Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Báo chí và dư luận xã hội dư luận của xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.8 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Dư luận xã hội là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá
của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng thể hiện
lợi ích cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. ý nghĩa của việc
nghiên cứu dư luận xã hội được khẳng định: Là công cụ để mở rộng quyền
làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ; tăng cường mối quan hệ với
Đảng, Nhà nước và nhân dân; thực hiện quản lý xã hội trên cơ sở khoa học.
Dư luận xã hội được phát hiện bằng các phương pháp xã hội học như:
trưng cầu ý kiến bằng câu hỏi, phân tích tư liệu của báo chí, các báo cáo, phản
ánh của các cấp... Hệ thống thông tin đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành, định hướng và thể hiện dư luận xã hội. Vai trò ấy được
biểu hiện là phương tiện của các thiết chế xã hội nhằm bảo đảm phổ biến
thông tin quy mô đại chúng (các luật, nghị định, quyết định, các vấn đề kinh
tế, xã hội...); và diễn đàn toàn dân tập hợp các tư tưởng, ý kiến, kinh nghiệm
của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị phù
hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới.
Báo chí Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có vai trò to lớn trong việc
nắm bắt, hình thành và định hướng dư luận xã hội. Đây là một phương thức
truyền thông đặc biệt quan trọng, là cầu nối giữa giúp Đảng, Nhà nước và
Nhân dân. Đồng thời, báo chí còn cung cấp cho nhân dân những thông tin
toàn diện, chính xác và bổ ích thông qua định hướng đúng dư luận xã hội.
Để hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của những tác phẩm báo chí đối với dư
luận xã nên em đã chọn đề tài “Báo chí phản ánh và định hướng dư luận
của xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài”. Đây là một đề tài được sự
quan tâm rất lớn của dư luận xã hội, nhưng do thời gian có hạn nên tiểu luận
không tránh khỏi có những sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô và bạn học.
Em xin chân thành cảm ơn!

1



CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ
DƯ LUẬN XÃ HỘI
1. Định nghĩa Dư luận xã hội
Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội quen
thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng
ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Những người theo học ở Liênxô (cũ) thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực tiếp từ thuật ngữ
tiếng Nga). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng thuật ngữ “công
luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: “public opinion”).
Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên Xô (cũ) định nghĩa
dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng
xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K. Paderin: “Dư
luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự
phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý
nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai
cấp, xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội
lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi ích
chung của họ”.
Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra định nghĩa tương tự. Ví dụ
“Công luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các vấn
đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi có sự tranh luận công khai”
(Young, 1923). Nhà nghiên cứu Mỹ khác lại định nghĩa: “Công luận là kết
quả tổng hợp các ý kiến trả lời của mọi người đối với các câu hỏi nhất định,
dưới điều kiện của cuộc phỏng vấn” (Warner, 1939). Có những định nghĩa rất
đơn giản, nhưng rất phổ biến trong giới nghiên cứu Mỹ: “Công luận là các tập
hợp ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng ta có thể tìm được” (Childs,
1956).
Về mặt ngôn ngữ, không có cơ sở để nói rằng dư luận xã hội là ý kiến
của đa số. Thuật ngữ “xã hội” không đồng nhất với thuật ngữ “đa số”. Có thể
2



lấy ví dụ: Không ai cho rằng đã gọi là tổ chức xã hội thì phải là tổ chức của đa
số; đã gọi là chính sách xã hội thì phải là chính sách đối với đa số...
Về mặt lý luận, cũng không có cơ sở nào để coi trọng dư luận của đa số
hơn dư luận của thiểu số, đến mức phải loại bỏ dư luận của thiểu số ra khỏi
phạm trù “dư luận xã hội”. Ví dụ dưới góc độ về khả năng phản ánh chân lý,
dư luận của đa số không phải khi nào cũng đúng, dư luận của thiểu số, không
nhất thiết khi nào cũng sai. Thực tế cho thấy, trước các vấn đề mới, dư luận
của thiểu số, nhiều khi, đúng hơn dư luận của đa số. Giữa dư luận của đa số
và dư luận của thiểu số cũng không có một hàng rào ngăn cách không thể
vượt qua được. Dư luận ngày hôm nay là thiểu số, ngày mai có thể trở thành
đa số hoặc ngược lại, dư luận ngày hôm nay là đa số, ngày mai có thể chỉ còn
là thiểu số.
Về mặt thực tiễn, quan điểm coi dư luận xã hội chỉ là ý kiến của đa số
lại càng không thể chấp nhận được. Chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN và thực hiện chủ trương “Đại đoàn kết toàn dân
tộc”. Tiếng nói của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp, nhóm xã hội đều
cần được coi trọng cho dù thành phần kinh tế, tầng lớp, nhóm xã hội đó chỉ là
thiểu số trong xã hội. Mặt khác, nếu dư luận xã hội chỉ là ý kiến của đa số
không thôi, thì cần gì phải thành lập các cơ quan làm công tác nắm bắt dư
luận xã hội bởi vì ý kiến của đa số là cái mà người dân bình thường cũng có
thể dễ dàng nắm được, huống hồ là lãnh đạo. Báo cáo tình hình dư luận xã hội
của một số địa phương chưa được lãnh đạo coi trọng, có phần chính là do mới
chỉ phản ánh được ý kiến của đa số. Những báo cáo phiến diện, không phản
ánh được đầy đủ các luồng ý kiến khác nhau trong xã hội trước một vấn đề,
sự kiện, hiện tượng nào đó, không những ít có giá trị cho sự chỉ đạo của các
cấp uỷ đảng, chính quyền, ngược lại, có khi còn có hại, nhất là trong trường
hợp vấn đề, sự kiện, hiện tượng là cái mới, bởi lẽ, đối với cái mới, dư luận của
đa số lúc đầu thường không đúng, thường có tính “bảo thủ”.


