Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở châu á thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.45 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

PHAN PHÚ GIA

TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH
ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA
ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

PHAN PHÚ GIA

TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH
ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA
ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG

Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN KIM QUYẾN


Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Kinh tế với đề tài “Tác động của thâm hụt
ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á – Thái
Bình Dương” là công trình nghiên cứu của tôi cùng với sự hỗ trợ của Giảng viên
hướng dẫn TS. Nguyễn Kim Quyến và chưa từng được công bố trước đây.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về
nội dung tôi đã trình bày trong luận văn này.
TP Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 5 năm 2016
Ngƣời thực hiện

Phan Phú Gia


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Các biến số của mô hình, ký hiệu, cách tính và nguồn thu thập dữ liệu
Bảng 2.2: Thống kê mô tả các biến số trong mô hình
Bảng 3.1: Kết quả kiểm định lựa chọn Pooled OLS và FEM
Bảng 3.2: Kết quả kiểm định lựa chọn Pooled OLS và REM
Bảng 3.3: Kết quả kiểm định lựa chọn FEM và REM
Bảng 3.4: Ma trận tương quan tuyến tính giữa các cặp biến trong mô hình
Bảng 3.5: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai
Bảng 3.6: Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi của mô hình
Bảng 3.7: Kết quả kiểm tra tự tương quan của mô hình
Bảng 3.8 : Kết quả hồi quy mô hình
Bảng 3.9: Kết quả hồi quy mô hình GMM



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

D

Public Debt

Nợ công

FD

Fiscal Deficit

Thâm hụt tài khóa/Thâm hụt
ngân sách

FEM

Fixed-Effect Model

Mô hình hiệu ứng cố định

GDP

Gross Domestic Product


Tổng sản phẩm quốc nội

GFS

Government Finance Statistics

Cẩm nang thống kê tài chính
Chính phủ

GMM

Generalized method of moments

Mô hình GMM

GR

Growth rate

Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế

GSO

Government Statistics Organization Tổng Cục thống kê

IMF

Internationnal Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế


INF

Inflation

Lạm phát

OECD

Organisation for Economic Cooperation and Development

Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế

REM

Randomed-Effect Model

Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên

RIR

Real Interest Rate

Lãi suất thực

SAV

National Saving


Tiết kiệm quốc gia

TAX

Taxation

Thuế

TO

Trade Openess

Độ mở thương mại

WB

WorldBank

Ngân hàng thế giới


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................................1
CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT
NGÂN SÁCH VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ ............................................5

1.1. Lý thuyết về thâm hụt ngân sách .................................................................5
1.1.1. Khái niệm .................................................................................................5
1.1.2. Nguyên nhân .............................................................................................6
1.1.3. Một số cách đo lường thâm hụt ngân sách ..............................................8
1.1.4. Các phương pháp xử lý thâm hụt ngân sách ..........................................11
1.2. Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế ...............................................................13
1.3. Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ..................15
1.3.1. Tác động ngắn hạn của thâm hụt ngân sách ..........................................17
1.3.2. Tác động dài hạn của thâm hụt ngân sách.............................................20
1.4. Tổng quan các nghiên cứu trước đây về tác động của thâm hụt ngân sách
đến tăng trưởng kinh tế.....................................................................................22
1.5. Mô hình lý thuyết về thâm hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia và tăng
trưởng kinh tế ...................................................................................................27
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM .............................................32
2.1. Mô hình nghiên cứu ..................................................................................32
2.2. Mô tả dữ liệu .............................................................................................32
2.3. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................36
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .....................................................41
3.1 Kiểm định lựa chọn mô hình hồi quy phù hợp ...........................................41
3.1.1 Kiểm định lựa chọn mô hình hồi quy dữ liệu bảng Pooled OLS và mô
hình hiệu ứng cố định (FEM) ...........................................................................41


3.1.2 Kiểm định lựa chọn mô hình Pooled OLS và mô hình hiệu ứng ngẫu
nhiên (REM) .....................................................................................................41
3.1.3 Kiểm định lựa chọn mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu
ứng ngẫu nhiên (REM) .....................................................................................42
3.2 Kiểm định sự tương quan các biến trong mô hình và đa cộng tuyến .............43
3.2.1 Ma trận tương quan đơn tuyến tính giữa các cặp biến ...........................43
3.2.2 Kiểm định đa cộng tuyến trong mô hình .................................................44

3.3 Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi ...........................................45
3.4 Kiểm định hiện tượng tự tương quan phần dư.................................................46
3.5 Phân tích kết quả hồi quy.................................................................................47
3.6.

Phân tích tính vững trong hồi quy GMM ....................................................51

