Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Khảo sát tình hình thiếu máu của bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.64 KB, 34 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BN

: Bệnh nhân

CS

: Cộng sự

Hb

: Hemoglobin

HC

: Hồng cầu

HST

: Huyết sắc tố

Ht

: Hematocrit

PNCT

: Phụ nữ có thai

UNICEF



: United Nation Children’s Fund
(Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc)

WHO

: World Health Organization
(Tổ chức Y tế Thế giới)

1


Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã nhận được sự hướng dẫn
trực tiếp của cô giáo, thạc sĩ: Lưu Thị Thu Phương Khoa Sinh học
và Bác sĩ Phạm Hà Khoa Huyết Học - truyền máu Bệnh viện Đa
khoa Sơn Tây cùng với sự giúp đỡ của các Khoa Vi sinh, Hóa sinh
đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, anh chị ở bộ môn Sinh
lý học trường Đại học Khoa học Tự nhiên Đại học Quốc Gia Hà Nội
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình, đã
chia sẻ giúp đỡ động viên tôi học tập nghiên cứu và đã giúp đỡ tôi
rất nhiều trong quá trình thực hiện khoá luận này.
Do trong quá trình nghiên cứu đề tài các thông tin, số liệu chưa
được sâu sắc, nên còn hạn chế và thiếu sót. Qua bản luận văn này
em rất mong được sự góp ý, phê bình và sự giúp đỡ của hội đồng
chấm thi, của các thầy cô giáo cũng như các bạn quan tâm đề tài
này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2009

Vũ Thị Hồng Thu

2


MỞ ĐẦU

Y học ngày càng phát triển và đạt được rất nhiều tiến bộ cũng như thành tựu
trong lĩnh vực phục vụ sức khỏe con người. Song cho đến nay vẫn chưa có sản
phẩm nào thay thế được máu. Không có máu con người không thể tồn tại được. Khi
bị thiếu máu hoặc các bệnh liên quan đến máu sẽ để lại nhiều hậu quả khác nhau, có
thể chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ của mỗi người nhưng có khi còn ảnh hưởng đến
kinh tế của cộng đồng xã hội. Thiếu máu và các bệnh lý thiếu máu do nhiều nguyên
nhân khác nhau như thiếu máu do dinh dưỡng, suy tuỷ, mất khối lượng tuần hoàn
máu...
Ở bệnh viện Đa khoa Sơn Tây, trung bình có 1200 - 1500 lượt bệnh nhân vào
điều trị trong một năm; theo nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Phúc Đình trong kỷ yếu
công trình nghiên cứu khoa học Bệnh viện Đa Khoa Sơn Tây năm 2002 thì thiếu
máu chiếm tỷ lệ 9,98%.
Như vậy điều trị thiếu máu là một trong những vấn đề rất được quan tâm tại
Bệnh viện đặc biệt tại Khoa Huyết học truyền máu.
Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây được phân công tiếp nhận điều trị bệnh cho
nhân dân ở các địa bàn của thị xã Sơn Tây và các huyện phía Bắc (Ba Vì, Phúc Thọ,
Thạch Thất); đồng thời tiếp nhận một số bệnh nhân thuộc dải ven sông Hồng của
tỉnh Vĩnh Phúc và một số huyện của Hoà Bình. Phần lớn người dân làm nông
nghiệp, cơ sở hạ tầng các huyện trên còn chưa được phát triển, trình độ dân trí còn
thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Do đó mạng lưới y tế, cơ sở hạ tầng đã được phát
triển rộng khắp, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan thiếu máu chưa được
quan tâm và phát hiện sớm. Cho nên tỷ lệ bệnh nhân tới điều trị tại bệnh viện còn
khá cao nhiều bệnh nhân tới viện trong tình trạng nặng và bệnh kéo dài.

Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu "Khảo sỏt tỡnh hỡnh
thiếu mỏu của cỏc bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây 6 tháng
đầu năm 2008" nhằm có được thông tin làm cơ sở cho công tác chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân được tốt hơn và làm giảm tỷ lệ thiếu máu.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
1. Xác định tỷ lệ thiếu máu của các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viên Đa khoa
Sơn Tây trong 6 tháng đầu năm 2008.
2. Khảo sát một số nguyên nhân thường gặp gây thiếu máu và các yếu tố ảnh
hưởng.
3. Xác định mối liên quan giữa các nguyên nhân thiếu máu theo tuổi, giới,

3


địa dư.

Chương 1 TỔNG QUAN

1.1. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ MÁU

Máu là một tổ chức lỏng lẻo tuần hoàn khắp nơi trong cơ thể. Máu làm
nhiệm vụ vận chuyển oxi, các chất dinh dưỡng, CO 2 và các chất thải khác. Ngoài ra,
máu còn làm nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng, cầm máu khi có chảy
máu... Để duy trì chức năng của mình, máu luôn luôn được sinh ra và cũng luôn
luôn bị tiêu huỷ theo tuổi của từng loại tế bào [1], [13].
1.1.1. Vị trí sinh máu
Lịch sử phát triển của các sinh vật nói chung là lịch sử của một quá trình tiến
hóa không ngừng. Từ chỗ chỉ là một tế bào thực hiện tất cả các chức năng sống đã
tiến hóa thành những cá thể gồm nhiều tế bào và mỗi loại tế bào đảm nhận một
chức năng riêng biệt. Sinh máu và sự tiến hóa của các tế bào máu trong sự phát triển

của loài người, cũng không nằm ngoài quy luật này.
Sinh máu ở người là đỉnh cao của sự tiến hóa, quá trình sinh sản các tế bào
máu đạt tới mức hoàn thiện nhất với một cơ chế điều hòa tinh tế nhất. Có thể chia
sinh máu ở người thành ba thời kỳ chính là sinh máu trong thời kỳ phôi thai, sinh
máu ở thời kỳ sơ sinh và trẻ em, cuối cùng là sinh máu ở người trưởng thành.
Ngay từ ngày thứ 8 của phôi, sinh máu đã bắt đầu được hình thành bởi các tiêu
đảo Woll Pander, gọi là sinh máu ở trung bì phôi. Từ tuần thứ 4 trở đi, sinh máu
được thực hiện tại trung mô trang phôi mà rõ nhất là ở gan và lách. Đến tháng thứ 3
thì tuỷ xương hạch và tuyến ức cũng bắt đầu quá trình sinh máu. Sinh máu ở thời kỳ
phôi thai là một quá trình biệt hóa không ngừng và rất mạnh.
Lúc đầu, ở đâu có một mảnh trung mô thì ở đó có sinh máu nhưng dần dần
khu trú hẳn về tuỷ xương, lách và hạch lympho, các dòng tế bào máu cũng được
hoàn thiện dần về số lượng, hình thái, chức năng và cả tính kháng nguyên bề mặt.
Sau khi trẻ ra đời, sinh máu khu trú dần ở ba cơ quan chính, trong đó tủy
xương giữ vai trò chủ yếu. Trong những năm đầu của cuộc đời, mỗi dòng tế bào
máu cũng vẫn tiếp tục có những biến đổi quan trọng. Số lượng hồng cầu giảm dần
xuống, huyết cầu tố F được thay thế bởi huyết cầu tố A, số lượng và thành phần
4