3


Đa số các nhà nghiên cứu khẳng định, dư luận xã hội không chỉ là các
phát ngôn thể hiện sự phán xét đánh giá mà còn là các phát ngôn thể hiện tâm
tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị, lời khuyên can... của công chúng.
Về khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải của dư luận xã hội, cũng có
những quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng dư luận xã hội chịu ảnh
hưởng nặng nề của các thành kiến, định kiến cho nên nó không có khả năng
phản ánh chân lý, lẽ phải. Có ý kiến lại “sùng bái” dư luận của đa số, theo họ,
dư luận của đa số bao giờ cũng đúng, dư luận của thiểu số bao giờ cũng sai.
Tất cả các quan niệm trên đều sai. Dư luận xã hội không phải là các kết luận
khoa học, nhưng ít nhiều đều có khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải. Dư luận
xã hội có thể đúng nhiều, đúng ít. Dù có đúng đến mấy thì dư luận xã hội vẫn
có những hạn chế, không nên tuyệt đối hoá khả năng nhận thức của dư luận
xã hội. Dù có sai đến mấy, trong dư luận xã hội cũng có những hạt nhân hợp
lý, không thể coi thường, bỏ qua. Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc
vào tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng
đúng, dư luận của thiểu số cũng sai. Cái mới, lúc đầu, thường chỉ có một số
người nhận thấy và do đó dễ bị đa số phản đối.
Về đối tượng của dư luận xã hội, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng đó
là các hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội có tính thời sự, cập nhật trình độ
hiểu biết của công chúng, được công chúng quan tâm. Ví dụ: Những vấn đề
khoa học trừu tượng liên quan đến tương lai xa xôi của loài người sẽ khó trở
thành đối tượng phán xét của dư luận xã hội, trong khi đó những vấn đề cụ
thể, dễ hiểu có liên quan trực tiếp đến lợi ích của công chúng, được công
chúng rất quan tâm như vấn đề giá cả, thiên tai, lũ lụt, vệ sinh môi trường...
luôn luôn là đối tượng phán xét của dư luận xã hội.
Đối với câu hỏi: Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến cá nhân, có tính

tự phát hay là một dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức? Cũng có những
quan niệm khác nhau. Có người khẳng định vế thứ nhất, có người khẳng định
vế thứ hai. Sự vô lý của quan niệm coi dư luận xã hội là một dạng thức ý kiến
tập thể, có tính tổ chức là rất rõ. Ý kiến chung của một tổ chức là chính kiến
của tổ chức đó chứ không phải là dư luận xã hội của các thành viên trong tổ
4


chức (không thể gọi chính kiến của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ hay Hội Cầu
lông… là dư luận xã hội). Chỉ có các luồng ý kiến được hình thành theo con
đường tự phát mới được gọi là dư luận xã hội. Tuy nhiên ở đây cần phải làm
rõ một ý: Dư luận xã hội không phải là một phép cộng thuần tuý, không phải
là “bao gạo”, gồm các “hạt gạo” ý kiến cá nhân rời rạc, không có mối quan hệ
gì với nhau. Dư luận xã hội là các luồng ý kiến cá nhân, tự phát, nhưng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau, cộng hưởng với nhau. Nói cách khác, đó là một
chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các lực
lượng xã hội nhất định.
Dư luận xã hội là hiện tượng đời sống xã hội phức tạp, nên khó có thể
lột tả hết trong một vài dòng định nghĩa ngắn gọn. Theo Lênin, đối với những
sự vật phức tạp, có nhiều góc nhiều cạnh, mọi định nghĩa đều phiến diện. Tuy
nhiên, dù có phiến diện đến đâu, định nghĩa cũng không mất đi mặt khẳng
định, vai trò quan trọng, sự cần thiết của nó đối với hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người: Đó là những chỉ dẫn sơ bộ, những nét
phác thảo ban đầu, không có nó, chúng ta không thể tiếp tục đi sâu hơn vào
bản chất của sự vật cũng như không thể đưa ra đuợc những phương hướng
hành động cụ thể nào cả.
Vì lẽ đó, chúng ta có thể định nghĩa rất ngắn gọn về dư luận xã hội như
sau: Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự
kiện, hiện tượng có tính thời sự. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến các nội hàm
sau đây của định nghĩa này:

2. Những khó khăn và thách thức của báo chí trong việc định
hướng dư luận xã hội
Khả năng tác động của báo chí vào công chúng và dư luận xã hội còn
chưa đồng đều và hiệu quả chưa thật rõ nét.
Thứ nhất,báo chí Việt Nam còn chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng
về số lượng bản báo in,tần suất phát sóng phát thanh truyền hình. Báo chí
chưa nhiều, mật độ không đều, bái in chủ yếu phụ vụ công chúng thành thị,
trong khi nông thôn khả năng điều kiện tiếp nhận còn hạn chế. Hiện có tới
75% báo chí phát hành khu vực thành phố, trong khi vùng sâu vùng xa 25%.
5


Sự bất cập trong quy hoạch phân bổ này còn thể hiện trong sự xây dựng hệ
thống phát thanh truyền hình. Việc xây dựng các đài địa phương chưa theo
một quy hoach thống nhất, chồng chéo nội dung...gây nên tình trạng lãng phí,
giảm hiệu quả thông tin. Kéo theo khả năng tác động của báo chí đến sư luận
xã hội tới vùng sâu vùng xa khó khăn, nhất là các vùng nhạy cảm: Tây
Nguyên, Tây Bắc...
Thứ hai, nhiều vấn đề báo chí còn phản ánh chậm chạp, thậm chí né
tránh, phản ánh không thuyết phục. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được đưa kịp
thời. Truyền hình còn chưa thể hiện tốt vai trò trong việc đấu tranh chống các
luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.
Bản chất của DLXH luôn quan tâm tới cái mới. Khi thông tin chính thống
không đề cập là cơ hội để các kênh thông tin chống phá xâm nhập với những
luận điệu xuyên tạc. Nhiều tờ báo có hiện tượng cửa quyền thông tin, ảo
tưởng về quyền lực của báo chí. Làm nhiều nhà báo rời xa nhân dân. Làm
giảm sút tới niềm tin của công chúng.
Thứ ba, tính hấp dẫn nhiều tờ báo chưa cao, tính định hướng, tính chính
trị. Nhưng nếu chỉ quan tâm tới chính trị, khô cứng thiếu hơi thở cuộc sống
bạn đọc sẽ xa lánh. Đôi lúc nhà báo áp đặt công chúng vào một gu thẩm mỹ

nhất định nhưng gượng ép.
Thứ tư, nhiều cơ quan báo chí coi nhẹ tính tương tác, coi nhẹ công
chúng. DLXH sở dĩ có sức mạnh to lớn vì nó là kết quả những suy tư, trăn trở
của số đông công chúng trước một vấn đề. Do đó, báo chí phải mở rộng kênh
bạn đọc để bạn đọc tham gia vào hoạt động báo chí, là cách thức hữu hiệu
thổi bùng lên dư luận tích cực, định hướng DLXH hiệu quả. Sức sống , hiệu
quả của tờ báo được đánh giá từ công chúng. Nhà báo cần nghiên cứu hướng
quan tâm của DLXH để từ đó có những bước phát triển phù hợp. Có một số
kênh đánh giá sự hấp dẫn thông tin báo chí với công chúng: số bản in, số phát
sóng, số lượng truy cập...Lượng bạn đọc cho biết sức hút của bài báo. Nhiều
cơ quan báo chí đã tranh thủ điều này để lôi kéo độc giả về phía mình.