CHƢƠNG 4: HÀM Ý CHÍNH SÁCH KINH TẾ ....................................................53
4.1. Kết luận ...........................................................................................................53
4.2. Một số hàm ý chính sách kinh tế ....................................................................54
4.2.1. Điều hành chính sách tài khóa ...............................................................54
4.2.2. Chính sách thuế ......................................................................................55
4.2.3. Kiểm soát lạm phát .................................................................................56
4.2.4. Điều hành lãi suất ..................................................................................57
4.2.5. Chính sách vay nợ và quản lý nợ công...................................................57
4.3. Hạn chế nghiên cứu và hướng phát triển của nghiên cứu ..............................58
4.3.1. Hạn chế nghiên cứu ................................................................................58
4.3.2. Hướng phát triển của nghiên cứu ..........................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu mà tất cả mọi nền kinh tế trên thế giới đều
hướng đến. Một sự tăng trưởng mà một quốc gia cụ thể đạt được, trong cả ngắn hạn

và dài hạn, đều là kết quả của sự đóng góp của rất nhiều yếu tố. Theo mô hình tăng
trưởng nội sinh, Chính phủ đóng một vai trò có ý nghĩa trong việc thúc đẩy tích lũy
trình độ dân trí, nghiên cứu và phát triển, đầu tư công, phát triển nguồn vốn con
người, luật lệ và các đối tượng khác để tác động lên tăng trưởng trong ngắn hạn và
dài hạn. Sự tương đồng của trường phái mô hình tăng trưởng nội sinh (Romer,
1986; Lucas, 1988; Barro, 1990) và trường phái Tân cổ điển (Solow, 1956; Swan,
1956) là cả hai đều cho rằng chính sách tài khóa có tác động đến tăng trưởng kinh
tế, tuy nhiên sự khác biệt lại nằm ở tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng
trưởng. Cho đến ngày nay, những tranh cãi về vai trò của thâm hụt ngân sách, sự
tồn tại và ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế vẫn đang là một vấn đề mà các
nhà kinh tế quan tâm hàng đầu. Bất cứ quốc gia nào cũng đã và đang đối mặt với
tình trạng mất cân bằng ngân sách và cố gắng tài trợ thâm hụt bằng các cách khác
nhau. Bên cạnh đó, bối cảnh kinh tế thế giới đã trải qua rất nhiều biến động trong
thời gian qua như cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, nguy cơ vỡ nợ của
Hy Lạp ảnh hưởng đến an ninh tài chính của Liên minh Châu Âu, các nền kinh tế cố
gắng thành lập các khu vực mậu dịch tự do nhằm “phẳng hóa” về các nguồn lực và
tăng cường mậu dịch thương mại. Tuy nhiên trong bất kỳ giai đoạn và hoàn cảnh
kinh tế nào, các quốc gia vẫn phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của thâm hụt
ngân sách và vẫn tiếp tục duy trì tình trạng này trong một mối quan hệ với sức khỏe
của nền kinh tế. Câu hỏi về vai trò của thâm hụt ngân sách đến kết quả kinh tế của
mỗi quốc gia riêng biệt trong các hoàn cảnh kinh tế đặc biệt vẫn đang là chủ đề
nghiên cứu nóng sau cuộc khủng hoảng toàn cầu vào cuối thập kỷ đầu tiên của thế
kỷ XXI. Chính vì lý do này, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa
thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia cụ thể, trong bối cảnh


không gian và thời gian cụ thể, tác giả quyết định chọn đề tài “Tác động của thâm
hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á –
Thái Bình Dương” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục đích của luận văn là xác định và đánh giá tác động giữa thâm hụt ngân
sách và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển thuộc khu vực kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn nghiên cứu 1999 – 2014, thông qua mô
hình hồi quy dữ liệu bảng với các biến số kinh tế cụ thể như: tăng trưởng kinh tế,
thâm hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia, chi tiêu và nguồn thu chính phủ, lạm phát,
lãi suất, nợ công, độ mở kinh tế,…Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, nội dung của
luận văn phải trả lời được những câu hỏi nghiên cứu chính như sau:
- Thâm hụt ngân sách có tác động đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
đang phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương không?
- Mức độ tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia đang phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương như thế nào?
- Những hàm ý về chính sách nào có thể rút ra từ kết quả tác động của thâm
hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á –
Thái Bình Dương?
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm xác định
mức độ tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, tác giả sử
dụng các phương pháp ước lượng đối với mô hình tăng trưởng nội sinh, kiểu dữ liệu
bảng như hiệu ứng cố định (FEM), hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) và GMM, để kiểm
chứng, phân tích tác động của giữa thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của
nhóm 10 quốc gia đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn từ
1999 – 2014. Đề tài được thực hiện theo quy trình sau:


3

- Bước 1: Tổng hợp cơ sở lý thuyết về thâm hụt ngân sách và các nghiên cứu
trước đây về tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế
- Bước 2: Từ lý thuyết và các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, lựa chọn mô hình, kiểu dữ liệu và phương pháp ước lượng phù hợp để

ước lượng, phân tích tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế. Cụ
thể ở đây tác giả lựa chọn mô hình tăng trưởng nội sinh gồm các biến số kinh tế như
tốc độ tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia, nguồn thu chính
phủ, lạm phát, lãi suất, độ mở thương mại,… với kiểu dữ liệu bảng từ 10 quốc gia
đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương trong thời gian 1999 – 2014, các
phương pháp ước lượng FEM, REM, GMM.
- Bước 3: Thu thập dữ liệu, xử lý dữ liệu và thực hiện ước lượng mô hình
bằng các phương pháp ước lượng FEM, REM, GMM trên phần mềm Stata, thông
qua một số kiểm định cụ thể đi kèm
- Bước 4: Sử đụng kết quả ước lượng để trả lời các câu hỏi nghiên cứu chính
như xác định tồn tại tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế, sự
phù hợp với các lý thuyết đi trước và đưa ra một số bàn luận, hàm ý chính sách đối
với vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: phân tích tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng
trưởng kinh tế ở 10 quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
trong mô hình tăng trưởng nội sinh đa biến.
Phạm vi nghiên cứu: 10 quốc gia đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình
Dương trong giai đoạn 1999 – 2014.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Về mặt khoa học:
Khẳng định tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế, luận
văn đưa ra quan điểm chứng minh thực nghiệm về ảnh hưởng của thâm hụt ngân