kháng nguyên bề mặt tế bào máu thay đổi, sự tương quan của các dòng bạch cầu
(chủ yếu là bạch cầu hạt và lympho) cũng thay đổi. Có thể coi sinh máu ở giai đoạn
sống và trẻ em là một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng trong đời sống cá thể, là giai
đoạn chuyển tiếp tạo ra những yếu tố cấp thiết cho cơ thể thích nghi với ngoại cảnh.
Chính sự biến đổi thích nghi này đã làm cho sinh máu ở người lớn trưởng thành thật
sự đạt tới mức hoàn thiện cao [1], [12].
1.1.2 Các cơ quan và yếu tố tham gia tạo hồng cầu, Hemoglobin
Trong quá trình sản sinh hồng cầu (HC) có sự tham gia của nhiểu cơ quan
như tuỷ xương, gan, dạ dày, thận và các yếu tố cần thiết như sắt, acid folic, vitamin
B12, vitamin B6 và các acid amin.

- Tuỷ xương là nơi sản sinh ra HC từ những tế bào gốc.
- Thận và gan sản xuất ra erythroprotein là yếu tố điều hoà quá trình sinh
HC. Do vậy, những người có bệnh suy tuỷ, suy gan, suy thận thường có biểu hiện
thiếu máu.
- Tế bào niêm mạc dạ dày tiết ra yếu tố nội, yếu tố này cần cho sự hấp thu
vitamin B12 là chất cần cho quá trình tổng hợp DNA của hồng cầu. Trường hợp cắt
dạ dày, teo đét niêm mạc dạ dày sẽ có biểu hiện thiếu máu ác tính Biermer do thiếu
vitamin B12.
- Trong các yếu tố được dùng làm nguyên liệu để sản sinh HC, sắt đóng vai
trò rất quan trọng vì tham gia tạo phần hem của hemoglobin (Hb). Hàng ngày sắt
được đưa vào cơ thể qua các loại thức ăn như thịt, cá, sữa, rau xanh và một lượng
nhỏ bị mất đi theo phân, nước tiểu và trong chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ. Khi cơ thể
bị thiếu sắt sẽ gây nên thiếu máu, đây là loại thiếu máu HC nhỏ, nhược sắc. Nhu cầu
về sắt cho một người trưởng thành khoảng 1mg/ngày. Một số trường hợp có nhu cầu
cung cấp nhiều sắt hơn mức bình thường như: phụ nữ có chảy máu kinh nguyệt (cần
1,3mg/ngày), phụ nữ có thai, đặc biệt trong 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén (cần
từ 8 – 18 mg/ngày)[17].
- Acid folic và vitamin B12 có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự chín của
HC, cả hai đều rất cần cho sự tổng hợp thymidin triphosphate, một trong những
thành phần quan trọng của DNA. Thiếu vitamin B12 hoặc acid folic sẽ làm giảm
tổng hợp DNA, tế bào không phân chia và không chín được. Các biểu hiện của
thiếu máu do thiếu vitamin B12 hoặc acid folic là thiếu máu nặng, HC to, hình
dạng, cấu trúc bất thường, đời sống ngắn. Nhu cầu về acid folic là 50mg/ngày. Có
5


nhiều acid folic trong các loại rau xanh, ngũ cốc, gan, thịt…Nhu cầu vitamin B12
mỗi ngày là 1mg. Trong cơ thể, gan có khả năng dự trữ khoảng 1000mg vitamin
B12 vì vậy thiếu vitamin này trong nhiều tháng mới gây ra thiếu máu.
Ngoài ra, các acid amin, các coenzyme như vitamin B6, (pyridoxalphotphat)

cũng cần thiết cho quá trình tổng hợp Hb [2].
Nồng độ Hb của người Việt Nam bình thường ở nam là 151 ± 6g/L, ở nữ là
135 ± 5 g/L [9]. Để đánh giá tình trạng thiếu máu thì nồng độ Hb được coi là khá
quan trọng.
1.1.3 Cấu trúc phân tử Hb
Hb là một protein màu (chromoprotien) gồm hai thành phần là hem và
globin. Mỗi phân tử Hb có bốn hem, đây là một sắc tố có màu đỏ được cấu tạo bởi
vòng porphyrin và ở chính giữa có một nguyên tử sắt luôn có hoá trị hai (Fe 2+).
Trong phân tử Hb thì phần globin chiếm 94%. Globin là một protein được tạo bởi
bốn chuỗi polypeptid giống nhau từng đôi một và có một cấu trúc thay đổi theo loài
(hình 1.1).

Hem

Chuỗi alpha

Chuỗi beta

Hình 1.1. Cấu trúc phân tử Hemoglobin

Hb trong máu người trưởng thành thường được ký hiệu là HbA1 – ỏ2õ2, loại
Hb này chiếm tới 96% lượng Hb trong máu. Phần còn lại là HbA2 và một lượng rất
6


ít Hb của thời kỳ bào thai là HbF.
Số lượng, trình tự sắp xếp các acid amin của các chuỗi polypeptit trong phân
tử hemoglopin sẽ quyết định ái lực của hemoglobin với oxy. Nếu thay đổi cấu trúc
và số lượng các chuỗi ỏ hay chuỗi õ (thường do đột biến gen) sẽ tạo ra những phân
tử hemoglobin bất thường. Những phân tử hemoglobin này không những làm HC

không đảm nhiệm được chức năng của mình mà còn làm HC biến dạng, dễ vỡ, gây
biểu hiện thiếu máu tan máu.
Khi HC bị tiêu huỷ, Hb bị phá vỡ, các thành phần của chúng được tái tuần
hoàn và được sử dụng lại trong cơ thể. Các chuỗi peptid phân giải thành các acid
amin, có thể được dùng để tổng hợp protein trong các tế bào khác. Phần hem được
phân giải thành sắt (Fe2+) và biliverdin. Sắt giải phóng vào huyết tương transferrin
vận chuyển đến các kho dự trữ hoặc đến tuỷ xương để tạo HC mới. Biliverdin bị
khử thành bilirubin và được giải phóng vào huyết tương rồi được vận chuyển đến
gan. Các tế bào gan gắn bilirubin với acid glucuronic và bài xuất vào hệ thống ống
mật rồi vào ruột non. Tại đây các vi khuẩn đường ruột chuyển bilirubin thành
urobilinogen. Hầu hết các urobilinogen được đào thải theo phân dưới dạng
tercobilin, một số nhỏ được hấp thu vào máu rồi đào thải qua nước tiểu dưới dạng
urobilin
1.2. THIẾU MÁU VÀ PHÂN LOẠI THIẾU MÁU

