụng sản phẩm và thùa nhận danh tiếng nhãn hiệu,…
2.

Khái niệm bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Xuất phát là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ nhãn hiệu nổi

tiếng là một bộ phận của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung. Theo quy định tại
Hiệp định TRIPs, “thuật ngữ bảo hộ phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả
năng đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi các quyền sở hữu trí
tuệ cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ…”. Bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ giới hạn ở việc xác lập quyền mà còn bao gồm cả
việc thực thi quyền đó trên thực tế, cụ thể là việc áp dụng những biện pháp theo
quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu của chủ nhãn hiệu, đồng thời
ngăn chặn, xử lý những hành vi sử dụng, khai thác trái phép nhãn hiệu nổi tiếng đó.
Quy định nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập thông qua thủ tục công nhận của cơ
quan nhà nước thẩm quyền chứ không phải thông qua việc nộp đơn đăng kí nhãn

hiệu như các loại nhãn hiệu thông thường khác.
II.

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005,

sửa dổi, bổ sung 2009.


1.

Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng.
Trong các văn bản pháp luật quốc tế như Công ước Paris, Hiệp định TRIPs chỉ

đặt ra vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mà không quy định các tiêu chí cụ thể xác
định như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng. Việt Nam là thành viên của hai văn bản
trên nên có nghĩa vụ phải thiết lập một hành lang pháp lý rõ ràng và cụ thể để các
quy định của công ước, hiệp định có thể đi vào thực tiễn áp dụn. Các tiêu chí được
các cơ quan nhà nước xem xét khi tiến hành thủ tục công nhận một nhãn hiệu nổi
tiếng được quy định tại Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009.
Trên đây là những tiêu chí để được xem xét khi đánh giá một nhãn hiệu nổi
tiếng. Có thể khẳng định đây là một bước tiến trong việc quy định pháp luật về
nhãn hiệu nổi tiếng. Nhãn hiệu nổi tiếng khác với nhãn hiệu thông thường ở danh
tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận công chúng có liên quan thông qua các hoạt
động quảng cáo của nhãn hiệu, thông qua số lượng và doanh số hàng hóa được bán
ra hay dịch vụ được cung cấp… Các quy định này là những quy định mở, dựa vào
các tiêu chí này, các tổ chức, cá nhân sẽ thu thập các chứng cứ liên quan đến quá
trình sử dụng của nhãn hiệu để yếu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét, đánh giá.
2.


Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
Luật Sở hữu trí tuệ không quy định cụ thể, chi tiết việc bảo hộ đối với nhãn

hiệu nổi tiếng mà trong Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp và các Nghị
định, Thông tư mới quy định chi tiết và cụ thể về nhãn hiệu nổi tiếng. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 103/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ thì: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi
tiếng được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy định
tại Điều 75 của Luật Sở hữu trí tuệ mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký”. Như
vậy, xuất phát từ đặc điểm riêng biệt của nhãn hiệu nổi tiếng có uy tín, danh tiếng


trên phạm vi lớn sau một thời gian sử dụng nhất định kể từ thời điểm đăng kí bảo
hộ nhãn hiệu hàng hóa lần đầu tiên, nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ tự động, vô
thời hạn mà không cần đi gia hạn lại. Điều này khác với các nhãn hiệu thông
thường là cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là cơ chế tự động, không phụ thuộc
vào việc đăng kí tại cơ quan nhà nước mà dựa trên thực tiễn sử dụng. Tiêu chí thực
tiễn sử dụng là một tiêu chí quan trọng nhất để một nhãn hiệu được công nhận là
một nhãn hiệu nổi tiếng. Quy định này của pháp luật Việt Nam là phù hợp với Công
ước Paris cũng như Hiệp định TRIPs. Tuy nhiên, trong thực tế, chủ sở hữu, nhà sản
xuất vấn tiến hành thủ tục đăng kí cho nhãn hiệu nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi
chắc chắn của mình, đồng thời có căn cứ pháp lý nếu phát sinh tranh chấp, chẳng
hạn CocaCola vẫn thực hiện đăng kí bảo hộ nhãn hiệu CocaCola tại Cục Sở hữu trí
tuệ Việt Nam…
Theo quy định tại Điểm 42.4 Mục 42 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN thì
“trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng được công nhận theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc
theo quyết định công nhận của Cục Sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu nổi tiếng đó sẽ
được ghi nhận vào Danh mục nhãn hiệu nổi tiếng được lưu giữ tại Cục Sở hữu trí
tuệ”. Do vậy, chỉ Tòa án và Cục Sở hữu trí tuệ là hai cơ quan có thẩm quyền xem