sách đến tăng trưởng kinh tế của nhóm 10 nước đang phát triển ở Châu Á – Thái
Bình dương trong giai đoạn nghiên cứu. Đồng thời so sánh, đánh giá sự khác biệt về
đặc điểm riêng biệt của Việt Nam so với các quốc gia còn lại trong mẫu nghiên cứu.
- Về mặt thực tiễn:
+ Bài nghiên cứu đưa ra các bàn luận và hàm ý chính sách để đề xuất các giải

pháp đối với chính sách kinh tế của nhóm các quốc gia đang phát triển thuộc khu
vực kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương trong tương lai.
+ Bài nghiên cứu bổ sung vào chuỗi các nghiên cứu trong nước về tác động
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế, sử dụng phương pháp ước lượng
trên dữ liệu bảng, tiếp tục hoàn thiện các lỗ hổng nghiên cứu còn tồn tại cũng như
gợi mở những hướng phát triển tiếp theo của vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận
văn cũng đóng vai trò là tài liệu tham khảo trong lĩnh vực Tài chính công trong
tương lai.
6. Kết cấu đề tài
Đề tài được thiết kế thành 4 chương như sau:
Chương 1: Lý thuyết về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng
kinh tế
Chương 2: Phân tích thực nghiệm
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Hàm ý chính sách


5

CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT
NGÂN SÁCH VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
1.1. Lý thuyết về thâm hụt ngân sách
1.1.1. Khái niệm
Thâm hụt ngân sách (hay bội chi ngân sách) là tình trạng tổng chi ngân sách
do chính phủ thực hiện lớn hơn các khoảng thu mà chính phủ thu được trong năm
tài khóa. Ở phạm vị rộng hơn, thâm hụt ngân sách là hiện tượng ngân sách của
chính phủ không cân đối được (thể hiện ở chênh lệch giữa cung và cầu về nguồn lực
tài chính của chính phủ). Từ quan điểm về quản lý ngân sách của các quốc gia, tồn
tại nhiều quan niệm khác nhau về thâm hụt ngân sách. Việc tính toán mức độ thâm
hụt ngân sách ở mỗi quốc gia thường có sự khác biệt do cách thức xác định các

khoản mục thu, chi ngân sách có sự khác biệt giữa mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, ngân sách chính phủ (hay ngân sách nhà nước) bao gồm
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương (theo Luật Ngân sách nhà nước,
2002). Thâm hụt ngân sách chính phủ là thâm hụt ngân sách của Trung ương và
được định nghĩa là chênh lệch giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu
ngân sách trung ương trong năm ngân sách.
Trên phương diện quốc tế, Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đã ban hành Cẩm nang
Thống kê tài chính Chính phủ (GFS) trong đó khái niệm thu và chi ngân sách được
khái quát như sau:
Thu ngân sách là các khoản thu vào quỹ ngân sách mà không kèm theo,
không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp cho các đối tượng có nghĩa vụ phải
nộp ngân sách. Thu ngân sách chính phủ bao gồm: các khoản thu thuế, phí và các
khoản thu khác (kể cả viện trợ không hoàn lại), không bao gồm các khoản vay trong
và ngoài nước. Trên phương diện khác, thu ngân sách nhà nước là những khoản thu
mang tính chất cưỡng bức hay là trách nhiệm của mọi thành phần kinh tế đối với
chính phủ.


Chi ngân sách là các khoản chi ra từ ngân sách không làm phát sinh nghĩa vụ
phải bồi hoàn trực tiếp đối với các đối tượng thụ hưởng ngân sách, đó chính là toàn
bộ khoản thực chi ngân sách trong một năm tài khóa. Chi ngân sách chính phủ bao
gồm chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi chuyển nhượng, chi trả lãi vay
nhưng không bao gồm chi trả nợ gốc và các khoản chi khác.
Thâm hụt ngân sách (hay bội chi ngân sách) được xác định bằng chênh lệch
giữa chi ngân sách và thu ngân sách.
1.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của tình trạng thâm hụt ngân sách là các thay đổi về lượng và
cách thức tính toán trong thu và chi ngân sách. Bất kỳ một thay đổi nào về số lượng
(tuyệt đối) hay kỹ thuật phân chia các hạn mục thu, chi ngân sách đều ảnh hưởng
đến mức độ thâm hụt ngân sách. Đến nay các nguyên nhân của thâm hụt ngân sách