1.2.1. Định nghĩa thiếu máu
Thiếu máu là tình trạng giảm tỷ lệ hemoglobin chứa trong một đơn vị thể tích
máu lưu hành dưới mức cho phép đã được xác định, mà trong đó thể tích huyết
tương không thay đổi [16].
Theo WHO thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng
Hb trong máu xuống thấp hơn mức bình thường do thiếu một hay nhiều chất dinh
dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu bất kể lý do gì [6],[19].
Ngưỡng Hb chỉ định thiếu máu: mỗi cá thể có một cơ chế điều hoà lượng Hb,
do đó khó xác định lượng Hb bình thường cho từng cá thể [5]. Tổ chức Y tế Thế
giới đã đề nghị coi là thiếu máu khi hàm lượng Hb ở dưới giới hạn thấp của từng
lứa tuổi và giới như sau [19]

7



Bảng 1.1. Ngưỡng giới hạn hemoglobin (WHO, năm 2001)

Nhóm tuổi

Ngưỡng hemoglobin

Trẻ em từ 6 tháng đến 6 tuổi

<110g/L

Trẻ em từ 6 tuổi đến 14 tuổi

<120g/L

Nam trưởng thành

<130g/L

Nữ trưởng thành

<120g/L

Nữ có thai

<110g/L
Mức độ

Nhẹ

thiếu máu

Dưới giá trị trung bình nhưng >100g/L

Trung bình
Nặng

70 – 100g/L
<70g/L

Thiếu máu dinh dưỡng là loại thiếu máu phổ biến nhất nhưng cũng là loại
thiếu máu được khống chế nhờ các biện pháp can thiệp về dinh dưỡng [14].
1.2.2. Phân loại thiếu máu
1.2.2.1. Thiếu máu theo hình thái
+ Thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ
Huyết sắc tố giảm, nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu nhỏ dưới 310
g/l, thể tích trung bình hồng cầu nhỏ dưới 80fl; ta cần phải làm xét nghiệm huyết
thanh [1].
 Nếu sắc huyết thanh giảm có hồi phục gặp trong các bệnh sau:
Thiếu máu do thiếu sắt bao gồm:
Do cung cấp thiếu: có thể gặp ở trẻ mới đẻ đặc biệt ở trẻ đẻ non, trẻ được
nuôi bằng sữa bò, bột sữa (vì trong sữa có rất ít sắt). Ở trẻ này thường có suy dinh
dưỡng đi kèm.
Do hấp thu sắt kém: gặp ở trẻ em ỉa chảy kéo dài và cũng hay gặp ở người
viêm dạ dày mạn thể giảm toan hay ở người cắt 2/3 dạ dày (vì toan của dạ dày giúp
giải phóng sắt khỏi hợp chất hữu cơ, chuyển Fe++ thành Fe+++ dễ hấp thu hơn).
Do tăng nhu cầu sắt: gặp ở phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú mà không
cung cấp đủ sắt để đáp ứng nhu cầu tăng của cơ thể.
Do mất máu mạn làm cho kho dự trữ sắt mất dần kéo dài gây cạn kiện gây
thiếu máu thiếu sắt.

8



Do ký sinh trùng.


Nếu sắt huyết thanh tăng: thiếu máu tăng sắt khó hồi phục gặp trong:

Thalassemie: thiếu máu nhược sắc HC nhỏ mà sắt huyết thanh tăng.
- Rối loạn kinh diễn.
- Bệnh huyết sắc tố.
- Thiếu máu tăng nguyên HC sắt do di truyền, do độc.
+ Thiếu máu bình sắc thể tích HC bình thường (Thể tích trung bình HC: 85 95fl) ta cần làm xét nghiệm hồng cầu lưới [1].
* Nếu HC lưới tăng và xét nghiệm bilirubin gián tiếp tăng dẫn đến tan máu
- Tan máu tại HC gặp trong bệnh:
Bệnh huyết sắc tố HC hình liềm, hình bia.
Thiếu men Glucose-6-phosphate dehydrogenase.
Do tổn thương màng HC.
- Tan máu ngoài HC do:
Ký sinh trùng sốt rét: gặp trong sốt rét thường đái huyết cầu tố.
Do nhiễm trùng: nhiễm liên cầu tan huyết, nhiễm trùng huyết.
Do ngộ độc như ngộ độc nấm độc, nọc rắn, nọc cóc.
Do miễn dịch:
. Do bất đồng miễn dịch (truyền máu nhiều lần bất đồng nhóm máu máu mẹ
con).
. Tự miễn dịch.
. Phức hệ miễn dịch: một số thuốc có thể gây tan máu như chlorocid,
quinin…
Do cơ học: bỏng do nhiệt gây tan máu.
Do tiêm truyền dung dịch nhược trương quá nhiều.
* Nếu HC lưới tăng và bilirubin gián tiếp tăng thường gặp trong mất máu cấp tuỷ

phục hồi tốt ví dụ như trong xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày, vết thương mất máu.
* Nếu HC lưới giảm và tuỷ giảm tế bào ta cần làm sinh thiết tuỷ có thể gặp
một trong hai trường hợp sau:
- Do tuỷ xơ hay suy tuỷ.
- Do bị xâm lấn: gặp trong lơxơmi cấp, ung thư di căn vào tuỷ hoặc do rối loạn
9


sinh tuỷ.
* Nếu HC lưới giảm và tuỷ giàu tế bào thường do:
- Do rối loạn sinh HC đơn thuần
- Do thiếu máu bình sắc không hồi phục tuỷ giàu tế bào
Ví dụ: trong lơxemi kinh.
+ Thiếu máu bình sắc thể tích HC to (Thể tích trung bình HC > 96 fl) ta cần
làm xét nghiệm hồng cầu lưới:[1]
* Nếu HC lưới tăng gặp trong:
Chảy máy nguyên phát, tan máu nguyên phát, thiếu vitamin B12, acid folic
* Nếu HC lưới giảm và không có HC khổng lồ trong tuỷ gặp:
+ Trong suy tuyến giáp và xơ gan
+ Suy thận và tuỷ giảm sinh
* Nếu hồng cầu lưới giảm và có HC khổng lồ trong tuỷ gặp trong:
- Thiếu vitamin B12: do viêm dạ dày mạn xơ teo, cắt 2/3 dạ dày dẫn đến thiếu
yếu tố nội nên không hấp thu được vitamin B12.
- Thiếu acid folic.
- Rối loạn tổng hợp AND.
1.2.2.2 Thiếu máu theo nguyên nhân gây bệnh
- Thiếu máu do giảm sản xuất tại tuỷ xương.
 Thiếu tế bào nguồn sinh máu
Nội tại: Tuỷ xương
Ngoại lai: Hóa chất, tia xạ, thuốc, vi rút,…

 Do môi trường tuỷ có chất ức chế hoặc thiếu chất kích thích.
Bệnh máu ác tính (lơxơmi).
Thiếu máu dinh dưỡng.
- Do mất máu ngoại vi.
Do tan máu.
Do chảy máu.

10


1.3. NGUYÊN NHÂN THIẾU MÁU

Có rất nhiều nguyên nhân gây thiếu máu.Ngoài các bệnh thuộc chuyên khoa
sâu về huyết học, ở đây chỉ đề cập đến một số nguyên nhân thường gặp (hình 1.3.)