6


CHƯƠNG II
TÁC PHẨM BÁO CHÍ PHẢN ÁNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ
HỘI VỀ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1. Định nghĩa Hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Trong điều 8 (Giải thích từ ngữ) của Luật Hôn nhân và gia đình (năm
2000) có định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, như
sau:
“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn
nhân và gia đình: a) giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; b) giữa
người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; c) giữa công dân Việt
Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Trong bài viết này, chúng tôi xem vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài
ở nghĩa thứ nhất của thuật ngữ này, đó là hôn nhân “giữa công dân Việt Nam
và người nước ngoài”, và cũng giới hạn ở phạm vi hẹp hơn nữa: phụ nữ Việt

Nam lấy chồng nước ngoài (chứ không xem xét khía cạnh nam giới Việt Nam
lấy vợ nước ngoài).
2. Dư luận xã hội và cuộc sống
Thuật ngữ dư luận xã hội (dư luận xã hội , tiếng Anh: Public Opinion) là
thuật ngữ được dùng nhiều trong đời sống xã hội và trong một số ngành khoa
học như xã hội học, tâm lý học xã hội, báo chí v.v.. dư luận xã hội được coi là
những trạng thái đặc trưng của ý thức xã hội, tâm trạng xã hội. Có thể hiểu
rằng DLXH chính là một thành phần thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội
và tính chất của nó bị quy định bởi tính chất các quan hệ kinh tế trong xã hội.
Mặc dù vậy, với tư cách là một phần của thượng tầng kiến trúc, dư luận xã hội
cũng có sự độc lập tương đối với hạ tầng cơ sở. Thí dụ, có những lúc dư luận
xã hội lại tỏ ra bảo thủ hơn so với sự phát triển của các quan hệ kinh tế trong
xã hội, cũng có những lúc nó lại “đi nhanh hơn” so với hạ tầng xã hội.

7


Có nhiều định nghĩa khác nhau về "dư luận xã hội", diển hình là một số
định nghĩa sau. Theo nhà triết học cổ đại Socrat thì "dư luận xã hội" là cái gì
đó nằm giữa sự mù quáng và nhận thức. Theo Kant: "dư luận xã hội" nằm ở
cấp độ thấp hơn so với kiến thức và niềm tin. Theo các tác giả hiện đại thì "dư
luận xã hội" là ý kiến được đông đảo công chúng chia sẻ và có thể tìm thấy ở
mọi nơi.
Chúng ta có thể đưa ra một cách hiểu về dư luận xã hội sau đây. Đó là
những ý kiến có tính chất phán xét, đánh giá về các vấn đề xã hội mà nhóm
công chúng cảm thấy có ý nghĩa với họ hoặc là vấn đề đó động chạm đến lợi
ích chung.
Chủ thể của dư luận xã hội là đơn vị xã hội mà ý kiến được coi là dư
luận (ý kiến) xã hội chứ không phải là một dạng ý kiến nào khác. Đơn vị xã
hội này có thể là nhóm xã hội, tập đoàn hay hệ thống xã hội tùy theo cách tiếp

cận.
Khách thể của dư luận xã hội: là vấn đề xã hội động chạm đến lợi ích
chung hoặc là có ý nghĩa đối với các nhóm công chúng. Căn cứ của lợi ích
chung và căn cứ của ý nghĩa ở đây chính là các giá trị và chuẩn mực chung
(Nguyễn Quý Thanh, 2005).
Các thuộc tính của dư luận xã hội: có năm thuộc tính cơ bản:
-Khuynh hướng: thể hiện ở chỗ tỏ thái độ đồng tình, phản đối, lưỡng lự,
chưa rõ thái độ đối với vấn đề xã hội mà nó đề cập đến. Người ta cũng có thể
phân chia theo khuynh hướng tích cực hay tiêu cực, tiến bộ hoặc lạc hậu.
-Cường độ: thể hiện sức căng về ý kiến của mỗi khuynh hướng dư luận
xã hội.
- Sự thống nhất và xung đột của dư luận xã hội: theo các nhà xã hội học,
đồ thị phân bố dư luận xã hội hình chữ U là biểu thị sự xung đột, hình chữ J là
biểu thị sự thống nhất.

8


-Tính ổn định, độ bền vững thể hiện ở chỗ: dư luận xã hội có dễ bị thay
đổi hay không khi có những tác động bổ sung. Ví dụ như cung cấp thêm
những thông tin mới.
- Sự tiềm ẩn: dư luận xã hội có thể ở dạng tiềm ẩn, không bộc lộ bằng
lời. Có người dùng thuật ngữ “dư luận của đa số im lặng” để nói về trạng thái
này (Ban tư tưởng – văn hoá trung ương, 1999: 17- 21).
Dư luận xã hội và chuẩn mực xã hội có mối quan hệ rất chặt chẽ. Tác
động đầu tiên của dư luận xã hội đối với chuẩn mực xã hội là tạo ra các chuẩn
mực mới và loại bỏ các chuẩn mực lỗi thời. Sự ủng hộ sẽ tăng lên nếu như
người dân nhận thức được hành vi đó phù hợp với trình độ phát triển cơ bản
của xã hội, ngược lại hành vi đó vẫn bị coi là hành vi lệch lạc.
Trong trường hợp họ nhận thức được hành vi không phù hợp với định

hướng phát triển cơ bản của xã hội thì hành vi đó tiếp tục bị phê phán và vẫn
là hành vi lệch chuẩn.
Các chức năng của dư luận xã hội: đánh giá; điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội; giáo dục; giám sát; tư vấn, phản biện; giải toả tâm lý – xã hội.
Cơ chế hình thành dư luận xã hội: các nhà xã hội học thường coi quá
trình hình thành dư luận xã hội gồm 4 giai đoạn: 1) Giai đoạn tiếp nhận thông
tin; 2) giai đoạn hình thành các ý kiến cá nhân; 3) giai đoạn trao đổi ý kiến
giữa các cá nhân; 4) giai đoạn hình thành dư luận chung (Ban tư tưởng – văn
hoá trung ương, 1999: 27).
Các con đường hình thành dư luận xã hội. Chủ yếu có 2 con đường
sau:1) Hình thành qua kênh giao tiếp cá nhân: con đường này phổ biến trong
các xã hội khi chưa có các phương tiện truyền thông đại chúng. 2) Hình thành
qua kênh giao tiếp đại chúng dưới tác động của phương tiện truyền thông đại
chúng: sự phổ biến thông tin qua con đường này rất nhanh. Thông tin ban đầu
đến với hàng triệu, thậm chí hàng tỷ người.
Dư luận có nghĩa là phản ứng của nhân dân (đó là tán thành, không tán
thành, hay bàng quan) đối với những vấn đề đáng lưu ý chung về chính trị và
9