chính phủ có thể được chia thành 5 nguyên nhân chính, cụ thể như sau:
Thứ nhất, do nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp các khoản chi của
chính phủ (thất thu và chi ngân sách lớn). Như đã biết, thuế là nguồn thu chiếm tỷ lệ
lớn trong thu ngân sách chính phủ. Bên cạnh đó, thuế cũng là nguồn thu bền vững
nhất nếu so với các nguồn thu như khai thác tài nguyên, các khoản đóng góp ngân
sách của các danh nghiệp quốc doanh, các khoản vay và nhận viện trợ của chính
phủ, … Tuy nhiên trong bất kỳ nền kinh tế nào trên thế giới cũng xảy ra tình trạng
các chủ thể kinh tế cố ý lợi dụng các kẽ hở hoặc sự khác biệt giữa các hệ thống pháp
luật về thuế để lẩn tránh, làm giảm hoặc cố tình nợ nghĩa vụ nộp thuế, dẫn đến tình
trạng thất thu của ngân sách chính phủ. Thêm vào đó, một số chính phủ thực thi
chính sách tài khóa để đối phó với các cú sốc kinh tế hay để ổn định nền kinh tế
thường có những giai đoạn nới lỏng chính sách thuế như giảm thuế, miễn thuế đối
với các chủ thể kinh tế mới thành lập hoặc gia hạn thời gian nộp thuế. Trong bối
cảnh chi ngân sách của các chính phủ không ngừng gia tăng để tài trợ cho nhu cầu
phát triển của toàn nền kinh tế, những diễn biến tiêu cực của thu ngân sách mà chủ
yếu là từ việc thất thu thuế sẽ gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách.


7

Thứ hai, do ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Trong thời kỳ kinh tế khủng
hoảng hay suy thoái, thu nhập quốc gia sẽ có chiều hướng giảm, đồng thời nhu cầu
chi tiêu của chính phủ tăng lên để bù đắp lại các khó khăn của nền kinh tế và tạo
động lực để kinh tế quốc gia hồi phục, từ đó dẫn đến thâm hụt ngân sách tăng.
Ngược lại, ở giai đoạn nền kinh tế đang tăng trưởng hoặc ổn định, thu ngân sách
tăng cao trong khi các khoản chi liên quan đến đầu tư cơ sở hạ tầng và an sinh xã
hội ổn định hoặc có xu hướng giảm nên cán cân tài khóa của chính phủ được cải
thiện, hay nói cách khác thâm hụt ngân sách giảm.
Thứ ba, ngân sách chính phủ là công cụ mà chính phủ sử dụng để điều tiết
nền kinh tế (chính sách tài khóa). Trong dài hạn, chính sách tài khóa của chính phủ

có nhiệm vụ ổn định nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Do đó mà thu và chi
ngân sách chính phủ là một trong những công cụ chính sách quan trọng mà chính
phủ sử dụng để tác động vào nền kinh tế trong từng giai đoạn phát triển khác nhau.
Ví dụ khi sản lượng của nền kinh tế đang ở mức thấp dưới sản lượng tiềm năng
(tình trạng không toàn dụng nguồn lực kinh tế), chính phủ có thể tăng mức chi ngân
sách, chấp nhận gia tăng thâm hụt để tăng tổng cầu, qua đó thúc đẩy sản lượng gia
tăng. Đa số các quốc gia trên thế giới đều đối mặt với tình trạng thâm hụt ngân sách
(hay bội chi ngân sách). Các nước đang phát triển là các quốc gia có mức độ thâm
hụt tương đối lớn do nhu cầu về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
Trong một số giai đoạn, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao nhưng các nước
này vẫn chấp nhận một mức độ thâm hụt gia tăng qua các năm, thậm chí tốc độ gia
tăng cao hơn mức độ tăng trưởng kinh tế, để đảm bảo một sự tài trợ đầu tư phát
triển kinh tế xã hội lớn. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này. Đối với
các nước phát triển, chi ngân sách lại được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ
mô, chống lại các ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế như đã trình bày ở nguyên nhân thứ
hai. Đây là lý do mà thâm hụt ngân sách tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Thứ tư, các nguyên nhân bên ngoài như tình hình chính trị, thiên tai, dịch
bệnh. Các nguyên nhân bên ngoài này có thể tác động làm giảm các khoản thu ngân
sách hoặc gia tăng các nguồn chi tài trợ quân sự hay an sinh xã hội, qua đó gây ra


thâm hụt ngân sách chính phủ. Đối mặt với các nguyên nhân này, các chính phủ cần
có những dự báo và những phương pháp điều hành chính sách tài khóa linh hoạt
nhằm đảm bảo thâm hụt không vượt quá giới hạn khi nền kinh tế chịu ảnh hưởng
của các nhân tố khách quan tiêu cực.
Thứ năm, do các yếu tố kỹ thuật trong cơ cấu thu và chi ngân sách. Việc
phân loại các khoản mục thu – chi, phương pháp cân đối, thời điểm ghi nhận,
phương pháp hạch toán,…cũng tạo nên sự thay đổi trong thâm hụt ngân sách. Trong
nhiều trường hợp, do những quy định thông thường hay bất thường có chủ ý của
chính phủ, việc ghi nhận và phân loại các khoản mục thu, chi ngân sách thay đổi