Suy
Suy
dinh
dinh
dưỡng
dưỡng

Nghề
Nghềnghiệp
nghiệp
liên
liênquan
quanhoá
hoá
chất

độc
hại:
chất độc hại:
axit,
axit,Acen,
Acen,Pb,
Pb,
H9…
H9…

Tập
Tậptục
tục
ăn
ănkiêng
kiêng

Sống
Sốngtrong
trong
vùng
vùng
sốt
sốtrét
rétlưu
lưuhành
hành

Bệnh
Bệnhthiếu

thiếu
máu
tỷ
máu tỷlệ
lệ
cao
cao

Chấn
Chấnthương
thương
do
dotai
tainạn
nạngiao
giao
thông
thông

Nhiễm
Nhiễm
giun
giun
đũa,
đũa,
tóc,
tóc,móc
móc

Tai

Taibiến
biến
sản
sảnkhoa
khoa

Cơsở
sởhạ
hạtầng
tầng
giao
thông
giao thôngkém
kém

Phong
Phongtục
tục
lạc
lạchậu
hậu

Dinh
Dinh
dưỡng
dưỡng
không
khônghợp
hợp
lýlý


Nghèo
Nghèo

Bệnh
Bệnhđiều
điều
trị
trị
kéo
kéodài
dài
không
không
khỏi
khỏi

Dịch
Dịchvụ
vụyytế
tế
nghèo
nghèonàn
nàn

Thói
Thói
quen
quen
dùng

dùng
phân
phântưới
tưới
bón
bón
ruộng
ruộng

Thiếu
Thiếumáu
máu
thiếu
thiếuFe
Fe
của
củaphụ
phụnữ
nữ
tuổi
sinh
tuổi sinh
đẻ
đẻ

Giáo
Giáodục
dục
truyền
truyền

thông
thôngsức
sức
khoẻ
khoẻkém
kém

11


Hình 1.3. Sơ đồ các nguyên nhân gây thiếu máu

1.3.1. Thiếu máu do thiếu sắt
Thiếu máu do thiếu sắt thường là các chảy máu mãn tính bệnh nhân không
biết, bỏ qua không chú ý. Thiếu máu thiếu sắt gặp khoảng 90% các trường hợp thiếu
máu, nữ gặp nhiều hơn nam.
-Mất máu nhiều lần ở đường tiêu hóa: thực quản, dạ dày, tá tràng, ruột non,
đại tràng, trực tràng... Mất máu bệnh phụ khoa, cho máu nhiều lần, đái máu kinh
điển...
- Do cung cấp không đủ: trẻ đẻ non tháng, phụ nữ mang thai, tuổi thành niên,
cắt bỏ dạ dày, tá tràng.
- Do rối loạn phân phối sắt: viêm nhiễm, ung thư.
- Do thiếu máu chlorose, thiếu máu không rõ nguyên nhân.
- Do thiếu máu ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Thiếu máu thiếu sắt do tăng sắt là thiếu máu có HC nhược sắc, ferritin huyết
thanh tăng, đường tiêu hóa hấp thu sắt tăng, HC sắt non tăng.
Thiếu máu thiếu sắt do rối loạn tổng hợp globin: gặp trong bệnh
Thalassemia.
Thiếu máu thiếu sắt do rối loạn hem.
+ Ngộ độc chì: gây độc men tổng hợp hem.

+ Thuốc Isoniazide (INH): ức chế hoạt động Pyridoxin.
+ Chloramphenicol: ức chế pyridoxine.
Thiếu máu thiếu sắt khác:
+ Do di truyền bẩm sinh: - có sự thay đổi chuyển hóa porphyrin
- tăng sắt ở trẻ có di truyền gen lặn.
+ Do mắc phải:
- thiếu máu tăng sắt: người trên 50 tuổi kèm theo
hồng cầu khổng lồ giả Biermer.
- truyền máu nhiều gây ứ sắt...
1.3.2. Thiếu máu do thiếu acid folic (thiếu máu hồng cầu to)
Các dẫn xuất của acid folic tham gia vào cơ chế chuyển hoá một số acid amin
12


cần cho sự tổng hợp Protein của cơ thể. Thiếu acid folic các quá trình phân chia tế
bào sẽ bị giảm sút vi acid folic tham gia tổng hợp bazơ purin và pymidin của acid
nucleic [6],[7].
Acid folic không được dự trữ trong cơ thể. Trong khi có thai cơ thể phát triển
mạnh, phân bào mạnh, đòi hỏi cần nhiều acid folic. Nếu không thoả mãn được nhu
cầu acid folic sẽ gây thiếu máu ở người mẹ.
Nghiên cứu tại Mỹ của Daniel cho thấy PNCT cần ít nhất 500mg acid folic
mỗi ngày. Còn các tác giả Willoughby và Jewll thì thấy rằng 350mg acid folic mỗi
ngày sẽ đảm bảo duy trì nồng độ cần thiết trong huyết tương ở mức bình thường của
phụ nữ có thai.[15]
Nguyên nhân chính của thiếu máu HC to là do nhu cầu acid folic tăng lên một
cách đáng kể. Tình trạng thiếu acid folic trong khẩu phần ăn nghiêm trọng tới mức
gây ra thiếu máu HC to không phải là phổ biến, ngoài ra còn có các nguyên nhân
khác như: nôn nghén kéo dài, viêm dạ dày ruột kéo dài, các tình trạng hấp thu kém,
các chế độ ăn kiêng…
Một chương trình sàn lọc trên phụ nữ có thai (PNCT) ở tầng lớp nghèo tại một

bệnh viện ở Mỹ đã cho kết quả là có 1 bệnh nhân thiếu máu hồng cầu to trên 1200
PNCT [16]. Ở Châu Âu tỷ lệ bệnh là khoảng 2% ở PNCT. Các nước kinh tế đang
phát triển tỷ lệ mắc bệnh cao hơn và thường là phối hợp nhiều nguyên nhân: thiếu
chất dinh dưỡng, kém hấp thu do các bệnh đường ruột…[15].
1.3.3. Thiếu máu do yếu tố gen
Rối loạn do di truyền có thể làm cho đời sống của HC ngắn lại và gây ra
thiếu máu như trong bệnh HC hình liềm. Rối loạn di truyền cũng có thể gây ra thiếu
máu do giảm sản xuất Hb như trong bệnh alpha thalassemia và beta thalassemia.
1.3.4. Thiếu máu do mất máu
Mất máu cũng có thể gây thiếu máu, nguyên nhân có thể do mất quá nhiều
máu do bị thương, phẫu thuật hay các vấn đề trong khả năng đông máu. Mất máu
kéo dài, chậm hơn như xuất huyết đường tiêu hoá, do loét, vỡ tĩnh mạch thực quản,
băng huyết trong sản khoa như sẩy thai, thai ngoài tử cung, rau tiền dạo, rau bong
non, do bệnh viêm đường ruột cũng có thể gây thiếu máu. Đôi khi thiếu máu do

