Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.28 KB, 18 trang )

THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THÂM
HỤT NGÂN SÁCH VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

I.THÂM HỤT NGÂN SÁCH
1.

.Khái niệm thâm hụt NSNN:
- Thâm hụt ngân sách nhà nước hay còn gọi là bội chi NSNN là tình trạng
khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu “không
mang tính hoàn trả” của ngân sách nhà nước.
- Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ
tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách
nhà nước.Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc
tiêu cực đến nền kinh tế một đất nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian
thâm hụt. (theo luật ngân sách nhà nước năm 2002)

-

-

*Phân loại: Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành
hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
-Thâm hụt ngân sách cơ cấu : là các khoản thâm hụt được quyết định bởi
những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp
bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
-Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng
của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu
nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ
dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho
cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kì được tính toán


như sau:
Thâm hụt ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính
bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một
năm).
Thâm hụt ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ
sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và
ngân sách cơ cấu.


2.

Thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam

Qua thống kê cho thấy, trong những năm gần đây, tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt
Nam luôn nằm ở ngưỡng 5% GDP và có xu hướng tăng lên. Đây là một tỉ lệ cao.
Riêng năm 2009 tỉ lệ thâm hụt ngân sách đã lên tới 6,9% GDP. Tốc độ tăng thâm
hụt ngân sách cũng là khá cao từ 17-18%. Cụ thể năm 2006 mức thâm hụt là vào
khoảng 48,5 nghìn tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên tới 56,5 nghìn tỷ đồng. Và
theo kết quả công bố Dự toán NSNN năm 2010 và 2011 thì tỉ lệ thâm hụt ngân
sách lần lượt sẽ là 6,2% GDP và 5,3% GDP, có giảm so với năm 2009 nhưng vẫn
còn ở mức cao. Ngoài ra, những khoản chi ngoài ngân sách trong mấy năm gần
đây lên tới 20-25% tổng ngân sách nhà nước- tỉ lệ rất cao.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm

Số Bội
chi

Bội chi so

với GDP

200
1

25.885

4,67%

200
2

25.597

4,96%

200
3

29.936

4,9%

200
4

34.703

4,85%


200
5

40.746

4,86%

200
6

48.500

5%

200
7

56.500

5%

200
8

66.200

4,95%


200

9

142.355

6,9%

201
0

119.700

6,2%

Đến năm 2011, giảm xuống còn 5,5%. tính đến 15-9-2012, Bội chi ngân sách trong
9 tháng đầu năm đã chiếm trên 6% GDP. Con số thâm hụt ngân sách của Việt Nam
thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực thể hiện rõ trong biểu đồ dưới
đây:

3. Nguyên nhân dẫn đến thâm hụt NSNN.
-

-

Nguyên nhân khách quan:
 Diễn biến bất thường của chu kì kinh doanh, hiệu quả thấp của nền
sản xuất xã hội, sự kém hiệu quả của các mối quan hệ kinh tế với
bên ngoài
 Địch họa, thiên tai, tình hình bất ổn chính trị
Nguyên nhân chủ quan:
 Quản lí và điều hành NS bất hợp lí






Do nhà nước chủ động sử dụng thâm hụt NSNN như một công cụ
sắc bén của chính sách tài khóa
Do cách đo lường thâm hụt

-Nguyên nhân thực tế ở Việt Nam: Thâm hụt ngân sách do rất nhiều nguyên
nhân, và có sự ảnh hưởng khác nhau đến sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ
bản, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước gồm các nguyên nhân chính sau:
1/ Thất thu thuế nhà nước
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các
nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…tuy
nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo
kẻ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng
kể cho ngân sách nhà nước…điển hình, trong năm 2008 lượng thuốc lá nhập lậu
vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi của ngân sách nhà nước 2.500- 3000 tỉ
đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập lậu còn làm chảy máu ngoại tệ của đất nước
khoảng 200 triệu USD/năm, làm gia tăng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh
nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên,việc
miễn thuế, giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách
khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước.
2/ Đầu tư công kém hiệu quả
Trong 2 năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên
ngoài. Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng
điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, tình

trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt
để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả,
đã gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước và kiềm hãm sự phát triển của các vùng
miền, là nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả.
Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên


trầm trọng.
3/ Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ,
miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu
một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm
hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP
4/ Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi
ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ
chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân
cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự
toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi
bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi
hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình,
làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách.Để
có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ
sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
5/ Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn.
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong
ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài
chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát

đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Lý thuyết kinh tế không
chỉ ra một cách rõ ràng về hướng tác động chi tiêu của chính phủ đối với tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu của
chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế
do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt ngân sách
nhà nước và cuối cùng là gây ra lạm phát.