làm tình trạng thâm hụt ngân sách trở nên tích cực hơn, tuy nhiên không phải do các
khoản thu ngân sách tăng, hay các khoản chi giảm (hoặc cả hai) mà do sự phản ánh
sai lệch của thu – chi lên tài khoản quốc gia hay việc chính phủ áp dụng phương
pháp tính toán thâm hụt không phù hợp. Các chính phủ có nhiều động cơ để sử
dụng các yếu tố kỹ thuật này để phản ánh một mức độ thâm hụt khả quan, mà một
trong số đó là để gia tăng cơ hội vay nợ nước ngoài và gia tăng mức độ tín nhiệm
của quốc gia.
1.1.3. Một số cách đo lường thâm hụt ngân sách
Như đã trình bày ở trên, thâm hụt ngân sách chính phủ có thể được tiếp cận
và nhìn nhận dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Để phản ánh được chính xác thực
trạng bức tranh tài khóa của chính phủ đòi hỏi phải sử dụng nhiều cách đo lường
thâm hụt ngân sách khác nhau. Việc sử dụng thước đo nào để phản ánh cán cân
ngân sách phụ thuộc vào mục tiêu của việc phân tích và điều hành chính sách tài
khóa trong từng giai đoạn. Mỗi thước đo sẽ phản ánh một khía cạnh nhất định của
ngân sách chính phủ và có ưu, nhược điểm riêng. Một số thước đo (chỉ số) thâm hụt
ngân sách thông thưởng được sử dụng để đo lường, đánh giá và phân tích chính
sách tài khóa được trình bày dưới đây:
a) Thâm hụt ngân sách tổng thể


9

Thâm hụt ngân sách tổng thể là thước đo được sử dụng phổ biến nhất. Thước
đo này cũng được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) khuyến nghị các quốc gia sử dụng để
xác định tình trạng mất cân bằng tài khóa. Theo Cẩm nang Thống kê tài chính
Chính phủ (GFS), thâm hụt ngân sách được xác định bằng chênh lệch giữa chi ngân
sách và thu ngân sách trong một thời kỳ nhất định, thông thường là một năm tài
khóa. Thâm hụt ngân sách tổng thể tồn tại trong trường hợp chi ngân sách lớn hơn
thu ngân sách, trường hợp ngược lại được gọi là thặng dư ngân sách.
Như đã trình bày ở phần Khái niệm, các khoản thu và chi ngân sách được

GFS mô tả rõ ràng và đầy đủ. Có một vấn đề cần lưu ý là chi trả lãi vay ngân sách
chính phủ được xếp vào chi ngân sách vì đây là hệ quả của việc điều hành chính
sách ngân sách thâm hụt. Đối với các khoản chi trả nợ gốc không đưa vào chi ngân
sách, vấn đề này phản ánh đúng bản chất thời điểm của việc ghi nhận cán cân ngân
sách, do việc chi trả các khoản nợ gốc được thực hiện trong dài hạn có sự khác biệt
về mức độ chi trả trong tương lai.
Về cơ bản, cách tính toán thâm hụt ngân sách của Việt Nam hiện nay vẫn
dựa chủ yếu vào định nghĩa về thâm hụt ngân sách tổng thể của GFS. Tuy nhiên
khác biệt lớn nhất lại nằm ở việc Việt Nam lại tính các khoản chi trả nợ gốc vào chi
ngân sách chính phủ, trong khi lại không tính toán một số các khoản chi khác vào
cân đối ngân sách như chi từ nguồn trái phiếu chính phủ. Điều này khiến cho mức
độ thâm hụt ngân sách của Việt Nam trên thực tế chiếm tỷ lệ khá lớn trên tổng sản
phẩm quốc nội, nếu so với một quốc gia tương đương về điều kiện và áp dụng đúng
cách tính thâm hụt tổng thể của GFS.
b) Thâm hụt ngân sách thường xuyên (Current deficit)
Thâm hụt ngân sách thường xuyên xảy ra khi các khoản chi thường xuyên
của chính phủ lớn hơn các khoảng thu thường xuyên. “Cán cân thường xuyên” là
thước đo phản ánh sự tích lũy của chính phủ cho nhu cầu đầu tư phát triển của quốc
gia. Nếu một quốc gia có thặng dư ngân sách thường xuyên thì có nghĩa là quốc gia
đó đang có nguồn tiết kiệm để sử dụng cho đầu tư phát triển. Theo thông lệ quốc tế,


thu thường xuyên được hiểu là các khoản thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí thường
niên, không mang tính chất “một lần”. Theo đó các khoản thu từ bán tài sản và tài
nguyên không được tính vào các khoản thu thường xuyên. Chi ngân sách thường
xuyên bao gồm tất cả các khoản chi của chính phủ (kể cả chi trả lãi vay) trừ chi đầu
tư phát triển và chi viện trợ. Khái niệm thâm hụt (hay thặng dư) ngân sách thường
xuyên rất có ý nghĩa trong việc phân tích tính bền vững của chính sách tài khóa.
Một quốc gia đối mặt với thâm hụt ngân sách thường xuyên dễ vấp phải các nguy
cơ bất ổn về tài chính. Tuy nhiên việc giảm thâm hụt ngân sách thường xuyên lại