13


kinh nguyệt nhiều (ở thiếu nữ và phụ nữ). Một vài dạng ung thư ở trẻ cũng có thể
gây thiếu máu aplastic như có thể là các bệnh mãn tính ảnh hưởng đến khả năng tuỷ
xương tạo ra tế bào máu [21].
Thiếu máu cũng có thể xẩy ra khi cơ thể không có khả năng sản xuất đủ
glucuse-6-phosphate đehydrogenase khoẻ mạnh do thiếu sắt. Sắt là yếu tố quan
trọng để sản sinh ra Hb. Chế độ ăn ít sắt có thể dẫn tới thiếu sắt, nguyên nhân
thường thấy nhất gây bệnh thiếu máu ở trẻ. Thiếu máu thiếu sắt có thể ảnh hưởng
đến trẻ ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên bệnh thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi [21].
Trẻ gái đang tuổi dậy thì cũng có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu thiếu sắt cao
do kinh nguyệt, mất máu hàng tháng đòi hỏi tăng lượng sắt tiêu thụ trong chế độ ăn
hàng ngày [21].
1.3.5. Các nguyên nhân hiếm gặp khác

- Thiếu máu ác tính do thiếu vitamin B12.
- Thiếu máu do vỡ HC (tán huyết, do kháng thể bám trên bề mặt HC). Bệnh
rỗng ống tuỷ xương cũng có thể gây ra thiếu máu. Chẳng hạn, ung thư di căn đến
tuỷ xương hay ung thư tuỷ xương (như bệnh bạch cầu hay bệnh đau tuỷ) có thể làm
cho tuỷ xương mất khả năng sản xuất hồng cầu, kết quả là gây thiếu máu. Một số
thuốc trị liệu ung thư có thể làm tổn thương tuỷ xương, làm giảm sản xuất HC gây
thiếu máu. Ở bệnh nhân suy thận do thiếu hormone cần thiết để kích thích tuỷ
xương sản xuất hồng cầu nên gây ra thiếu máu [6].
1.3.6. Chẩn đoán thiếu máu.
- Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu: Có một số triệu chứng chung cho mọi
loại thiếu máu: xanh xao ở da và niêm mạc; các rối loạn thần kinh: dễ bị ngất,
thoáng ngất thường ù tai, hoa mắt, chóng mặt. Cảm giác trống ngực đập nhanh, nhất
là khi gắng sức, rối loan tiêu hoá: chán ăn, ỉa chảy. Ở phụ nữ còn thấy bế kinh, nam
giới bất lực. Chuyển hoá cơ bản tăng, tại hệ thống tiêu hoá có thể có triệu chứng
khó nuốt, dạ dày có triệu chứng giảm độ toan gây viêm dạ dày, teo niêm mạc [6].
- Các xét nghiệm chẩn đoán thiếu máu: Xét nghiệm thường dùng là công
thức máu và định lượng Hb dựa vào ngưỡng của Tổ chức Y tế thế giới và định
lượng ferritin huyết thanh, xét nghiệm tìm trứng ký sinh trùng trong phân [5],[8].

14


1.3.7. Phòng chống thiếu máu
Phần lớn nguyên nhân gây thiếu máu là do thiếu sắt, thiếu vi chất dinh
dưỡng vì vậy hiện nay trên Thế giới cũng như Việt Nam, để phòng chống thiếu máu
chủ yếu tuân theo bốn giải pháp chính sau đây: thứ nhất bổ sung trực tiếp bằng cách
uống viên sắt; thứ hai là đa dạng hoá bữa ăn và tăng cường giáo dục dinh dưỡng;
thứ ba là bổ sung sắt vào thực phẩm; thứ tư là phòng chống, kiểm soát các bệnh
nhiễm khuẩn, ký sinh trùng [3],[14]. Đây cũng chính là bốn giải pháp chiến lược
được đề ra trong Chiến lược Dinh Dưỡng Quốc gia Việt Nam 2001-2010 do Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ thiếu máu trong cộng đồng,
đặc biệt là đối tượng bà mẹ và trẻ em [4],[7].
1.4. THỰC TRẠNG THIẾU MÁU TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Tổ chức Y tế thế giới ước tính có khoảng 30% dân số thế giới bị thiếu máu,
trong đó khoảng 700 – 800 triệu người bị thiếu máu dinh dưỡng mà nguyên nhân
chủ yếu là do thiếu sắt và đây là loại thiếu máu phổ biến nhất. Thiếu máu dinh
dưỡng hay gặp ở các nước đang phát triển [15].
Nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã có những công
trình nghiên cứu về tình hình thiếu máu cũng như các yếu tố nguy cơ nhằm tìm ra
các giải pháp can thiệp hữu hiệu nhất để chế ngự vấn đề đe doạ sức khoẻ cộng đồng
này [7].
1.4.1. Tình hình thiếu máu trên thế giới
Thiếu máu dinh dưỡng thay đổi theo từng lứa tuổi và khu vực khác nhau trên
thế giới. Năm 2001, WHO công bố báo cáo về tình hình thiếu máu trên toàn thế giới
giai đoạn 1990- 1995, phân bố được trình bày theo bảng 1.2 [20].
Bảng 1.2. Phân bố thiếu máu trên thế giới (WHO, 2001)

Trẻ em (%)
Vùng
0–4 tuổi 5-14 tuổi

Nam
trưởng
thành
(%)

Phụ nữ 15 – 49
(%)
Có thai


Chung

Các nước phát triển

20,1

5,9

4,3

22,7

10,3

Các nước đang phát triển

53,9

48,1

30

52

42,3

15



Báo cáo trên đây của WHO cho thấy thiếu máu xảy ra chủ yếu ở các nước
đang phát triển và tập trung ở đối tượng trẻ em và phụ nữ đặc biệt là PNCT, sau đến
trẻ em học đường (6-15 tuổi). Khoảng 50% PNCT trên thế giới (52% ở các nước
đang phát triển, 23% ở các nước phát triển ) bị thiếu máu [10].

1.4.2. Tình hình thiếu máu dinh dưỡng ở Việt Nam
Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, thiếu máu dinh dưỡng là
vấn đề sức khoẻ cộng đồng được quan tâm đặc biệt ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu
về tình hình thiếu máu ở phụ nữ và trẻ em cũng như PNCT nói riêng đã được thực
hiện, cung cấp những thông tin có ý nghĩa giúp các nhà hoạch định chính sách y tế
đưa ra các biện pháp can thiệp nhằm giải quyết tình trạng này.
Năm 1990 các tác giả Từ Giấy và Hà Huy Khôi đã công bố kết quả nghiên
cứu tình hình thiếu máu của phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ (18-49tuổi) ở Hà Nội được thực
hiện từ năm 1987-1989. Theo đó tỷ lệ thiếu máu ở PNCT là 45% và ở phụ nữ không
có thai là 41% trong 2471 đối tượng nghiên cứu (1067 ở thành phố và 1404 ở nông
thôn); phụ nữ nông thôn có tỷ lệ bị thiếu máu cao hơn so với phụ nữ thành thị ở cả
đối tượng có thai và không có thai, đa số thiếu máu của phụ nữ ở mức vừa và nhẹ.
Kết quả nghiên cứu cho biết, chế độ ăn uống có vai trò quan trọng trong thiếu máu:
lượng sắt, đạm động vật, lipit khẩu phần ăn của đối tượng bị thiếu máu thấp hơn
hẳn so với nhóm không bị thiếu máu [14].
Năm 1995, với sự hỗ trợ của UNICEF và trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa
Kỳ (CDC), Viện Dinh dưỡng quốc gia Việt Nam đã tiến hành điều tra toàn quốc về
thiếu máu dinh dưỡng và các yếu tố nguy cơ [4],[14],[18]. Kết quả điều tra cho thấy
tỷ lệ thiếu máu rất cao ở trẻ em dưới 2 tuổi và phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ. Trong khi tỷ
lệ thiếu máu ở phụ nữ không có thai là 40,2% và tỷ lệ thiếu máu ở PNCT là 52,7%
thì ở nam trưởng thành tỷ lệ này chỉ có 15,7%.
Bảng 1.3. Tỷ lệ thiếu máu phân bố theo nhóm tuổi (1995)
Nhóm tuổi