6/ Bên cạnh đó, sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng
như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về
nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số
thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân
sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương
với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép
chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp
dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn
trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ
số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm
và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát
triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
II.TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH TỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
1)Tác động thâm hụt ngân sách tới lạm phát


Chính phủ có thể trang trải thâm hụt ngân sách bằng một trong 2
cách: bán trái phiếu cho công chúng hoặc tạo ra tiền tệ, cũng được
gọi là in tiền( phát hành tiền(
 Bán trái phiếu không có ảnh dưởng trực tiếp đến tổng cầu và

sẽ không có hậu quả lạm phát. Tuy nhiên, ở các nước đang
phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành
trái phiếu chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt ngân sách
nhà nước là rất khó thực hiện. Ở các nước có nền kinh tế lớn
như ở Mỹ, thị trường vốn phát triển, vì vậy một lượng trái
phiếu lớn có thể được bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm
hụt ngân sách nhà nước được thực hiện từ nguồn vốn vay
của chính phủ. Nhưng nếu chính phủ cứ tiếp tục phát hành
trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó, lãi
suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường,
Ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các trái phiếu đó,
điều này lại làm cho cung tiền tăng.




Phát hành tiền trực tiếp làm tăng cơ số tiền tệ, do đó làm
tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ
lạm phát.

Thực tế ở Việt Nam trong 2 năm gần đây, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã khá cao
so với các nước trên thế giới. Lạm phát cao so với thế giới của Việt Nam không
chỉ diễn ra trong năm 2011 mà còn cả ở những năm trước đó. Theo số liệu của
IMF (2011a), Việt Nam có tỷ lệ lạm phát trung bình của giai đoạn 20012005 (5,35%) đứng thứ 67 thế giới và của giai đoạn 2006-2010 (11,5%) đứng
thứ 24 thế giới. Năm 2010, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam là 11,75%, trong khi đó tỷ
lệ lạm phát của Trung Quốc là 4,7%, của Malaysia là 2,08%, của Thái Lan là
3,05%. Tỷ lệ lạm phát năm 2011 của Việt Nam tiếp tục được dự báo cao hơn
đáng kể so với nhiều nước trong khu vực (IMF, 2011)
Năm
Tốc độ

tăng
GDP
Chỉ số
lạm
phát

200
0
6,8

200
1
6,9

200
2
7,08

200
3
7,34

200
4
7,79

200
5
8,44


200
6
8,23

200
7
8,46

2008

200
9
5,32

2010

0,6

0,8

4

3

9,5

8,4

6,6


12,6

19,89 6,52

11,75

6,31

6,78

Bảng 1: Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ số liệu tổng hợp ở trên cho thấy hệ số tương quan (correlation - r)
giữa chỉ số lạm phát CPI và GDP là âm (r= -0,426). Điều đó có nghĩa là
95,7% số liệu trên Bảng 1 cho thấy khi lạm phát tăng 1% sẽ đẩy tăng trưởng
kinh tế tăng chậm lại 0,42% và ngược lại. Như vậy, nếu muốn tăng tốc độ
tăng trưởng kinh tế, Việt Nam phải thực hiện nhiều biện pháp nhằm kiềm
chế lạm phát.
Xét về nguyên nhân gây ra lạm phát thời gian qua, hiện nay cũng có một số
ý kiến cho rằng thâm hụt ngân sách là một trong những nguyên nhân gây ra
tình trạng lạm phát cao trong những năm gần đây. Tuy nhiên, lạm phát
ở Việt Nam được cho là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,


trong đó nguyên nhân tiền tệ dường như đang nhận được sự đồng
thuận.Lạm phát cao của Việt Nam trong một thời gian dài thường được giải
thích là do giá thế giới biến động nhưng thực tế, song dường như cách lập
luận này thiếu thuyết phục khi lạm phát của các nước đang phát triển cũng
chịu các tác động tương tự như nước ta nhìn chung có xu hướng giảm và
không ở mức cao như nước ta. Gần đây, tốc độ lạm phát trung bình của các
nước này luôn dưới hai con số. Đó cùng là lý do mà một số nghiên cứu đã

cho rằng chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức chính là nguyên nhân gây ra áp
lực lạm phát của Việt Nam những năm gần đây