xã hội nảy sinh, như là: quan hệ quốc tế, chính sách nội bộ, các ứng cử viên
bầu cử, quan hệ dân tộc. Đó cũng là quan niệm của A.K. Uledov về dư luận
xã hội là “Sự phán xét thể hiện sự đánh giá và thái độ của mọi người đối với
các hiện tượng đời sống xã hội”. Mối quan hệ giữa truyền thông và dư luận
có tính hai mặt: ở khía cạnh thứ nhất, ảnh hưởng của dư luận đến truyền
thông còn khía cạnh thứ hai thì ngược lại: sự ảnh hưởng của truyền thông đến
dư luận.
Trong xã hội hiện đại, DLXH thường được phản ánh qua các phương
tiện truyền thông đại chúng, và truyền thông địa chúng qua các sản phẩm của
mình lại làm tăng thêm DLXH.

3. Báo chí với việc Phụ nữ Việt Nam lấy chồng ngoại: nhìn từ Hàn
Quốc.
Tháng 4 năm 2006, có một bài viết đăng trên báo Chosun (Hàn quốc) đề
cập đến phụ nữ Việt nam lấy chồng Hàn quốc (HQ), bài báo đã tạo nên một
làn sóng dư luận phản đối dữ dội không chỉ ở Việt Nam mà cả ở HQ, và nó
không dừng ở lĩnh vực truyền thông đại chúng mà còn tác động đến cả lĩnh
vực ngoại giao.
Nhưng, điều gì tạo nên làn sóng phản đối quyết liệt như vậy? Chúng ta
thử xem, qua lăng kính báo chí nước ngoài nhìn nhận vấn đề phụ nữ Việt Nam
kết hôn có yếu tố nước ngoài như thế nào.
Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam được xem như một món hàng rất dễ
mua, qua các quảng cáo trên báo chí ở HQ. Hiện nay ở HQ, trên bất kỳ nhật
báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo như “Cô dâu Việt Nam
đã sẵn sàng, chỉ cần có ý định (của bạn)”. Không những vậy, việc lấy vợ Việt
Nam vô cùng dễ dàng, cho dù đàn ông HQ là người thế nào cũng có thể cưới
được vợ Việt Nam “Người già, người muốn tái hôn, người đã có con, người
khuyết tật đều có thể lấy trinh nữ Việt Nam xinh đẹp”. Để thêm sức thuyết
phục cho việc tiếp thị lấy vợ Việt Nam, những quảng cáo nói trên còn liệt kê
chi tiết về những ưu điểm của con gái Việt Nam. Đó không chỉ là vẻ hấp dẫn
10


về hình thức như “dáng người đẹp nhất trên thế giới” và quyến rũ hơn so với
phụ nữ ở một số nước trong châu lục “khác với phụ nữ Trung Quốc và
Philippines, phụ nữ Việt Nam có mùi cơ thể dễ chịu” mà còn có những phẩm
hạnh tuyệt vời như “xuất giá tòng phu”, “tôn trọng người già, thờ cúng tổ
tiên đến bốn đời”, “giữ gìn trinh tiết và chung thuỷ với chồng”.1
Trong bối cảnh báo chí nhìn nhận việc kết hôn với phụ nữ Việt Nam như
vậy, cũng dễ hiểu vì sao nhật báo Chosun lại có thể “bình thản kể lại một câu
chuyện bất thường mà như là bình thường” sau đây:

“Trên bàn tiếp khách làm bằng tre, một người đàn ông HQ đang ngồi. 11
phụ nữ đang hồi hộp với ước mơ thoát khỏi cái nghèo. Người đàn ông HQ
nhìn lướt qua một lượt khuôn mặt những cô gái đang ngồi xếp chân sang một
bên. Sau 20 phút, ông ta quyết định thôi không chọn nữa và nói “Ôi, thật
ngại quá, không biết chọn ai bây giờ”.
Người đàn ông HQ này 35 tuổi, không nghề nghiệp, có mẹ đang điều
hành một quán ăn.Trước khi xem mắt trực tiếp 11 cô gái này, ông ta đã xem
qua ảnh của họ “Ông chuyển qua phòng bên cạnh, mở đĩa CD có thời gian
một tiếng rưỡi, thời gian ghi hình là tháng 4.2006. Trên màn hình lần lượt
xuất hiện 150 cô gái có mã số. Ống kính quay từ khuôn mặt rồi đến toàn
thân. Chỉ được 20 phút, ông lại bỏ cuộc. Có vẻ như ông đã chọn được hai
trong số 11 cô gái lúc nãy”.
Người đàn ông HQ này sang Việt Nam tìm vợ, với mục đích về để giúp
bà mẹ của mình, như lời ông ta hỏi với cô gái được chọn “Tôi đang thất
nghiệp nhưng sẽ xin việc làm. Mẹ tôi đã có tuổi và đang kinh doanh một của
hàng thức ăn nhỏ. Có nuôi mẹ tôi được không?”. Cũng chính vì mục đích lấy
vợ về để phục vụ gia đình, nên người đàn ông HQ này sau một lúc chần chừ
cũng chọn Sen (cô gái xuất thân từ một vùng quê nghèo khó, cách Tp. HCM
bốn giờ xe chạy) vì “Mẹ tôi dặn đi dặn lại là chọn cô nào có tướng tá to lớn
để mai mốt còn phục vụ cơm nước cho bà”.
1