Tỷ lệ thiếu máu (%)


Trẻ 0-5 tháng tuổi

61,0

Trẻ 6-23 tháng tuổi

59,5

Trẻ 24 - 60 tháng tuổi

28,2

16


Phụ nữ không có thai

40,2

Phụ nữ có thai

52,7

Nam trưởng thành

15,7

Điều tra này cũng chỉ ra sự khác biệt về thiếu máu theo vùng lãnh thổ. Theo
đó tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở Tây Nguyên (61%), tiếp sau vùng Đồng bằng sông

Cửu Long (52,2) và Ven biển Miền Trung (49,2%). Phụ nữ sống ở vùng nông thôn
và vùng núi có tỷ lệ thiếu máu cao hơn phụ nữ ở vùng thành phố (42,7% so với
29,3%). Các yếu tố nguy cơ có liên quan đến thiếu máu được phát hiện qua cuộc
điều tra này gồm: thiếu máu dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt, tần suất xuất hiện thịt
trong bữa ăn gia đình dưới 1lần/tháng, tình trạng nhiễm giun móc, các yếu tố kinh
tế, xã hội liên quan mật thiết với tình trạng thiếu máu của bà mẹ và trẻ em như gia
đình nghèo, gia đình có trên 3 con, mẹ không được đi học [15].
Năm 2000, Viện Dinh Dưỡng một lần nữa phối hợp với UNICEF và một số
cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước tiến hành cuộc tra thiếu máu dinh dưỡng với
quy mô và phương pháp tương tự năm 1995. Kết quả cho thấy, mặc dù thiếu máu có
giảm nhưng tỷ lệ thiếu máu vẫn chiếm khá cao ở các đối tượng và nhóm tuổi ở tất
cả các vùng sinh thái. Tỷ lệ thiếu máu vẫn tập trung ở nhóm trẻ dưới 2 tuổi và phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Trong đó, tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ có thai là 32,2%, phụ
nữ không có thai là 24,3% và nam giới chỉ có 9,4% [14],[18].

17


Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Gồm 406 bệnh nhân thiếu máu điều trị tại Bệnh viện Đa Khoa Sơn Tây.
2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2008.
- Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Đa Khoa Sơn Tây – TP.Hà Nội.
2.3. THIẾT BỊ, DỤNG CỤ VÀ HOÁ CHẤT
2.3.1. Thiết bị dụng cụ
- Ống nghiệm, lam kính hiển vi, pipette Pasteur.
- Máy ly tâm Kubota (Nhật).
- Kính hiển vi quang học olympus (Nhật).

- Bộ dụng cụ lấy máu tĩnh mạch.
- Máy đếm tế bào KX21 của hãng SYSMEX ( Nhật).
- Máy sinh hoá tự động Hitachi ( Nhật).
2.3.2. Hoá chất
- Nước muối sinh lý (Nacl 0,9%) dùng để soi tươi tìm ký sinh trùng đường
ruột.
- Hoá chất sử dụng cho máy phân tích huyết học tự động 18 chỉ số KX21 của
hãng Sysmex.
- Hoá chất sử dụng cho máy phân tích sinh hoá tự động Hitachi của hãng
Human.
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Nghiên cứu hồi cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, căn cứ vào bệnh án của bệnh nhân để điều tra

18


(Hồi cứu) và thống kê chính xác về kết quả xét nghiệm huyết học, hoá sinh, vi sinh
để đánh giá theo các nguyên nhân thiếu máu.

2.4.2. Lấy mẫu thực nghiệm
- Đối với các bệnh nhân, chúng tôi tiến hành lấy máu tĩnh mạch vào buổi
sáng (bệnh nhân chưa ăn sáng) vào ống nghiệm đã ghi đầy đủ thông tin tên, tuổi,
khoa.
- Lấy 2ml máu vào ống nghiệm không chống đông: được dùng để tiến hành
xét nghiệm định lượng sắt trong huyết thanh.
- Lấy 1ml máu vào ống nghiệm chống đông bằng 1mg EDTA: được dùng để
xét nghiệm công thức máu gồm đếm số lượng HC, Hb, Hematocrit…
- Lấy 4g phân vào ống nghiệm dùng để soi tươi tìm ký sinh trùng đường
ruột.

2.4.3. Phương pháp xét nghiệm
2.4.3.1. Các xét nghiệm đối với từng mẫu
* Đếm số lượng HC, đo lượng Hb, Hematocrit…
- Nguyên lý: số lượng HC, Hb, Hematocrit…được đo bằng máy phân tích
huyết học tự động 18 chỉ số KX21 cuả hãng Sysmex Nhật Bản [5],[8],[11].
- Kỹ thuật: lấy 1ml máu cho vào ống nghiệm có sẵn 1mg EDTA, tiến hành
lắc đều sau đó đưa vào máy đếm.
* Định lượng nồng độ sắt trong huyết thanh
- Nguyên lý: được định lượng bằng máy sinh hoá tự động Hitachi Nhật Bản.
- Kỹ thuật: lấy 2ml máu cho vào ống nghiệm không chống đông, tiến hành ly
tâm với tốc độ 2000 vòng/phút trong 3 phút, tách lấy huyết thanh làm xét nghiệm
trên máy sinh hoá tự động Hitachi Nhật [8].
* Tìm trứng ký sinh trùng trong phân
- Nguyên lý: soi tươi tìm trứng ký sinh trùng trong phân [8].
- Kỹ thuật:
. Đánh dấu lam, ghi họ tên, tuổi, khoa.
. Nhỏ 2 giọt nước muối sinh lý lên giữa lam kính.
. Lấy một ít phân vào giữa lam kính đã nhỏ nước muối sinh lý.
19


. Dùng que đánh từ từ 6 đến 7 vòng cho phân tan hết.
. Dùng lamen đậy từ từ lên để tránh bọt khí.
. Soi kính: đặt lam kính lên mâm kính hiển vi soi ở vật kính 10 và 40,
đọc kết quả.
2.4.3.2. Đọc kết quả
- Đối với kết quả đếm số lượng HC, đo lượng Hb, Hematocrit dựa theo mẫu
phiếu kết quả được in ra từ máy phân tích huyết học tự động KX21 của Sysmex
Nhật được mô tả ở hình 2.1.