2.Tác động thâm hụt ngân sách tới lãi suất




Thâm hụt làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Sau
nữa, thâm hụt sẽ tác động đến tâm lí công chúng về gia tăng lạm phát
và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất.
Trên một giác độ khác, thông thường khi bội chi ngân sách tăng, chính
phủ thường phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị
trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi suất thị
trường vì vậy mà tăng lên. Hơn nữa, tài sản có của các ngân hàng
thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ
vượt quá giảm, lãi suất cũng sẽ tăng

Việt Nam hiện nay, có những lập luận cho rằng thâm hụt ngân sách kéo dài
những năm gần đây là nguyên nhân góp phần đẩy lãi suất trên thị trường lên.
Thực tế với tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài thì việc “cạnh tranh” về vốn
giữa khu vực Nhà nước và tư nhân ở Việt Nam thời gian qua là hoàn toàn có thể
xảy ra.
Đó là chưa tính đến yếu tố trong những năm gần đây bên cạnh nguồn vốn huy
động để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ còn thực hiện vay nợ qua phát hành
trái phiếu để đầu tư cho một số công trình giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục....
Trên phương diện lý thuyết thì việc mở rộng chi tiêu và đầu tư của Chính phủ có
thể gây ra hiệu ứng “thế chỗ” cho vốn tư nhân hay nói cách khác thay vì sở hữu cổ
phiếu, trái phiếu công ty, người dân chuyển sang sở hữu trái phiếu Chính phủ. Điều
này ít nhiều gây áp lực đến lãi suất



Tuy nhiên, trên thực tế mức độ tác động của nhu cầu huy động vốn của
Chính phủ đối với lãi suất trên thị trường đến đâu cũng cần phải xem xét trên
nhiều phương diện.

Diễn biến của Hình 15 cho thấy rất khó chỉ ra được một mối quan hệ chắc chắn
giữa mức thâm hụt ngân sách trên thị trường với lãi suất vì thực tế có những giai
đoạn mà hai biến số này diễn biến trái chiều nhau. Tuy nhiên, điều này cũng
không đồng nghĩa với việc là việc tăng nhu cầu huy động vốn của chính phủ
không tác động đến lãi suất trên thị trường. Thông thường tác động của việc huy
động vốn của Chính phủ đối với lãi suất trong nước phụ thuộc đáng kể vào cách
thức và phương thức huy động vốn cũng như chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Hơn nữa khi thâm hụt ngân sách mà kéo theo lạm phát thì ngay lập tức lạm phát sẽ
ảnh hưởng đến lãi suất. Để duy trì và ổn định sự họat động của mình, hệ thống
ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản
có của mình, tức là luôn luôn giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng, lãi suất


thực =lãi suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát. Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăgn cao, nếu
muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm
phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh
chịu đó là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.

3.Tác động của thâm hụt ngân sách tới cán cân thương mại
Hiệu số giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong khoản giao dịch còn gọi là cán
cân thương mại. Các hoạt động xuất và nhập khẩu hàng hóa không chỉ
được đánh giá thông qua số lượng mà còn được đánh giá thông qua tỷ lệ trao
đổi. Tỷ lệ trao đổi ở đây là tỉ số giữa giá hàng xuất khẩu của một nước và giá

hàng nhập khẩu của bản thân nước đó. Như vậy, nếu như giá xuất khẩu tăng
lên một cách tương đối so với hàng nhập khẩu thì cán cân thương mại sẽ
được tăng cường theo hướng tích cực và ngược lại (nếu như khối lượng hàng
hóa không đổi).
Như ta đã phân tích ở trên, tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ làm cho lãi suất
thị trường tăng. Lãi suất tăng làm cho giá trị đồng nội tệ tăng giá, giá hàng
hóa trong nước theo đó cũng tăng làm giảm lượng hàng xuất khẩu. Trong
khi tương ứng, hàng hóa của đất nước khác sẽ rẻ tương đối so với nước đó,
dẫn tới tăng hàng nhập khẩu. Vì vậy, thâm hụt ngân sách sẽ gây ra tình trạng
nhập siêu: Nhập vào lớn hơn xuất ra, việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong
nước bị hạn chế, sản xuất gặp nhiều khó khăn tác động không ít tới sự tăng
trưởng kinh tế.
Việt Nam:
Trong những năm gần đây, thâm hụt thương mại của Việt Nam đã trở thành
một vấn đề thách thức đối với công tác quản lý vĩ mô.
Có thể thấy nhập siêu không phải là vấn đề mới đối với Việt Nam
trong khoảng 20 năm qua. Suốt giai đoạn này, chỉ có duy nhất một năm Việt
Nam có được thặng dư thương mại, đó là năm 1992. Hầu như cán
cân thương mại luôn ở trạng thái thâm hụt, có chăng chỉ khác nhau về
mức độ thâm hụt. So với nhiều nước trong khu vực thì tỷ lệ giữa mức
thâm hụt thương mại so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam những