Ku su Jeong, Cưới hay mua vợ Việt Nam? Báo Tuổi trẻ, ngày 25.4.2006

11


Phải chăng vì lấy vợ Việt Nam dễ, giá thấp lại có chất lượng cao như
trên, nên xu hướng đàn ông HQ lấy vợ Việt Nam ngày càng nhiều?
“Theo Cục thống kê Hàn Quốc, chỉ trong vòng năm năm, tỷ lệ kết hôn

với người nước ngoài của HQ tăng lên ba lần, trong đó tỷ lệ lấy vợ Việt Nam
tăng lên đến 43 lần, năm 2001 là 134 người, đến năm 2005 là 5.822 người.
Con số này chiếm 1/5 tổng số người HQ kết hôn với người nước ngoài, đứng
thứ hai sau Trung Quốc (18.527 người). Nhưng hầu hết phụ nữ Trung Quốc
này có gốc là người Hàn. Như vậy, chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số
người nước ngoài mà đàn ông HQ kết hôn là phụ nữ Việt Nam”.
Bên cạnh những quảng cáo cho việc lấy vợ Việt Nam như một món hàng
dễ mua, cũng có những bài viết cho thấy sự khó khăn trong đời sống gia đình
của những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài “Phụ nữ Châu Á đến HQ để
kết hôn và có cuộc sống mới đều gặp rất nhiều khó khăn vì sự khác biệt về
mặt văn hoá và những định kiến ở Hàn quốc” (Tuổi trẻ, 5.5.2006). Đồng thời,
người HQ cũng băn khoăn khi thấy không ít đàn ông HQ chỉ có thể lấy vợ
nước ngoài “Thật đáng buồn khi nghĩ đến chuyện thanh niên ở các vùng quê
phải ra nước ngoài để kiếm vợ chỉ vì không thể kiếm được vợ ở Hàn
quốc”(Tuổi trẻ, 5.5.2006). Những kiểu quảng cáo xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ Việt Nam như vậy đã tạo nên làn sóng phản ứng dữ dội ở HQ và đặc biệt ở
Việt Nam, bởi vì đó không đơn giản chỉ là “nỗi đau về trách nhiệm, mà đây
còn là nỗi nhục hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người nước
ngoài”(Võ Văn Kiệt).
Có thể nói, dư luận HQ dẫu rằng có những phản ứng với nhật báo
Chosun về bài viết của phóng viên Chae Sung Woo, nhưng cũng không thể
phủ nhận một thực tế: những quảng cáo đó đang đáp ứng nhu cầu của một bộ
phận nam giới HQ đang gặp khó khăn trong hôn nhân với phụ nữ trong nước.
Và họ đến Việt Nam, một đất nước có thị trường hôn nhân lý tưởng, dễ có
cơ hội kết hôn bởi vì có nhiều cô gái - đặc biệt ở các vùng nông thôn đồng
bằng sông Cửu Long – đang có giấc mơ đổi đời qua việc kết hôn với người
12


nước ngoài. Thêm nữa, Việt Nam và HQ có nhiều điểm tương đồng về văn

hoá, con người nên thế hệ con cái mai sau sẽ không có những khác biệt nhiều
so với người gốc HQ; như quan niệm của người HQ “vì sự tương đồng về
dung mạo nên khi sinh con sẽ không khác gì lắm với người HQ ” (Tuổi trẻ,
25.4.2006).
4. Dư luận xã hội trong nước về việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài.
Ở Việt Nam, từ nhiều năm trước dư luận xã hội và báo chí cũng đã nhiều
lần lên tiếng và cảnh báo trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài ngày
càng gia tăng. Từ năm 1995 đến nay, hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều
tra các đường dây tuyển các thôn nữ đem về Tp. HCM nuôi nhốt trong những
phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Trung Quốc, Đài
Loan đến tuyển lựa. Chưa kể hàng trăm bài báo mô tả cảnh cô dâu Việt Nam
ở Trung Quốc, Đài Loan bị ngược đãi, làm vợ tập thể,...phải trốn về nước
(Phụ nữ, 28.4.2006).
Có thể nói, qua báo chí đã cho thấy một sự biến đổi chuẩn mực xã hội,
giá trị xã hội trong quan niệm của các thôn nữ ở khu vực đồng bằng sông Cửu
Long về hôn nhân với người nước ngoài, qua việc cải biên câu hát “Má ơi
đừng gả con xa...” thành “Con xin má gả Đài Loan, tiền nhiều bạc lắm hân
hoan trong lòng”. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người nước
ngoài hiện nay là “Xu hướng lấy chồng HQ tăng lên, trẻ hoá cô dâu. Trước
đây lấy chồng thì được tiền, nay các cô thôn nữ bỏ tiền ra cưới chồng ngoại
quốc”. Báo chí cũng đã phản ánh một trường hợp cô gái trẻ ở phía Bắc “cưới
chồng” Đài Loan với số tiền quy ra khoảng 10 tấn thóc. Bởi lý do kết hôn là
ra nước ngoài có việc làm:
Đi lao động Đài Loan thì phải tốn tiền môi giới, mà hợp đồng lao động
lại có hạn, chỉ phù hợp với những phụ nữ đã có gia đình. Nếu các cô lấy
chồng, tờ hôn thú sẽ đảm bảo cho các cô việc ở lại Đài Loan làm việc tới ...
già. Thu nhập của các cô là niềm mong đợi của gia đình ở quê nhà. Đó là
13



những cuộc hôn nhân 2 trong 1, vừa có chồng, vừa có việc làm. Số tiền các
cô vay mượn bỏ ra mua chồng, sang đến Đài Loan, đi làm vài tháng là dư
trả” (Báo Phụ nữ Tp. Hồ Chí Minh, ngày 23.6.2006). Ngoài ra, để cải thiện
đời sống gia đình, “báo hiếu cha mẹ” cũng là một lý do quan trọng, như một
nghiên cứu gần đây cho thấy động cơ kết hôn với người Đài Loan thì “muốn
giúp đỡ gia đình” chiếm tỷ lệ cao nhất với 46.7% (Trần Thị Kim Xuyến,
2005: 78)
Có những luồng dư luận/ý kiến trái ngược nhau về vấn đề kết hôn với
người nước ngoài. Có thể chia ra hai quan điểm chính: ủng hộ và phản đối.
Những ý kiến phản đối việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài, vì đó thực chất là buôn bán phụ nữ: “Có cả một dịch vụ mua bán phụ
nữ Việt Nam cho người nước ngoài diễn ra và vẫn còn tiếp tục diễn ra rộn
rịp, phát đạt, vui vẻ, không hề giấu diếm, một ngành buôn người thật
sự”(Nguyên Ngọc, 2006)
Ý kiến ủng hộ, nhìn từ bên ngoài: trong bài viết của mình, Han Guk
Yeom - đại diện Trung tâm Nhân quyền của phụ nữ nhập cư tại HQ – đăng
trên báo Joong Ang, một tờ báo lớn của HQ, đã viết rằng: “Sự thay đổi về
cách nhìn nhận phụ nữ châu Á là điều quan trọng nhất. Xem cuộc hôn nhân
của phụ nữ nhập cư với đàn ông Hàn quốc như “một cách chạy trốn đói
nghèo” là một cách nhìn kỳ thị và sai lầm. Nếu mọi người tiếp tục nghĩ họ
“lấy chồng vì tiền” thì sẽ rất khó ngăn chặn tình trạng vi phạm nhân quyền
và nguy cơ buôn người..... Chúng ta nên nhìn nhận họ như những người tiên
phong trong cuộc sống và tôn trọng họ”(Tuổi trẻ, ngày 5.5.2006)
Có thể thấy, các quan chức nước ngoài cũng ủng hộ việc kết hôn của
nam giới HQ với phụ nữ Việt Nam, qua cái nhìn tích cực của tuỳ viên báo chí
và thông tin đại sứ HQ tại Việt Nam “Hàn quốc phải cảm ơn Việt Nam vì đã
cho chúng tôi những cô dâu ngoan và tuyệt vời”, bởi lẽ khó khăn trong hôn
nhân của đàn ông HQ đang là một vấn đề xã hội “Một vấn đề xã hội lớn hiện
nay tại HQ là nhiều người đàn ông, nhất là ở nông thôn, rất khó lập gia đình.