Hình 2.1. Kết quả công thức máu trên máy huyết học KX21.

- Đối với định lượng nồng độ sắt trong huyết thanh, đọc kết quả lượng sắt
dựa theo mẫu phiếu được in ra của máy sinh hoá tự động Hitachi Nhật.
Lượng sắt bình thường trong huyết thanh: đối với nam 11-27g/l, đối với nữ
6-27g/l.
- Đối với tìm trứng ký sinh trùng.
Phát hiện trứng ký sinh trùng chứng tỏ mẫu phân đó có ký sinh trùng.
2.4.4. Xử lý kết quả
Số liệu thô được làm sạch bởi nhóm chuyên gia kỹ thuật và chuyển vào phần
mềm Fpi-info 6.4 phiên bản 3. Những kết quả này được thể hiện dưới dạng những
con số, tỷ lệ % và được phân tích kiểm định.

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
20


3.1. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu trên tổng số bênh nhân
Căn cứ vào số liệu của bệnh nhân đến điều trị tại Bệnh viện Đa Khoa Sơn
Tây, chúng tôi đã xác định được tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu trong 6 tháng đầu năm
2008. Kết quả được trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1.Tỷ lệ (%) bệnh nhân thiếu máu trên tổng số bệnh nhân

Đối tượng

Số BN

Tỷ lệ %

Số BN nhập viện


6.484

100%

Số BN thiếu máu

406

6,26%

Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu là 6,26%. Theo nghiên
cứu năm 2002 thì tỷ lệ thiếu máu là 9,98%. Như vậy tỷ lệ thiếu máu giảm so với
nghiên cứu năm 2002 là 3,72%. Đây là một tín hiệu vui mừng, chúng tôi cho rằng
tỷ lệ thiếu máu giảm chủ yếu do điều kiện kinh tế phát triển, đời sống của người dân
được nâng cao. Người dân chăm lo đến sức khoẻ nhiều hơn và họ đã cải thiện dinh
dưỡng trong bữa ăn hàng ngày.
3.2. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu theo giới tính
Kết quả nghiên cứu tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu theo giới tính được trình bày
tại bảng 3.2
Bảng 3.2. Tỷ lệ (%) bệnh nhân thiếu máu theo giới tính

Giới
Đối tượng

Nam

Nữ

Số BN


Tỷ lệ %

Số BN

Tỷ lệ %

Tổng số BN

2.869

44,2

3.615

55,8

Số BN thiếu máu

167

41,3

239

58,7

Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở nữ chiếm 58,7% còn ở nam
giới là 41,3% như vậy tỷ lệ thiếu máu ở giới nữ cao hơn so với nam giới.Vì phụ nữ
thường bị thiếu máu do bị chảy máu nhiều trong khi "vượt cạn”, bị ra máu nhiều

trong “kỳ nguyệt san” và trong một số trường hợp khác như bị sẩy thai, chảy máu
dạ dày…Cơ thể thiếu máu sẽ gây thiếu chất sắt. Vì thế phụ nữ cần bổ sung 15 mg
chất sắt mỗi ngày, với nam giới cần 10 mg chất sắt mỗi ngày [10].

21


Những phụ nữ đang mang thai cần bổ sung lượng chất sắt nhiều hơn so với
bình thường vì chất sắt cần thiết cho cơ thể người mẹ, tốt cho sự phát triển của các
cơ và các tế bào máu đỏ của bào thai. Năm 2006 một nghiên cứu của viện dinh
dưỡng tại 6 tỉnh: Hà Nội, Huế, Bắc Cạn, Đắc Lak, Bắc Ninh và An Giang cũng cho
thấy tỷ lệ thiếu máu ở PNCT là 37,6%, thuộc mức trung bình với ý nghĩa sức khoẻ
cộng đồng. Tuy nhiên con số cụ thể tại từng tỉnh lại rất khác nhau: tại Bắc Kạn tỷ lệ
thiếu máu ở PNCT là 63,4%, Huế là 41,2%, Hà Nội là 36,7%, Đắc Lak là 33,3%,
An Giang là 28% và Bắc Ninh là 16,2% [14].
3.3. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu theo tuổi
Kết quả nghiên cứu tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu theo tuổi được trình bày ở
bảng 3.3.
Bảng 3.3. Tỷ lệ (%) bệnh nhân thiếu máu theo tuổi

Giới

Nam

Nữ

Chung

Số BN


Tỷ lệ %

Số BN

Tỷ lệ %

< 16

41

37,6

68

62.4

109

26,8

16 -36

53

37,6

88

62,4


141

34,7

37 - 60

51

43,2

67

56,8

118

29,1

> 60

13

34,2

25

65,8

38


9,4

Tuổi

Số BN Tỷ lệ %

Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu phân bố tương đối
đồng đều ở độ tuổi nhỏ hơn 16 tuổi; 16 - 36 tuổi và từ 37 - 60 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân
thiếu máu theo các lứa tuổi trên lần lượt là 26,8%; 34,7% và 29,1%. Tỷ lệ bệnh
nhân thiếu máu thấp nhất ở độ tuổi trên 60 tương ứng là 9,4%. Theo số liệu điều tra
gần đây của viện dinh dưỡng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em nhỏ hơn 16 tuổi là
34,1%[4]. Như vậy với tỷ lệ 26,8% trẻ nhỏ hơn 16 tuổi bị thiếu máu ở Bệnh viện Đa
Khoa Sơn Tây thì đây vẫn là con số khá cao.
Ngoài ra kết quả ở bảng 3.3 còn cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở mọi lứa tuổi thì tỷ
lệ thiếu máu ở nữ vẫn luôn cao hơn nam giới.
3.4. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu theo địa dư
Kết quả nghiên cứu tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu theo địa dư được trình bày ở
bảng 3.4.
22


Bảng 3.4. Tỷ lệ (%) bệnh nhân thiếu máu theo địa dư

Thành thị

Nông thôn

Số BN

Tỷ lệ %


Số BN

Tỷ lệ %

172

42,4

234

57,6

Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ thiếu máu phân bố theo địa dư ở nông thôn
chiếm 57,6%; ở thành thị chiếm 42,4%, chủ yếu là thiếu máu do dinh dưỡng và do
ký sinh trùng. Đời sống ở nông thôn còn nghèo nàn kinh tế khó khăn cho nên khẩu
phần ăn của người nông dân không đầy đủ, vì vậy dẫn đến thiếu máu do dinh
dưỡng. Ngoài ra, ở nông thôn có đặc thù làm nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt, ý
thức của người dân chưa được cao, còn dùng phân tươi bón ruộng nên tỷ lệ mắc ký
sinh trùng rất cao. Đây là một nguyên nhân dẫn đến thiếu máu cao.
3.5. Các nguyên nhân thiếu máu
Kết quả nghiên cứu các nguyên nhân thiếu máu được trình bày ở bảng 3.5.
Bảng 3.5.Các nguyên nhân thiếu máu