năm gần đây là khá cao.

Là một quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hoá, việc cán cân thương
mại luôn ở trạng thái nhập siêu trong thời kỳ đầu có thể xem là cần thiết.
Tuy nhiên, nhập siêu sẽ trở thành vấn đề vĩ mô đáng quan ngại nếu như
kéo dài quá lâu và liên tục tăng nhanh. Mất cân đối bên ngoài sẽ không thể
tránh khỏi khi mức nhập siêu tăng quá cao và không được bù đắp bởi các

nguồn vốn ổn định.


Thực tế trong giai đoạn 2001-2010, trong khi mức thâm hụt ngân sách có sự
biến động không lớn (chủ yếu xoay quanh mức 5% GDP, ngoại trừ hai năm
gần đây) song tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu có sự biến động
khá lớn, trong đó có những năm lên mức khá cao, ví dụ năm 2007 và 2008
lên đến mức gần 30% kim ngạch xuất khẩu. Điều đáng lưu ý là trong
hai năm 2009 và 2010, trong khi mức thâm hụt ngân sách (tính theo cả hai
phương pháp) tăng thì mức thâm hụt thương mại lại có xu hướng giảm.
Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách tăng nó sẽ làm cho lãi suất trong
nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ
nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho giá trị thực của đồng nội tệ tăng
lên và làm giảm xuất khẩu ròng. Trên thực tế mặc dù những năm gần đây
tỷ giá danh nghĩa tuy có tăng lên song tỷ giá thực giữa VND và USD lại có
chiều hướng giảm hay nói cách khác đồng Việt Nam lên giá so với USD. Tỷ
giá thực giảm đồng nghĩa với việc nhập khẩu được lợi thế trong khi xuất


khẩu gặp khó khăn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến thâm
hụt thương mại tăng mạnh. Tuy nhiên, sự lên giá của đồng Việt Nam
trong thời gian qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
III. CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC THÂM HỤT NGÂN SÁCH
1.Phát hành tiền:
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có thể tài trợ số thâm hụt của mình
bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh tế
đất nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng thì
việc tài trợ số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở
sẽ góp phần thực hiện những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tế thông
qua việc đưa nền kinh tế tiến đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm

phát.
Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế cao hơn mức
sản lượng tiềm năng ) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm hụt của mình bằng
cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như vậy sẽ càng kích tổng cầu lên cao và đẩy
sản lượng thực tế vượt xa mức sản lượng tiềm năng, hậu quả là làm tăng lạm phát.
Ưu điểm:
Nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cách
nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ
nần.
- Nhược điểm:
Tài trợ thâm hụt ngân sách theo phương pháp này thì xu hướng sẽ tạo ra một
tổng cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tăng nhanh .




2. Vay nợ
a,Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái,
trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của Nhà nước, là
một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay dân cư, các tổ
chức kinh tế- xã hội và các ngân hàng.
-

Ưu điểm:












Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách
mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện
pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư,tránh được nguy
cơ khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai.
- Hạn chế :
Chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nền kinh tế do giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp
cận tín dụng và gây sức ép tăng lãi suất trong nước.
Tuy không gây lạm phát trước mắt nhưng có thể gây áp lực lạm phát trong
tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng.
Việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ khi
những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu cho các
dự án đầu tư có sức sinh lời).

b, Vay nợ nước ngoài
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông
qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ
nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên
chính phủ, tổ chức quốc tế...
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên
chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực
hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là

nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng
ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...
Ưu điểm:
Là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp được
các khoản thâm hụt mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế.
Là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Nhược điểm:







Việc vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng
lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ.
Dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí,
nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều
khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc
nhiều.