14


Nên đàn ông HQ muốn lấy vợ Việt Nam vì họ có thể chia sẻ việc chăm sóc
cha mẹ già yếu, và chung sức lo cho gia đình” (Lao Động, 27.4. 2006). Theo
số liệu của Văn phòng thống kê quốc gia Hàn quốc “35.9% thanh niên HQ ở
các làng nông thôn và chài lưới kết hôn trong năm ngoái đều lấy vợ nước
ngoài” (Tuổi trẻ, 5.5.2006)
Sự tán đồng từ trong nước: nguyên tổng biên tập báo Tuổi trẻ Lê Văn
Nuôi cho rằng “Hôn nhân với người khác quốc tịch trong bối cảnh nước ta
quan hệ đa phương và hội nhập toàn cầu là chuyện bình thường. Nhưng chỉ
bình thường và đáng ủng hộ khi họ quan hệ hôn nhân bình đẳng, đến với
nhau qua một quá trình giao tiếp, có tình yêu thật sự và cô dâu Việt Nam có
đủ trình độ văn hoá để hội nhập văn hoá xứ người”(Tuổi trẻ, 6.5.2006)
Hai luồng quan niệm trái ngược nhau trước hiện tượng phụ nữ Việt Nam
kết hôn với người nước ngoài là biểu hiện của đặc tính thống nhất và xung đột
của dư luận xã hội.
5. Truyền thông đại chúng và sự điều chỉnh dư luận xã hội
Dư luận xã hội qua các phương tiện truyền thông đại chúng không chỉ
phản ánh thực trạng đời sống hôn nhân có yếu tố nước ngoài, mà còn cho thấy
quy trình của việc tuyển chọn “cô dâu”. Bên cạnh đó, điểm nổi bật qua các
bài viết trên phương tiện truyền thông đại chúng đã cho thấy sự biến đổi về
quan niệm, về giá trị hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Cộng đồng, xã hội
không còn cái nhìn phán xét nghiêm ngặt như trước, trong khi lên án những
hành vi môi giới mà thực chất là buôn bán phụ nữ, thì có sự khoan dung hơn
với các em gái lấy chồng xứ người.
Không chỉ dư luận xã hội trong nước mà dư luận xã hội ở nước ngoài
cũng không tán đồng với những bài viết xúc phạm nhân phẩm các cô dâu Việt
Nam lấy chồng nước ngoài (trường hợp bài viết trên báo Chosun vừa qua đã
cho thấy điều đó).

Điều quan trọng hơn, qua dự luận xã hội, đã tác động đến các nhà lập
pháp, những người xây dựng chính sách, để điều chỉnh pháp luật cho phù hợp
15


với hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay.
Bởi lẽ, các văn bản pháp lý hiện nay về hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã cho
thấy có những bất cập so với thực tiễn.
Về vấn đề này, một lãnh đạo của bộ Tư pháp cho rằng “Bộ Tư pháp sẽ
phải sửa đổi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó, sẽ có những quy
định riêng về các điều kiện kết hôn với người nước ngoài. Cụ thể, phải có đủ
một số điều kiện (không quá chênh lệch về tuổi tác, có hiểu biết lẫn nhau) và
mục đích hôn nhân phải tự nguyện, tiến bộ. Ngoài điều kiện kết hôn, thủ tục
kết hôn hiện hành với người nước ngoài cũng cần được sửa đổi. Theo đó, sẽ
bắt buộc bên nam bên nữ phải có mặt khi đăng ký kết hôn tại Việt Nam.” (Phụ
nữ, 5.5. 2006)2
Như bộ trưởng bộ Tư pháp Uông Chu Lưu trả lời báo chí “Sau Chỉ thị
03, Bộ Tư pháp đã yêu cầu hôn nhân có yếu tố nước ngoài phải tới Sở Tư
pháp phỏng vấn, xác định mục đích hôn nhân là gì, trước khi cho kết hôn.
Thế nhưng, họ thường gửi hồ sơ đăng ký kết hôn sang HQ để đăng ký kết hôn
sau đó mới gửi về Việt Nam và chúng ta chỉ còn cách công nhận. Vì thế, Bộ
Tư pháp sẽ phải làm việc với Đại sứ HQ và cơ quan tư pháp HQ để bàn biện
pháp giải quyết. Ít ra phải có một hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn
nhân gia đình”(Phụ nữ,5.5.2006).
Năm 2005, quan điểm của các nhà làm luật về việc sửa đổi NĐ 68 trong
lĩnh vực kết hôn có yếu tố nước ngoài cho thấy động thái điều chỉnh văn bản
luật pháp trước thực tế hiện này “Hiện nay Bộ Tư pháp đang hoàn tất sửa đổi
NĐ 68, quy định trong hồ sơ đăng ký kết hôn, hai bên vợ chồng phải có
chứng chỉ chung (hoặc tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung) và xác nhận của
chính quyền địa phương về thời gian (tối thiểu) mà hai bên đã tìm hiểu nhau

(ví dụ bắt buộc là 3 tháng). Thứ hai, bắt buộc hai bên phải trực tiếp nộp hồ
sơ tại Sở tư pháp địa phương chứ không được uỷ quyền cho người môi giới.
2

Tháng 8/2006, đã có Quy định cấm về sự quá chênh lệch tuổi kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người
nước ngoài