vướng phải những khó khăn cụ thể. Trong nhiều trường hợp, chính phủ một quốc
gia muốn tháo gỡ tình trạng thâm hụt thường xuyên thường nhắm đến giải pháp cắt
giảm chi tiêu thường xuyên, tuy nhiên biện pháp này bao giờ cũng là vấn đề nhạy
cảm và dễ gây phản ứng tiêu cực từ dân chúng, hơn nữa các quốc gia có cơ cấu chi
thường xuyên chủ yếu để vận hành bộ máy hành pháp nên việc tinh giản bộ máy là
một vấn đề khó khăn. Chính vì vậy giải pháp cắt giảm chi tiêu thường xuyên thường
được sử dụng cuối cùng sau khi chính phủ ưu tiên thực hiện các biện pháp khác
nhưng không đạt hiệu quả (như gia tăng thuế, phí, lệ phí,…).
c) Thâm hụt ngân sách cơ sở (Primary fiscal deficit)
Thâm hụt ngân sách cơ sở được xác định bởi thâm hụt ngân sách tổng thể trừ
đi phần chi trả tiền lãi vay. Việc sử dụng thước đo này sẽ cung cấp các thông tin cụ
thể hơn về việc điều hành chính sách tài khóa của chính phủ. Các khoản chi trả lãi
vay là nghĩa vụ nợ có tính chất dài hạn và không gắn với các hoạt động tài chính
trong năm tài khóa của chính phủ (trừ các khoản vay ngắn thời hạn dưới 01 năm).
Đối với các quốc gia có tỷ trọng chi trả lãi vay lớn (các nước có dư nợ cao) thì việc
phân định giữa thâm hụt ngân sách tổng thể và thâm hụt ngân sách cơ sở là rất cần
thiết để tách biệt những biết động bất thường trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ
(do biến động tỷ giá hay biến động lãi suất đối với các khoản vay trả lãi theo lãi suất
thả nổi). Song song với việc sử dụng các khái niệm thâm hụt đã đề cập, sử dụng
thâm hụt ngân sách cơ sở sẽ giúp các nhà hoạch định có cái nhìn tổng quát hơn về
những tác động của thâm hụt ngân sách chính phủ. Trên thực tế, trường hợp cán cân


11

ngân sách tổng thể thâm hụt lớn không đồng nghĩa với thâm hụt ngân sách cơ sở lớn
mà vì các biến động kinh tế vĩ mô gây ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ nợ
của chính phủ.
Hiện nay, Việt Nam đang sử dụng thước đo thâm hụt ngân sách tổng thể,
thước đo tổng quát nhất trong

1.1.4. Các phương pháp xử lý thâm hụt ngân sách
Để tài trợ thâm hụt ngân sách, thông thường chính phủ có thể thực hiện một
trong những phương pháp hoặc kết hợp nhóm các phương pháp huy động các nguồn
lực.
Thứ nhất, phát hành tiền để tài trợ thâm hụt. Để bù đắp thâm hụt ngân sách,
một số quốc gia đã lựa chọn giải pháp phát hành thêm tiền mặt vào lưu thông. Đây
là biện pháp giúp chính phủ có thể huy động kịp thời nguồn vốn để cân đối ngân
sách mà không làm gia tăng nghĩa vụ nợ. Tuy nhiên, việc phát hành tiền của chính
phủ cũng đồng nghĩa với việc làm giảm giá trị của đồng nội tệ đang được lưu thông.
Một cách gián tiếp, chính phủ đã vô tình đánh một loại thuế lên người dân đang
nắm giữ tiền, còn gọi là “thuế lạm phát”. Trong trường hợp này, lạm phát có thể
tăng cao trong nền kinh tế, vì thế hầu như các quốc gia trên thế giới ít khi sử dụng
biện pháp phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách do có thể dẫn đến nguy cơ
lạm phát cao, gây bất ổn cho nền kinh tế.
Thứ hai, chính phủ có thể huy động các nguồn lực từ bên ngoài để tài trợ cho
cán cân ngân sách mất cân bằng, mà cụ thể là vay nợ. Đây là giải pháp được các
quốc gia trên thế giới ưu tiên sử dụng. Có hai hình thức vay nợ được sử dụng là vay
nợ nước ngoài và vay nợ trong nước.
- Vay nợ nước ngoài là hình thức vay nợ mà chính phủ có thể thực hiện bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường tài chính quốc tế hoặc thu hút
các nguồn vốn vay viện trợ phát triển chính thức (ODA). Việc sử dụng một phần
vốn vay nước ngoài để tài trợ thâm hụt ngân sách có thể làm giảm bớt căng thẳng
trên thị trường tín dụng nội địa, qua đó hạn chế được tình trạng chèn lấn hay lấn át


đầu tư của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, vay nợ và huy động các nguồn vốn từ quốc
tế phải chịu những ràng buộc nhất định. Những ràng buộc này liên quan đến điều
kiện của chủ thể vay nợ, sự tín nhiệm của quốc tế, rủi ro tỷ giá và lãi suất (nếu lãi
suất vay theo lãi suất thả nổi). Bên cạnh đó, nếu sử dụng những khoản vay không
hiệu quả, nền kinh tế phải đối mặt với áp lực trả nợ trong tương lai, trong khi cơ sở