3. Tăng thuế:
Nhà kinh tế học Mỹ-Laffer (thập kỷ 70 ) đã đồ thị hoá hai tác động trái ngược
nhau của việc tăng thuế thu nhập tuỳ theo mức thuế suất áp dụng.



Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu ngân

sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế
suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn mức tối
ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách chỉ giảm đi. Hàm
ý của đường cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì giảm thuế
suất sẽ có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuyến khích khu vực tư
nhân hăng hái đầu tư.
- Ưu điểm:
Khi còn trong vùng có thể chịu đựng được,tăng thuế suất thuế thu nhập sẽ
làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các đối
tượng mở mang các hoạt động kinh tế,tăng khả năng sinh lời,một phần nộp






ngân sách nhà nước,còn lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng
thuế thu nhập có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Nhược điểm:
Khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng thuế suất trực thu sẽ
làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước và thúc đẩy trốn thuế
,lậu thuế.
Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng
thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế,
phụ thuộc vào hiệu quả của hệ thống thu, phụ thuộc vào hiệu suất của từng
sắc thuế. Trong thời kì nền kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì
tăng thuế không những không khả thi mà còn cản trở hoạt động sản xuất
kinh doanh, trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp,
đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm
nguồn thu ngân sách.


4.Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với
mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các
khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu
quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự
án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác,
bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường
xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này
không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Xét theo góc độ kinh tế học,cắt giảm chi tiêu với hy vọng giảm tổng chi
nhằm giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước là một biện pháp ‘tiêu cực’.
Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên,bao gồm cả chi lương ,chi mua sắm
trang thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính,thậm chí sẽ trì hoãn hoặc cắt giảm
đầu tư phát triển.
5.Dự trữ ngoại hối:
Quỹ dự trữ ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng TW hoặc cơ quan hữu trách
tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ dưới dạng ngoại tệ nhằm thanh


toán hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia. Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ
ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách.
-

Ưu điểm:
 Dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh được khủng hoảng
Nhược điểm:
 Tiềm ẩn nhiều rủi ro, cần hạn chế vì nếu áp dụng không tốt thì khu
vực tư nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia hết sức
mỏng mảnh, sự mất niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể

can thiệp và thị trường ngoại hối có thể dẫn đến một dòng vốn ồ ạt
chảy ra bên ngoài, làm cho đồng nội tệ giảm mạnh giá và làm tăng
sức ép lạm phát. Kết hợp với vay nợ, biện pháp này sẽ khiễn cho tỷ
giá hối đoái tăng, làm suy yếu sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa
trong nước.

IV. GIẢI PHÁP TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY:
Có nhiều giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân sách như: biện pháp tăng thu giảm
chi, vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài, sử dụng dự trữ ngoại tệ, phát hành tiền
song mỗi giải pháp đều có những tác dụng phụ đến nền kinh tế. Để khắc phục tình
trạng thâm hụt NSNN cần phải kết hợp nhiều biện pháp với mức độ thích hợp.
Điều này đòi hỏi nghệ thuật quản lí vĩ mô sao cho vừa hạn chế và trung hòa các
mặt tiêu cực, đẩy mạnh mặt tích cực nhằm hạn chế những tác động xấu đến các
mục tiêu kinh tế vĩ mô.
V. KẾT LUẬN:
Thâm hụt ngân sách là nhà nước là một vấn đề đau đầu của mỗi quốc gia, trong đó
có Việt Nam. Thâm hụt NSNN chính là nguyên nhân gây nên tác động tiêu cực tới
đời sống người dân và làm mất cân bằng vĩ mô nền kinh tế: thoái lui đầu tư, thâm
hụt cán cân thương mại… Bên cạnh đó, nó còn có mối liên quan chặt chẽ đến hiện
tượng lạm phát. Do đó, việc nghiên cứu kỹ về thâm hụt NSNN là hết sức cần thiết.
NSNN là một công cụ điều tiết vĩ mô rất hiệu quả và quan trọng. Thông qua đó mà
nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình như điều tiết hướng dẫn thị
trường, định hướng đầu tư, đảm bảo công bằng xã hội, ổn định và tăng trưởng kinh
tế.


Thực tế trong những năm gần đây, mức độ thâm hụt NSNN ở Việt Nam đang ở
mức đáng báo động( ở ngưỡng 5% GDP) và có phần cao hơn so với các nước trong
khu vực. Hiện nay nhà nước vẫn đang đưa ra những giải pháp tối ưu nhàm kìm chế
lạm phát và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.




×