16


Thứ ba, trong hồ sơ kết hôn phải có biên bản phỏng vấn và cán bộ tư pháp
được giao phỏng vấn phải chịu trách nhiệm nếu các “đương sự” có vấn đề”.
Điều đó đã thành hiện thực, ngày 21 tháng 7 năm 2006 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 69/2006/NĐ – CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10-7-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài của
Luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó:
“...Sở Tư pháp có trách nhiệm thực hiện phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở
Sở Tư pháp đối với hai bên nam, nữ để kiểm tra, làm rõ về sự tự nguyện kết
hôn của họ, khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung và mức độ hiểu biết về
hoàn cảnh của nhau.
Việc đăng ký kết hôn cũng bị từ chối, nếu kết quả phỏng vấn, thẩm định,
xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả
tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc;
lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm hại tình dục với phụ nữ hoặc vì
mục đích trục lợi khác” (Báo Hà nội mới, ngày 26.7.2006)
Đương nhiên, nếu chỉ có Luật pháp của Việt Nam sửa đổi thì chưa hẳn
đã có hiệu quả cao, nếu như các nước liên quan đến hôn nhân có yếu tố nước
ngoài không có những thay đổi về quy định, luật pháp. Sẽ rất tốt nếu như các

nước trong khu vực cũng có quan điểm như HQ về vấn đề này, như thông báo
của đại sứ HQ tại Việt Nam, về kết quả làm việc của tổng thống HQ với các
cơ quan chức năng nước này “theo đó, HQ sẽ xây dựng một hệ thống tổng
quát hỗ trợ phụ nữ nước ngoài đã kết hôn và di cư đến HQ, giúp họ sớm ổn
định cuộc sống” (Báo PNVN, số 54/2006)
6. Làm thế nào để giảm thiểu rủi ro trong hôn nhân có yếu tố nước
ngoài?
Chúng tôi quan niệm rằng, hôn nhân với người nước ngoài là một xu thế
tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Chúng ta không thể vì những
17


quan niệm cũ về hôn nhân ngoại bang, với sự kỳ thị “me Tây”, “me Mỹ” như
thời còn ngoại xâm mà lên án và ngăn chặn hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Không thể duy ý chí trong việc muốn hay không muốn có hiện tượng kết hôn
với người nước ngoài. Đây là một vấn đề bình thường trong quá trình phát
triển, giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hoá.
Điều quan trọng là, làm thế nào để giảm thiểu những rủi ro cho những
phụ nữ kết hôn với người nước ngoài? Theo chúng tôi, nên chú ý đến một vài
phương diện sau đây:
6.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã
hội
Vấn đề kết hôn với người nước ngoài đã có từ lâu, và thực sự rầm rộ
trong khoảng mươi năm trở lại đây. Tuy nhiên, từ phía cộng đồng, xã hội chưa
thật sự quan tâm và các đoàn thể dường như cũng bỏ qua, không thấy có vai
trò và trách nhiệm trong chuyện này. Ngay cả Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
là tổ chức chính trị xã hội của Phụ nữ mà cũng chưa thật quan tâm đến số
phận các thành viên của Hội kết hôn với người nước ngoài. Có thể thấy điều
này trong thư của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Chủ tịch Hội LHPNVN
Hà Thị Khiết:

“Tôi đã nhiều lần có thư nhắc nhở, kêu cứu đến các cơ quan chức năng,
các địa phương có nhiều chị em làm dâu xứ người. Cả một hệ thống chính trị
của Đảng từ trung ương đến các địa phương không thấy có định hướng, tác
động gì, cứ để mạnh ai nấy làm một cách tự phát”(Tuổi trẻ, 28.4.2006).
Chúng ta cần phải đi tìm lời giải cho câu hỏi của nguyên Thủ tướng Võ Văn
Kiệt “Ai có trách nhiệm phải giữ gìn truyền thống của phụ nữ Việt Nam và
ai là người có trách nhiệm trước nỗi nhục này, có khả năng làm giảm nỗi
đau này chăng?”(Tuổi trẻ, 28.4.2006). Nhưng chúng ta biết rằng nhiều bộ,
ngành còn thiếu trách nhiệm trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài.
Ví dụ, trong khi Cục thống kê HQ có số liệu cụ thể về những trường hợp kết
hôn với người nước ngoài, thì ở Việt Nam “Cục thống kê dường như “không
18


thèm nắm mấy con số lặt vặt” đó. Bộ Tư pháp cũng không phân tích số liệu
phụ nữ Việt Nam lấy chồng các nước. Toà án tối cao không thống kê tỷ lệ ly
hôn với người nước ngoài, phân tích nguyên nhân. Sở Tư pháp cấp giấy kết
hôn với người nước ngoài, nhưng đến xin số liệu phải đợi tách ra từng
nước”(Phụ nữ, 28.4.2006). Qua đó có thể thấy, các tổ chức xã hội, các ngành
chức năng còn thiếu quan tâm đến hiện tượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài
của phụ nữ Việt Nam, và chưa có đơn vị xã hội nào coi đó là nhiệm vụ và
trách nhiệm của mình.
6.2. Vai trò của gia đình:
Giáo dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà rất quan trọng
không chỉ với việc hình thành nhân cách của con cái, mà còn trang bị cho con
cái sự hiểu biết, bản lĩnh sống, khả năng thích ứng trước những biến động, rủi
ro của cuộc đời. Với con gái, nếu người mẹ không quan tâm giáo dục con
mình về “công, dung, ngôn, hạnh” về “nữ công gia chánh” mà lại chỉ mong gả
bán con gái cho người ngoại quốc, thì nguy cơ với con gái họ thật khó lường.
6.3. Hành trang cho các thôn nữ kết hôn với người nước ngoài.

Có một thực tế, “làn sóng” hôn nhân với người nước ngoài những năm
gần đây đa số là các em gái từ các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, học vấn
thấp, ít hiểu biết. Vì thế, không thể bỏ mặc các em ra đi làm dâu xứ người với
hai bàn tay trắng, chỉ với ước mơ đổi đời. Cần chuẩn bị cho các em hành
trang thật tốt để đi làm dâu xứ người. Theo quan điểm của chúng tôi, hành
trang cho các em gái có nguyện vọng kết hôn với người nước ngoài bao gồm:
- Thông tin về thực trạng đời sống hôn nhân của những cô dâu Việt Nam
ở nước ngoài: cần cung cấp cho các em và cha mẹ những thôn nữ có mong
muốn lấy chồng nước ngoài về thực trạng đời sống của hôn nhân với người
nước ngoài. Để gia đình và các em có suy nghĩ chín chắn trước khi quyết
định. Trên thực tế, vì hầu hết các thôn nữ lấy chồng nước ngoài có trình độ
học vấn thấp, nhiều em chưa bao giờ tiếp cận với các phương tiện truyền
thông đại chúng, nên việc thiếu thông tin hoặc có thông tin sai lệch (qua môi
19


giới) khiến cho không ít em gái đã vỡ mộng và nuối tiếc vì quyết định sai lầm
của mình.
Có những thông tin đầy đủ và chính xác về người chồng tương lai, về gia
cảnh người chồng, về địa phương mà các em sẽ đến sinh sống với vai trò
người vợ, người con dâu trong gia đình cũng sẽ góp phần giúp các em và gia
đình cân nhắc trước khi quyết định lấy chồng nước nào, ở đâu cho phù hợp
với mình.
- Các em cần được đào tạo, được học về làm vợ, làm dâu ở nước ngoài,
với một số nội dung cơ bản, có thể là:
Về Luật pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền của nước mà các
em sẽ đến làm dâu. Theo ông Nguyễn Quốc Cường, Phó vụ trưởng Vụ hành
chính tư pháp, Bộ Tư pháp thì “Hầu hết trong 3 năm đầu, các cô dâu Việt rất
khó hoà nhập với gia đình chồng vì không biết tiếng, chưa hiểu gia phong,
tập tục.”