hạ tầng trong tương lai lại không đáp ứng kịp đà tăng trưởng dự kiến khiến nền kinh
tế càng khó khăn hơn trong việc chi trả các khoản nợ. Vấn đề này được gọi là “gánh
nặng nợ cho thế hệ tương lai”. Nếu các chính phủ không có những động thái quản
lý và sử dụng hợp lý các khoản vay nợ này, tình trạng bất ổn tài chính và khả năng
vỡ nợ có thể diễn ra trong tương lai.
- Vay nợ trong nước là hình thức chính phủ huy động nguồn vốn trong nền
kinh tế thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường tài chính trong
nước. So với việc vay nợ nước ngoài, vay nợ trong nước là hình thức dễ thực hiện
hơn và tránh được các ràng buộc cũng như rủi ro liên quan đến quốc tế và thị trường
ngoại hối. Tuy nhiên nguồn lực vay của chính phủ lại bị giới hạn bởi nguồn lực tiết
kiệm của khu vực tư nhân, thậm chí việc chính phủ huy động vốn từ nền kinh tế có
thể làm giảm đà tăng trưởng của quốc gia. Cơ chế gây nên vấn đề kể trên được gọi
là hiệu ứng chèn lấn đầu tư tư nhân (crowding-out effect), thể hiện qua việc vay nợ
của chính phủ làm lãi suất huy động trên thị trường vốn gia tăng. Đây là một vấn đề
mà chính phủ các quốc gia đều phải quan tâm nếu không muốn chiếc bánh kinh tế
của mình bị thu hẹp để bù đắp cho việc mất cân bằng ngân sách.
Thứ ba, bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách vay từ nguồn dự trữ ngoại hối
của ngân hàng trung ương. Phương thức này được sử dụng rất hạn chế và trong
trường hợp đã huy động từ các phương thức khác nhưng vẫn khó khăn. Nguyên do
của việc hạn chế sử dụng phương pháp này là vì nó có khá nhiều nhược điểm, mà
rủi ro chính là việc sụt giảm dự trữ ngoại hối sẽ đẩy quốc gia vào tình trạng báo
động khi có các cú sốc trên thị trường ngoại hối, đặc biệt là các quốc gia điều hành
tỷ giá theo cơ chế tỷ giá cố định có can thiệp của chính phủ. Bên cạnh đó, một quốc


13

gia có dự trữ ngoại hối thấp cũng đồng thời đối mặt với nguy cơ bị tấn công tiền tệ
gây nên khủng hoảng kinh tế, ví dụ là trường hợp của Thái Lan năm 1997.
Tóm lại, có ba phương pháp thông thường để bù đắp cho thâm hụt ngân sách

chính phủ, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng biệt, tuy nhiên điểm
chung của các phương pháp tài trợ này là đều có khả năng gây ra các bất ổn nhất
định cho nền kinh tế. Theo thứ tự ưu tiên, các quốc gia khi muốn tài trợ cho sự mất
cân bằng cán cân ngân sách có thể sử dụng các phương thức là vay nợ nước ngoài,
vay nợ trong nước, phát hành tiền mặt và cuối cùng là vay nợ từ dự trữ ngoại hối
của quốc gia.
1.2. Lý thuyết về tăng trƣởng kinh tế
Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (Gross
Domestic Products - GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products
- GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu
người (Per Capita Income - PCI). Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng sản sản
phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định
(thường là một năm tài khóa). Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) là giá trị tính bằng
tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước
trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc gia bằng
tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình
quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay
đổi về lượng của nền kinh tế. Hay nói cách khác, tăng trưởng là kết quả của việc sử
dụng nguồn lực kinh tế của quốc gia để tạo ra giá trị thặng dư của hàng hóa và dịch
vụ.
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát
triển kinh tế phải được xây dựng trên bốn trụ cột, hay bốn nhân tố của tăng trưởng


kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, vốn hiện kim và công nghệ. Bốn nhân
tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa
đến kết quả tương ứng.

Thứ nhất, nguồn nhân lực. Chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng,
kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng
kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tiền, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể
mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự.
Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể
phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe
và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến
tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những
nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế
một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tiền và tài sản của
nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực
của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã
phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ
không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến”.
Thứ hai, nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên là một trong
những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng
sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan
trọng để phát triển kinh tế, có những quốc được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng
dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như
các quốc gia dầu mỏ (UAE). Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ
không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không
quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có
tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao
động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về
quy mô.


15

Thứ ba, vốn vật chất. Vốn vật chấ là một trong những nhân tố sản xuất, tùy

theo mức độ đầu tư mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết
bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp.
Để có được vốn vật chất, quốc gia phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng
cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc
gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền
vững. Tuy nhiên, vốn vật chất không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho
sản xuất nó còn là cơ sở vật chất cố định của nền kinh tế, những thứ tạo tiền đề cho
sản xuất và thương mại phát triển. Những tài sản cố định của nền kinh tế thường là
những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất
tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất
(đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
Thứ tư, sự phát triển khoa học công nghệ. Trong suốt lịch sử loài người, tăng
trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép đơn giản, là việc đơn thuần chỉ
tăng thêm lao động và vốn vật chất, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi
công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư
bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn.
Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến nhanh chóng, góp
phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần
túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh
chóng được là nhờ sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo
vệ và được trả phí bản quyền một cách xứng đáng.
1.3. Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trƣởng kinh tế
Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế là một chủ đề phức
tạp và tồn tại khá lâu trong các lý thuyết kinh tế, nghiên cứu thực nghiệm và trong
hoạch định kinh tế. Các chính phủ tài trợ tình trạng thâm hụt trong ngân sách của họ
bằng cách phát hành các chứng khoán hoặc gia tăng thuế suất hoặc cơ sở tính thuế


hay thông qua phát hành tiền. Một số chủ thể kinh tế có lý trí cho rằng một sự thâm