Nguyên nhân

Số BN

Tỷ lệ %


Do dinh dưỡng

132

32,5

Do mất khối lượng tuần hoàn

93

23,1

Do ký sinh trùng

86

21,1

Các bệnh về máu

36

8,8

Do các bệnh bấm sinh tự miễn

32

7,9


Các nguyên nhân khác

27

6,6

Tổng số

406

100

Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy thiếu máu do rất nhiều nguyên nhân gây ra như
các bệnh về máu, do dinh dưỡng, do ký sinh trùng, mất khối lượng tuần hoàn máu,
do bẩm sinh tự miễn … Qua nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây 6 tháng
đầu năm 2008 cho thấy tỷ lệ thiếu máu do dinh dưỡng là 32,5%. Tỷ lệ này cao hơn
so với các nguyên nhân gây thiếu máu khác. Thiếu máu dinh dưỡng là vấn đề sức
khỏe cộng đồng quan trọng hàng đầu ở Việt Nam cũng như ở Bệnh viện Đa khoa
Sơn Tây hiện nay. Thiếu máu dinh dưỡng là loại thiếu máu phổ biến, hay gặp nhất
là do thiếu sắt, có thể kết hợp với thiếu axit folic, nhất là trong thời kỳ mang thai.
Khi có thai, nhu cầu sắt tăng cao hơn nhiều để phục vụ cho sự phát triển của thai

23


nhi. Các loại thiếu máu dinh dưỡng khác như thiếu vitamin B 123, piridoxin (B6) và
đồng thì ít gặp hơn. Các đối tượng thường có nguy cơ thiếu máu dinh dưỡng là trẻ
em, học sinh và nhất là phụ nữ có thai [22]. Thiếu máu dinh dưỡng làm giảm phát
triển thể lực, giảm khả năng đáp ứng miễn dịch, tăng tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm
trùng tăng tỷ lệ xảy thai, giảm khả năng lao động, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong

của mẹ và con khi sinh nở, dễ bị chảy máu. Đối với trẻ em thiếu máu dinh dưỡng
ảnh hưởng đến phát triển trí tuệ, nhanh bị mỏi mệt, hay ngủ gật… Ngoài ra, nhiều
nghiên cứu khoa học cũng đã cảnh báo vấn đề thiếu sắt dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng
lâu dài đến chất lượng nòi giống. Để cải thiện tình hình này chúng ta cần phải tuyên
truyền và giáo dục ý thức của người dân về dinh dưỡng, tăng khẩu phần ăn hàng
ngày, bổ sung chất sắt vào thực phẩm trên quy mô toàn quốc cũng như trên địa bàn
Sơn Tây và các vùng huyện lân cận. Biện pháp tốt nhất để khắc phục thiếu máu
dinh dưỡng là cải thiện chế độ ăn, đa dạng hóa bữa ăn, dùng nhiều loại thực phẩm
có nguồn gốc động vật, chứa nhiều sắt như thịt, gan, trứng, tiết. Ngoài ra, cần ăn
thêm rau quả và thức ăn giàu vitamin C, vì chất này giúp cơ thể hấp thu tốt chất sắt.
Cần hạn chế uống sữa trong bữa ăn vì sữa làm giảm khả năng hấp thu sắt của cơ
thể.
Ngoài ra, kết quả trên bảng 3.5 cũng cho thấy hai nguyên nhân thiếu máu
chiếm tỷ lệ cao là do mất khối lượng tuần hoàn (23,1%) và do ký sinh trùng là
(21,1%). Với đặc thù quanh vùng Sơn Tây là các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch
Thất…có địa hình đồi núi, giao thông kém phát triển, ý thức chấp hành giao thông
của người dân chưa cao nên tai nạn giao thông còn sẩy ra nhiều với mức độ khá
nghiệm trọng. Mặt khác, mạng lưới y tế cấp cơ sở còn nghèo nàn lạc hậu, nên
những trường hợp tai biến sản khoa khi chuyển lên Bệnh viện Đa Khoa Sơn Tây
thường mất máu nặng và nhiều. Chúng tôi cho rằng đây là hai đặc thù lớn khiến
người dân thiếu máu do mất khối lượng tuần hoàn chiếm tỷ lệ khá lớn.
Hơn nữa, đa số người dân ở Sơn Tây và các vùng lân cận sống chủ yếu dựa
vào nông nghiệp với thói quen dùng phân tươi bón ruộng, ý thức giữ gìn vệ sinh
còn chưa cao nên dẫn đến tỷ lệ mắc ký sinh trùng trong dân là khá lớn. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân thiếu máu phổ biến chiếm 21,1% trong nghiên cứu
của chúng tôi.

24



Mặt khác, nghiên cứu này cũng chỉ ra các bệnh về máu, bệnh bẩm sinh tự
miễn, một số nguyên nhân khác cũng gây nên thiếu máu. Tuy nhiên những nguyên
nhân này chiếm tỷ lệ không cao.
3.6. Tần xuất thiếu máu theo hemoglobin
Kết quả nghiên cứu tần xuất thiếu máu theo Hb được trình theo hình 3.1.

Hình 3.1. Tần xuất thiếu máu theo Hemoglobin

Kết quả ở biểu đồ 3.1 cho ta thấy tỷ lệ thiếu máu đánh giá theo nồng độ Hb
thì thiếu máu nhẹ là 18%, trung bình là 61%, thiếu máu nặng là 21%. Kết quả này
cho thấy đã phản ánh thực trạng thiếu máu đáng báo động trong công tác chăm sóc
sức khoẻ của người dân. Nồng độ Hb là một trong chỉ số đánh giá thiếu máu do
thiếu sắt. Năm 1932, Catle và cộng sự đã thành công trong việc sử dụng sắt vô cơ
để tổng hợp huyết cầu tố, mở ra khả năng bổ xung chế phẩm sắt cho bệnh nhân
thiếu máu. Heath và cộng sự đã đưa ra chứng cớ thuyết phục rằng sắt vô cơ có thể
được sử dụng để tổng hợp Hb, ông chứng minh rằng lượng sắt đưa vào qua đường
uống cho bệnh nhân thiếu máu nhược sắc, có liên quan chặt chẽ với lượng sắt tăng
trong Hb máu [10]. Đây là những nghiên cứu cơ bản cho người thầy thuốc có thêm
cơ sở để điều trị ngày càng tốt hơn cho bệnh nhân thiếu máu đặc biệt do thiếu sắt.
Thiếu máu do thiếu sắt là một bệnh tiềm ẩn, rất phổ biến, để lại nhiều hậu
quả xấu cho cá nhân và xã hội. Năm 1968, WHO đưa ra phân loại và đánh giá thiếu
máu, năm 1989 đưa ra bản tuyên bố chung về phòng chống thiếu máu thiếu sắt. Đến
năm 1992, có đến 90 trong số 112 nước báo cáo có chương trình phòng chống thiếu
máu thiếu sắt, đặc biệt là bổ sung viên sắt cho phụ nữ có thai. Tuy nhiên, một nhận
25


×