Về điều này, lời khuyên của tuỳ viên báo chí và thông tin đại sứ quán
HQ rất đáng để cho những phụ nữ Việt Nam đã, đang và sẽ có ý định lấy
chồng nước ngoài nói chung và lấy chồng HQ nói riêng tham khảo “Tôi nghĩ
trước khi có quyết định lấy chồng HQ họ nên chuẩn bị cho những cách biệt
văn hoá, ngôn ngữ và suy nghĩ. HQ tuy phát triển hơn Việt Nam, nhưng cũng
có những người phải sống rất khó khăn. Các cô gái trẻ mang giấc mơ lấy
chồng HQ để đổi đời cần suy nghĩ chín chắn, vì thực tế không phải lúc nào
cũng vậy” (Lao động, 27.4.2006)
Về kỹ năng nội trợ, sử dụng các đồ dùng trong gia đình: các em gái cần
được học sử dụng các đồ dùng, tiện nghi trong gia đình nước ngoài, biết nấu
các món ăn cho người nước ngoài, nơi mà các thôn nữ sẽ đến làm dâu.Thực tế
cho thấy, có những trường hợp hôn nhân tan vỡ vì cô dâu không làm tròn bổn
phận của mình. Như trường hợp một đàn ông HQ 45 tuổi sau hai tháng lấy cô
vợ Việt Nam 19 tuổi đã đòi ly dị và kiện Viện bảo hộ người tiêu dùng HQ, đòi
lại cho phí thủ tục kết hôn vì cô vợ 19 tuổi dậy muộn, không lo bữa ăn sáng
20


cho con trai đang học cấp 3 của chồng. Hay một ví dụ khác, một cô gái quê ở
Đồng Tháp lấy chồng 2 năm mà không biết nấu món ăn HQ cho nhà chồng.
Rõ ràng, công việc tề gia nội trợ là một nhiệm vụ không thể thiếu được khi
lấy chồng nước ngoài như HQ, Đài loan. Vì thế, học để làm nội trợ phục vụ
gia đình cũng rất cần thiết, và làm tốt điều này là yếu tố đảm bảo hôn nhân
bền vững ở xứ người.
Về ngôn ngữ: sẽ khó có thể làm tốt vai trò làm vợ, làm dâu ở nước ngoài
nếu các em gái không được học ngôn ngữ của nước đó. Vì thế, các em gái
trước khi kết hôn cần phải học ngôn ngữ của quốc gia mà các em có ý định
lấy chồng. Dù chúng ta không hy vọng các thôn nữ học vấn thấp (thậm chí có
em còn không biết đọc, viết) nhưng ít ra cũng dạy cho các em biết được giao
tiếp tối thiểu, có thể gọi tên các đồ vật/phương tiện sinh hoạt trong gia

đình,v.v.. Đây là tiền đề cho các em có thể dần dần vượt qua được rào cản
ngôn ngữ, dần dần hội nhập vào cuộc sống gia đình ở nước ngoài.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới góp phần làm giảm thiểu những rủi ro
đối với các em gái lấy chồng nước ngoài và mới xây dựng được những
cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài có được hạnh phúc gia đình. Đó cũng
là điều quan trọng mà dư luận xã hội cần hướng tới. Cùng nhằm mục đích
xây dựng đó, tôi nghĩ không chỉ ở những nước của “cô dâu” mà cả ở
những nước “chú rể” cũng cần có sự uốn nắn của dư luận xã hội đối với
những quan niệm lệch lạc về hạnh phúc con người.

21


KẾT LUẬN
Báo chí là tiếng nói của Đảng, đồng thời cũng phản ánh tiếng nói của
quần chúng. Trình độ mọi mặt của nhân dân ta ngày càng cao, đòi hỏi báo chí
và các phương tiện thông tin phải bảo đảm tính chân thực, nâng cao chất
lượng, tăng cường tính quần chúng và tính chiến đấu, khắc phục tình trạng
giản đơn, đơn điệu, hời hợt, một chiều...
Qua các nội dung nghiên cứu trong đề tài, có thể thấy Đảng và Nhà
nước ta đã xác định công tác tư tưởng cần phải coi nhiệm vụ hướng dẫn, định
hướng dư luận xã hội là một trong các nhiệm vụ cơ bản của mình. Chỉ có gắn
công tác công tác nghiên cứu dư luận xã hội với công tác tuyên truyền mới
làm cho công tác tư tưởng đạt kết quả, có chiều sâu và bền vững.
Cùng với sự chỉ đạo, hỗ trợ của các cơ quan quản lý, cơ quan Đảng,
chính quyền, các cơ quan báo chí cũng cần tập trung thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ, chức năng của mình, từ đó mới có thể thực hiện tốt hơn nữa vai trò hình
thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân dân, đáp ứng những đòi hỏi mà
thực tế cuộc sống đặt ra.


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng – Văn hoá trung ương, Nghiên cứu, sử dụng và định
hướng Dư luận xã hội; Hà Nội, 1999.
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002.
3. Nguyễn Quý Thanh, Bài giảng Xã hội học Dư luận xã hội, 2005.
4. Trần Thị Kim Xuyến, Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu
Long kết hôn với người Đài Loan, Tạp chí Xã hội học số 1(89) 2005.
5. Báo Hà Nội mới, ngày 13.7.2006; ngày 27.7.2006.
6. Báo Lao động, các số trong tháng 4-6/2006.
7. Báo Pháp luật Tp. HCM, ngày 9.9.2002.
8. Báo Phụ nữ Việt Nam, số 54, ngày 5.5.2006.
9. Báo Phụ nữ Tp. HCM, các số trong tháng 4-6/2006.
10. Báo Tuổi trẻ, các số trong tháng 4-6/2006.
11. Tạp chí Tia Sáng, số 9 tháng 5.2006.

23


MỤC LỤC
5. Truyền thông đại chúng và sự điều chỉnh dư luận xã hội.................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................23

24




×