hụt hôm nay hàm ý một sự gia tăng thuế trong tương lai, và họ quyết định gia tăng
tiết kiệm trong hiện tại để trung hoà thuế phải trả trong tương lai. Tuy nhiên vài chủ
thể kinh tế có thể bị ảo giác tài khóa hoặc đơn giản là không bị ảnh hưởng gì từ thuế
suất cao hơn trong tương lai. Bernhein (1989) giới thiệu một kết luận vắn tắt về tác
động của thâm hụt dựa trên cả 3 trường phái tương đương nhau là Tân cổ điển,
Keynesian và Ricardian. Theo trường phái Tân cổ điển, các cá thể đang kế hoạch
hóa chi tiêu của họ dựa theo vòng đời. Bằng cách chuyển gánh nặng thuế cho thế hệ
tương lai, thâm hụt ngân sách gia tăng tiêu dùng trong hiện tại. Hơn nữa bằng cách
giả định toàn dụng nguồn lực làm tăng tiêu dùng gợi ý cho một sự giảm tiết kiệm và
lãi suất sẽ tăng để đem đến sự cân bằng trong thị trường vốn. Lãi suất cao hơn, sẽ
thể hiện kết quả dần vào việc đầu tư tư nhân giảm. Trong khi đó trường phái
Keynesian đưa ra luận cứ ủng hộ từ hiệu ứng số đông bằng cách sử dụng các tài liệu
nhằm mở rộng nghiên cứu tác động của thâm hụt ngân sách. Các Keynesian tin rằng
thâm hụt ngân sách là kết quả của sự gia tăng sản xuất nội địa, khiến cho các nhà
đầu tư tư nhân lạc quan về tình hình kinh tế trong tương lai và gia tăng đầu tư của
họ nhiều hơn. Tác động này ngược với tác động chèn ép đầu tư tư nhân, hay còn gọi
là tác động lan tỏa đầu tư (crowding-in).
Các nhà kinh tế theo trường phái Keynesian truyền thống cho rằng có thể có
sự khác biệt từ các luận điểm Tân cổ điển vì hai lý do chính. Đầu tiên các nguồn lực
có thể không được tận dụng hết. Thứ hai, nó thừa nhận sự tồn tại của một số lượng
lớn các thanh khoản cá nhân bị đóng băng. Giả định thứ hai đảm bảo tổng cầu rất dễ
thay đổi trong điều kiện thu nhập sẵn có. Do đó, nhiều nhà kinh tế theo trường phái
Keynes truyền thống cho rằng thâm hụt có thể không lấn hất đầu tư tư nhân.
Theo mô hình Tân cổ điển, ngay cả khi thâm hụt ngân sách có một tác động
ngược đến tiết kiệm quốc gia, nó vẫn không làm giảm sản lượng một cách lâu dài,
vì trong những mô hình này, tăng trưởng kinh tế dài hạn bị dẫn dắt bởi các tiến bộ
công nghệ, biến số được giả định là ngoại sinh. Mức tiết kiệm quốc gia thấp sẽ là
kết quả của một tỷ suất vốn trên lao động thấp. cái giá phải trả cho sự sụt giảm chi



17

phí sản xuất biên của vốn, sẽ dẫn đến một mức lãi suất cao hơn. Một tỷ suất vốn
trên lao động thấp hơn cũng sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp hơn và do đó cũng
dẫn đến một tỷ suất tiền lương thực thấp hơn.
Đối lập với các lập trường của mô hình Tân cổ điển về tác động của thâm hụt
ngân sách, mô hình tăng trưởng nội sinh đưa tiến bộ công nghệ trở thành một biến
số nội sinh cho tăng trưởng (Barro và Sala-i-Martin, 1995). Những mô hình này dựa
vào sự định nghĩa mở rộng của vốn, kết hợp các yếu tố tích cực bên ngoài của tích
lũy vốn (ví dụ, vừa làm việc vừa học hỏi hoặc tiến bộ công nghệ được dẫn dắt bới
những công nghệ ẩn chứa trong nguồn vốn mới). Kết quả là, trong nhiều mô hình
tăng trưởng nội sinh, một giả định sự giảm hiệu suất biên của vốn được thay thế
bằng một giả định của hiệu suất biên không đổi. Điều này cho phép sự thay đổi
trong tỷ lệ tăng trưởng được dẫn dắt bởi sự thay đổi trong tiết kiệm quốc gia và diễn
ra trong thời gian dài.
Đề cập đến những tác động của thâm hụt ngân sách chính phủ đến tăng
trưởng kinh tế, Laurence Ball và Mankiw (1995) trong bài viết “What do budget
deficits do?” đã nêu ra luận điểm rằng khởi đầu của các tác động của thâm hụt ngân
sách đến sức khỏe của nền kinh tế là thông qua một chỉ số kinh tế được gọi là tiết
kiệm quốc gia. Tiết kiệm quốc gia được hiểu là tổng thể của số thu ngân sách chính
phủ tiết kiệm được sau khi đã thực hiện các khoản chi tiêu và tổng tiết kiệm của khu
vực tư nhân. Tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ kéo theo sự sụt giảm trong tiết kiệm
quốc gia và thông qua đó giảm các khả năng đầu tư và tăng trưởng. Tuy nhiên khi
cán cân ngân sách có sự thay đổi thì chiều hướng của tác động là rất phức tạp. Để
tìm hiểu kỹ hơn về tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế mà
trước hết là thông qua việc ảnh hưởng đến tiết kiệm quốc gia, chúng ta cùng xem
xét chi tiết hơn
1.3.1. Tác động ngắn hạn của thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách có nhiều tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô. Nhưng
tất cả các tác động của thâm hụt ngân sách đều khởi nguồn từ một hiệu hứng duy



×