MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH
MỤC HÌNH
1.1.1.
Cơ quan quản lý bảo hiểm thất nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ... 62
1.2..................................................................................................................................
1.3..................................................................................................................
1.4.
1.5.
1.6.
1.7.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.1. 1.2. An sinh xã hội
A
1.3. 1.4. Bảo hiểm thất nghiệp
B
1.5. 1.6. Bảo hiểm việc làm
B
1.7. 1.8. Bảo hiểm xã hội
B
1.9. 1.10.
Bảo hiểm y tế
1.11. 1.12.
Khảo sát Dân cư
1.13. 1.14.
Hợp đồng lao
1.15. 1.16.
Hợp đồng làm
B
CP
Hiện thời
H
động
H
việc
1.17. 1.18.
Tổ chức Lao
động quốc tế
1.19. 1.20.
Ngân sách Nhà
N
nước
1.21. 1.22.
Trợ cấp thất
T
nghiệp
1.23. 1.24.
Thông tư liên Bộ
TT
1.25. 1.26.
Thông tư liên
TT tịch
1.27.
1.28.
Uỷ ban nhân dân
U
IL
1.29.
1.8.
1.9. DANH MỤC BẢNG BIỂU
1.10.............................................................................................................................
1.11.............................................................................................................................
1.12. DANH MỤC HÌNH
1.13.
1.14.
4
1.15. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.16.
không
Trong nền kinh tế
thị trường,
thể tránh
để lại
khỏi,
thất nghiệp
là điều
1.17. nhiều hệ lụy đến người lao động, gia đình họ và toàn xã hội như: mất cân đối về
tài chính đối với người lao động; lãng phí nguồn nhân lực xã hội; tệ nạn xã hội gia
tăng, thậm chí đe doạ đến sự ổn định thể chế chính trị của quốc gia,... Để đối phó và
khắc phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, các chế độ trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
mất việc làm hay BHTN là những biện pháp hữu hiệu nhằm thay thế, bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động khi bị thất nghiệp và quan trọng hơn là hỗ trợ họ
học nghề, giới thiệu việc làm để người thất nghiệp sớm quay lại thị trường lao động,
có thu nhập và ổn định lại cuộc sống. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, BHTN là một
trong những chính sách quan trọng góp phần giải quyết các vấn đề về thất nghiệp,
việc làm và đảm bảo ASXH.
1.18.
Tại Việt Nam, quyền lợi của người lao động cũng như tình trạng
thất nghiệp luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm trong từng giai đoạn phát triển kinh
tế - xã hội khác nhau. Giai đoạn trước năm 2009, NSNN đã chi hàng trăm tỷ đồng mỗi năm để
giải quyết cho hàng chục vạn người lao động thông qua các chế độ trợ cấp thôi việc, trợ
tạm ngừng việc,
trợ cấp
mất việc làm hay các
cấp
chế độ trợ cấp đối với
1.19. người lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước,... Để đảm bảo tốt
hơn quyền lợi cho người lao động khi không may bị thất nghiệp và giảm gánh nặng
cho NSNN, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật BHXH, quy định
chi tiết về BHTN có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Sau 5 năm triển khai thực
hiện, BHTN được hoàn thiện hơn trong Luật Việc làm được Quốc hội khóa XIII
thông qua tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Trải qua quá
trình hình thành và sửa đổi đến nay, BHTN đã từng bước đi vào cuộc sống và là
“Phao cứu sinh” cho người lao động khi bị mất việc làm. Theo số liệu của BHXH
Việt Nam đến năm 2015, cả nước đã có trên 10,3 triệu người lao động tham gia
BHTN với số thu vào quỹ BHTN lên đến trên 9,7 nghìn tỷ đồng và đã chi trên 4,5
nghìn tỷ đồng cho hơn 545 nghìn người hưởng chế độ. Qua đó, quỹ BHTN không
những đủ chi các chế độ mà còn kết dư trên 49 nghìn tỷ đồng.