xét, công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng khi có yêu cầu của các cá nhân, tổ chức là
chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam đã dành cho nhãn
hiệu nổi tiếng những cơ chế bảo hộ được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
Chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng đương nhiên có quyền đối với nhãn hiệu nổi
tiếng được bảo hộ mà không cần thủ tục đăng kí. Chủ sở hữu muốn nhãn hiệu của
mình được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì phải cần chuẩn bị các tài liệu để
chứng minh quyền sở hữu của mình đối với nhãn hiệu và chứng minh nhãn hiệu
đáp ứng các điều kiện để được coi là nổi tiếng theo quy định của pháp luật, cụ thể
là điểm 42.3 Mục 42 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN.


Như vậy, căn cứ vào thực tiễn sử dụng nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu có
quyền cung cấp các tài liệu chứng minh nhãn hiệu đáp ứng các điều kiện để được
công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng. Tòa án hoặc Cục sở hữu trí tuệ sẽ căn cứ vào các
tài liệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cung cấp và thực tiễn sử dụng nhãn hiệu ra quyết
định công nhận một nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng và ghi nhận vào Danh mục
nhãn hiệu nổi tiếng được lưu giữ tại Cục Sở hữu trí tuệ.
3.

Thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
Pháp luật dành cho những nhãn hiệu nổi tiếng một ưu đãi đặc biệt: quyền sở

hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày
nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận
nhãn hiệu nổi tiếng. Đây là một trong những sự khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng so
với nhãn hiệu thông thường đó là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực
từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, chủ sở hữu có thể đăng ký gia
hạn nhiều lần liên tiếp và mỗi lần là mười năm. Nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô
thời hạn và chỉ cần công nhận một lần mà không cần phải đăng ký nhiều lần. Chỉ
khi nhãn hiệu không còn nổi tiếng nữa, hay nói cách khác là khi các tiêu chí làm

nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng không còn trên thực tế hoặc nhãn hiệu đã trở thành
tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định, nói cách khác là nhãn hiệu
bị lu mờ.
4.

Các hành vi vi phạm nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ.
Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 đã đưa ra một số trường hợp

vi phạm nhãn hiệu nổi tiếng. Cụ thể tại điểm i khoản 1 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ
2005, sửa đổi bổ sung 2009 thì nhãn hiệu không được coi là có khả năng phân biệt
nếu nó là một dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là
nổi tiếng của người khác trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn
hiệu nổi tiếng hoặc đăng kí cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử
dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi


tiếng hoặc việc đăng kí nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng thì
những hành vi này bị coi là vi phạm nhãn hiệu nổi tiếng
Luật Sở hữu trí tuệ không có điều khoản nào giải thích thế nào là trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn. Do vậy, khắc phục điều này, Nghị định
105/2006/NĐ-CP có hướng dẫn như sau: Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự
đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu
bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình
bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc
tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm,
phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu. Ngoài ra, nhãn hiệu nổi
tiếng còn khác so với nhãn hiệu hàng hóa thông thường là hàng hoá, dịch vụ không
trùng, không tương tự, không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi

tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá,
dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh
sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Như vậy, mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi
tiếng cho hàng hóa hoặc dịch vụ bất kỳ, dịch vụ không cùng loại, không tương tự,
không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu nổi tiếng đều bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng theo điểm d khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ
sung 2009. Chủ nhãn hiệu nổi tiếng có quyền phản đối việc đăng ký hoặc yêu cầu
hủy bỏ hiệu lực các Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với các nhãn hiệu
trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng của mình, kể cả trong
trường hợp nhãn hiệu đăng ký cho các hàng hóa, dịch vụ không trùng hoặc không
tương tự. Ví dụ, một công ty sản xuất đồ chơi cho trẻ em và có đăng kí nhãn hiệu là


CocaCola. Tuy rằng sản phẩm của công ty này không phải là sản phẩm trùng hoặc
tương tự gây nhầm lẫn với những sản phẩm đồ uống của CocaCola nhưng
CocaCola là nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng nên CocaCola có
quyền ngăn cản công ty sử dụng nhãn hiệu này do có thể là giảm khả năng phân
biệt của CocaCola hoặc lợi dụng uy tín của CocaCola để đăng kí nhãn hiệu và sản
xuất sản phẩm.
III.

Thực trạng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam hiện nay.

1.

Mặt tích cực thực hiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam
Luật Sở hữu trí tuệ ra đời cùng với các văn bản pháp luật khác đã tạo thành


hành lang pháp lý tương đối đầy đủ và vững chắc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt
Nam. Các quy định liên quan đến khái niệm, tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng
tại Điều 4 và Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 khá rõ ràng
và tương đồng với các nước tiên tiến trên thế giới, phù hợp với các Điều ước quốc
tế như Công ước Paris, Hiệp định TRIPs mà Việt Na là thành viên. Cơ chế bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng được quy định chi tiết trong Nghị định 103/2006/NĐ-CP đã
đảm bảo mức bảo hộ tối đa, quyền tự chủ, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm của các
chủ thể, đồng thời giảm thiểu các thủ tục hành chính khi đăng kí bảo hộ.
Ngoài hoạt động bảo hộ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì chính
các chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng và toàn xã hội đã và đang góp sức mình trong
việc bảo vệ giá trị đích thực của những nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ uy tín. Chẳng
hạn như Chương trình Tư vấn, đánh giá và trao giấy chứng nhận Nhãn hiệu cạnh
tranh – nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam, Chương trình bình chọn hàng Việt Nam chất
lượng cao, Chương trình Chắp cánh thương hiệu… được phối hợp tổ chức bởi Cục
sở hữu trí tuệ và các doanh nghiệp, hiệp hội. Đây là nơi các nhãn hiệu hàng hóa có
uy tín chất lượng được vinh danh, góp phần quảng bá cho chính các nhãn hiệu này
đồng thời cũng có thể là thước đo “nhãn hiệu nổi tiếng”. Như vậy, không chỉ các cơ
quan nhà nước mà các doanh nghiệp và toàn xã hội đang tích cực tuyên truyền và
phổ biến pháp luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích


chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, đồng thời bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng.
2.

Hạn chế trong việc thực hiện bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam.
Thứ nhất, các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam cò thiếu sự

đồng bộ, nhiều quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn trong việc thực
hiện và áp dụng. Chẳng hạn, khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ

sung 2009 quy định: “ Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết
đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên, tại Điều 75 Luật Sở hữu trí
tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 lại đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá nhãn hiệu nổi
tiếng, trong đó có quy định “số lượng các quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi
tiếng”, tức là nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam phải là nhãn hiệu được công nhận nổi
tiếng trên nhiều quốc gia và đáp ứng được điều kiện phổ biến rộng rãi trên lãnh thổ
Việt Nam. Như vậy, giữa hai quy định này còn có sự không thống nhất về tiêu chí
đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Điều này gây ra hiều khó khăn cho các cơ quan chức
năng khi xác định nhãn iệu nổi tiếng và quyền của chủ sở hữu các nhãn hiệu nổi
tiếng cũng khó có thể được bảo vệ.
Thứ hai, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, nhãn hiệu nổi tiếng
được bảo hộ tại Việt Nam không cần qua đăng kí, tính nổi tiếng của nhãn hiệu chủ
yếu phụ thuộc vào quá trình tự chứng minh của các chủ thể và khi xảy ra tranh
chấp, hoạt động công nhận và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mới được thực hiện. Quy
định này khiến công tác chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng mất nhiều thời gian, tiền
của, rất khó khăn; từ đó kéo theo việc quyền lợi của chủ sở hữu những nhãn hiệu
này bị xâm hại sẽ không được bảo vệ một cách kịp thời.
Thứ ba, về công tác thực thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng; cho đến
thời điểm này, Việt Nam chưa cấp giấy chứng nhận cho bất kì một nhãn hiệu nào là
nhãn hiệu nổi tiếng. Thực tế các nhãn hiệu như CocaCola, Honda, Samsung hay
Nokia... chỉ đăng kí và được cấp giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng hóa ở
Việt Nam; cụ thể, CocaCola được cấp giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng hóa


số 7114 và 7119 ngày 26/02/1992 và số 15868 năm 1995;... tuy nhiên, đây chỉ là
giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu thông thường mà không phải là chứng nhận
nhãn hiệu nổi tiếng. Điều này được giải thích bởi theo quy định của Luật Sở hữu trí
tuệ 2005, nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ với cơ chế tự động, đồng thời do mâu
thuẫn trong các quy định tại khoản 20 Điều 4 và Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
cũng cho thấy rất khó để chứng minh đâu là nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam.

Những quy định không rõ ràng này đã dẫn đến nhiều vụ tranh chấp; trong đó phải
kể đến vụ Công ty Bestbuy (Hoa Kỳ) phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu
Bestbuy và hình cho Công ty TNHH Hoàn Hảo Việt Nam vì cho rằng việc làm này
đã xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng Bestbuy của Công ty Bestbuy (Hoa Kỳ).
Thứ tư, tình trạng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng còn diễn ra rất
phổ biến, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, thực tế lại chưa có
bất cứ biện pháp cụ thể nào ngăn chặn tình trạng này một cách có hiệu quả. Bên
cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng chưa có các quy định xác định chính xác như thế
nào được coi là hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng; vì vậy cơ quan có thẩm
quyền như Công an, hải quan, quản lý thị trường,... gặp nhiều khó khăn trong quá
trình áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, các mẫu mã quần áo được may gia công và gắn
nhãn mác nổi tiếng như Gucci, LV, Levi’s,... được bán với giá rất rẻ; rượu kém chất
lượng được sản xuất, đóng chai và dán nhãn rượu tây;... cũng diễn ra rất phổ biến
nhưng lực lượng quản lý thị trường không thể kiểm soát được hết và nếu phát hiện
cũng chỉ dừng lại ở mức lập biên bản.
Ngoài những bất cập trên, một trong những hạn chế trong quá trình bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng chính là thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến nhãn
hiệu nổi tiếng ở Việt Nam. Theo thực tế áp dụng pháp luật, cơ quan giải quyết tranh
chấp là Tòa án, trong khi cơ quan công nhận và xem xét nhãn hiệu nổi tiếng lại là
Cục Sở hữu trí tuệ; đồng thời hai cơ quan này còn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng,
khiến quá trình chứng minh nhãn hiệu và giải quyết tranh chấp kéo dài, phức tạp,


không hiệu quả; làm giảm mức độ bảo hộ đối với quyền sở hữu trí tuệ nói chung và
với nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt
Nam.
Trước thực trạng trên, chúng ta cần có những biện pháp củng cố lại hệ thống
pháp luật trong nước về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng như quá trình thực thi
nhưng qui định này. Một số biện pháp cụ thể như sau:

Trước hết, cần có quy định hướng dẫn áp dụng thống nhất qui định tại khoản
20 Điều 4 và tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ
2005. Chúng ta nên chia mức độ nổi tiếng của các nhãn hiệu thành các cấp độ khác
nhau và tương ứng với đó là những biện pháp, cấp độ bảo hộ khác nhau được áp
dụng. Bởi vì trong thực tế thường những nhãn hiệu vô cùng nổi tiếng như
CocaCola, Microsoft, Sony, Toyota…thì đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí tại Điều 75
Luật Sở hữu trí tuệ và được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên có
những nhãn hiệu chỉ đáp ứng được một vài trong số những tiêu chí đó nhưng cũng
là nổi tiếng ở nhiều quốc gia mặc dù không phải cả thế giới đều biết đến nó. Khi
phân ra các cấp độ khác nhau sẽ đảm bảo khả năng áp dụng của các quy định pháp
luật đã được ban hành và tạo sự công bằng cho các nhãn hiệu. Một vấn đề nữa là
cần xác định các tiêu chí thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng quốc gia, thế nào là nhãn
hiệu nổi tiếng thế giới và cấp độ bảo hộ ra sao. Như vậy sẽ đảm bảo quyền lợi cho
các chủ thể một cách toàn diện hơn, bởi các nhãn hiệu được biết đến rộng rãi ở Việt
Nam nhưng lại chưa đáp ứng đủ các tiêu chí để được đánh giá là nhãn hiệu nổi
tiếng thế giới, nên khi xảy ra tranh chấp quyền lợi sẽ được bảo hộ ở cấp độ khác mà
không phải nhãn hiệu nổi tiếng.
Hai là, để tránh tranh chấp phát sinh khi cùng một nhãn hiệu mà quốc gia này
công nhận là nổi tiếng còn quốc gia khác lại không, nên lập danh mục các nhãn
hiệu nổi tiếng và được bổ sung hàng năm như một số nước trên thế giới đã xây
dựng. Thủ tục lập các danh mục này có thể là do các chủ sở hữu đăng kí tại Cục Sở


hữu trí tuệ hoặc giao cho các Hiệp hội về công thương nghiệp, dịch vụ thành lập
ban thẩm định. Hơn nữa danh mục các nhãn hiệu nổi tiếng cũng là một văn bản cần
thiết mà Việt Nam nên xem xét ban hành để tiện quản lý và tránh tình trạng đã cấp
văn bằng bảo hộ cho các nhãn hiệu vi phạm rồi mới phát hiện ra nó gây nhầm lẫn
với nhãn hiệu nổi tiếng. Mặt khác, danh sách này cần được thừa nhận trong nội bộ
các quốc gia thành viên WTO hay Công ước Paris.
Ba là, để ngăn chặn việc đăng kí tên miền trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu

nổi tiếng cần đưa ra tiêu chuẩn như thế nào thì sẽ dẫn đến tương tự, nhầm lẫn hoặc
trùng lặp. Những tiêu chuẩn phải cụ thể, dễ hiểu để dễ áp dụng bởi trên thực tế
những cán bộ làm công tác thẩm định tại Cục Sở hữu trí tuệ cũng như Tòa án vẫn
chưa có cách hiểu thống nhất khi giải quyết các vụ việc liên quan. Hiện nay theo
quy định, những tên miền đăng kí trước sẽ được xét cấp trước, nếu tên miền đó
trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu đó lại chưa kịp đăng kí
tên miền tại Việt Nam thì rất có thể tên miền đăng kí trược sẽ được công khai sử
dụng, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng cũng như
người tiêu dùng.
Bốn là, pháp luật Việt Nam nên quy định một thủ tục công nhận hoặc đăng kí
nhãn hiệu nổi tiếng, tạo điều kiện cho các chủ thể chủ động yêu cầu công nhận
nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng khi đủ các tiêu chí theo quy định. Điều
này nhằm tạo cơ sở pháp lí để chủ thể có thể hạn chế được nguy cơ xâm phạm đối
với nhãn hiệu của mình, tránh tình trạng bị xâm phạm rồi mới xử lí. Mặt khác, để
được công nhận, chủ thể đăng kí có nghĩa vụ chứng minh nhãn hiệu của mình đáp
ứng đầy đủ các tiêu chí của nhãn hiệu nổi tiếng còn cơ quan đăng kí chỉ việc thẩm
định hồ sơ. Và khi phát sinh tranh chấp các cán bộ Tòa án chỉ cần dựa vào hồ sơ
sẵn có của Cục Sở hữu trí tuệ để xác định nhãn hiệu đó thuộc đối tượng nào, người
bị xâm phạm cũng không tốn thời gian, công sức, tiền của để chứng minh nhãn
hiệu của mình có được bảo hộ theo cơ chế nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Khi đó,


các vụ việc sẽ được giải quyết nhanh gọn hơn rất nhiều, hành vi vi phạm cũng
nhanh chóng bị xử lý và chấm dứt.
Năm là, cần tăng cường bộ máy thực thi pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ
để đảm bảo quy trình tiếp nhận và xử lí yêu cầu của các chủ thể được diễn ra nhanh
chóng và kịp thời. Thống nhất nhận thức về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
trong đội ngũ cán bộ thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho
hoạt động bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đạt kết quả cao. Đẩy mạnh hơn nữa việc mở

các lớp tập huấn hoặc cử cán bộ đi nghiên cứu, học tập tại các nước có nền pháp
luật về sở hữu trí tuệ phát triển là điều rất cần thiết.
Sáu là, thiết lập và áp dụng mạnh tay hơn nữa các biện pháp bảo vệ nhãn hiệu
nổi tiếng. Hiện nay vẫn chủ yếu áp dụng các biện pháp hành chính để xử lý vi
phạm. Tuy nhiên mức phạt tiền còn thấp, chưa đủ tính răn đe cũng như so sánh với
lợi nhuận có được từ hành vi xâm phạm thì chỉ bằng một phần rất nhỏ nên các đối
tượng vẫn mặc nhiên xâm phạm. Đẩy mạnh việc áp dụng đa dạng các biện pháp
dân sự, hình sự, cũng như biện pháp kiểm soát biên giới, tịch thu tang vật… để
ngăn chặn và xử lí kịp thời hành vi xâm phạm. Có như vậy khả năng giáo dục,
thuyết phục và ngăn chặn hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng mới hiệu quả.
B.

Kết luận.
Qua quá trình tìm hiểu thì nói chung chúng ta đã có những bước tiến lớn trong

việc xây dựng nên một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, cũng đã đáp ứng được
một phần nào đó nhu cầu của Việt Nam trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng hiện
nay. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ của nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam vẫn còn nhiều
điểm hạn chế, thiếu xót cũng như còn nhiều điểm vẫn chưa rõ ràng. Nhìn ở một góc
độ nào đó thì chúng ta vẫn còn phải học hỏi rất nhiều về các quy định trong lĩnh
vực này của các nước đang phát triển và rồi vận dụng một cách phù hợp với kinh tế
xã hội nước ta. Vì vậy việc tham khảo các thành tựu quốc tế là rất cần thiết.


Dưới góc nhìn của một sinh viên luật năm ba trước một vấn đề mới mẻ có thể
không tránh nổi thiếu sót. Chính vì vậy chúng em rất mong sự đánh giá và góp ý
của thầy, cô giáo sau khi đọc bài tiểu luận này. Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009.

2. Giáo trình luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công
an nhân dân, 2013.
3. Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính Phủ về
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công
nghiệp.
4. Nghị định 105/2006/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
5. Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định
103/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công
nghiệp do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành
6. />ItemID=97.
7. />8. />



×