1.20. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý quỹ BHTN vẫn còn bộc lộ
nhiều bất cập về chính sách như: người lao động có đóng BHTN nhưng không hưởng chế độ khi
về hưu, chưa có quy định giới hạn về độ tuổi hưởng BHTN nên một số người lao động hết tuổi
lao động nghỉ việc hưởng chế độ BHTN sau đó mới làm thủ
1.21.
tục hưởng lương hưu, người lao động hưởng chế độ thai sản chủ động xin nghỉ
việc để hưởng cả trợ cấp thai sản và TCTN,... Trong tổ chức thực hiện, tình trạng trục
5
lợi quỹ BHTN vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây ảnh hưởng đến
công tác quản lý và bảo toàn Quỹ BHTN, biểu hiện như: người lao động chủ động
nghỉ việc hoặc bắt tay với người sử dụng lao động làm thủ tục để hưởng chế độ
BHTN trong khi đơn vị vẫn bố trí được việc làm cho người lao động; người lao động
nghỉ việc hưởng TCTN đồng thời vẫn đi làm và đóng BHXH, BHTN tại các địa
phương khác nơi hưởng TCTN để tránh bị phát hiện; một số đơn vị có biểu hiện lách
luật để trốn đóng BHTN bằng cách giao kết hợp đồng
người
1.22.
lao
động
thời hạn dưới
lao
động với
03
tháng hoặc đóng chưa đầy đủ số người trong đơn vị, đóng không đúng mức
lương của người lao động, nợ đọng tiền BHTN,... Thông tin việc làm còn hạn chế,
việc đào tạo nghề còn bất cập về thời gian, kinh phí và ngành nghề đào tạo, chưa đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động. Cơ chế phối hợp trong thực hiện chính sách và
thanh tra, kiểm tra giữa các cơ quan, tổ chức chưa thực sự chặt chẽ,... Mặt khác, quỹ
BHTN hiện nay chủ yếu hướng
tới chitrả chế
thất nghiệp
lớn hơn rất
với
số chi tuyệt đối
độ trợ
cấp
1.23. nhiều lần các chế độ khác, chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động chưa được chi trả, các chính sách
BHTN mang tính chủ động nhằm hạn chế tình trạng sa thải lao động, hỗ trợ mức
đóng BHTN hay nâng cao vai trò của thị trường lao động chưa được quan tâm đúng
mức,... dẫn đến số tiền kết dư của quỹ BHTN hiện nay là khá lớn.
1.24. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, “Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt
Nam” là đề tài được tác giả lựa chọn để nghiên cứu nhằm khắc phục những vấn đề hạn chế, bất
cập, từ đó, góp phần quản lý quỹ BHTN chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu tổng quát
1.25. Đánh giá đúng thực trạng quản lý quỹ BHTN và đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam chặt chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
b. Mục tiêu cụ thể
-
Hệ thống hóa, bổ sung và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quỹ BHTN và
quản lý quỹ BHTN;
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý thu, quản lý chi, cân đối quỹ BHTN. Đồng
thời, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam;
Đề xuất các giải pháp và đưa ra những kiến nghị nhằm quản lý quỹ BHTN chặt
chẽ, hiệu quả và đúng pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
6
1.26. Đối tượng nghiên cứu của luận án là quản lý quỹ BHTN.
b. Phạm vi nghiên cứu
-
Về nội dung: Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý sự
nghiệp quỹ BHTN. Trong đó, chủ yếu nghiên cứu về quản lý thu, quản lý chi, cân đối quỹ
BHTN ở Việt Nam.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu quản lý quỹ BHTN tại Việt Nam.
-
Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2011
đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy
vật lịch sử để hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý quỹ BHTN.
- Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu của thống kê như:
1.27. tổng hợp, phân tích, so sánh đánh giá và liên hệ.
- Trong quá trình nghiên cứu, Luận án kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính và
định lượng. Để thực hiện các phương pháp này, tác giả sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ
cấp được thu thập như sau:
1.28. + Nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, Ngành có liên quan.
1.29. + Nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua các phiếu khảo sát thực tế. Cách
thức và phương pháp thu thập dữ liệu cho nghiên cứu là đặc biệt quan trọng vì nó ảnh hưởng
đến chất lượng của số liệu và ảnh hưởng đến kết quả phân tích (Creswell, 2013). Do đó, để đảm
bảo chất lượng dữ liệu cho nghiên cứu, tác giả thực hiện khảo sát với hai nhóm đối tượng chủ
yếu: Nhóm thứ nhất, là người lao động trên toàn quốc, chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố
có đông lao động, mật độ khu công nghiệp dày đặc như: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng,... Nhóm thứ hai, là các bộ
quản lý quỹ BHTN trên toàn quốc và tập trung chủ yếu ở các địa bàn địa lý nêu trên, mà ở đó,
cán bộ quản lý BHTN nhiều hơn so với các tỉnh khác.
1.30. Theo Privitera (2013) kích thước mẫu nghiên cứu phải đảm bảo hai khía cạnh
sau: (1) đủ lớn và (2) đối tượng chọn mẫu phải đa dạng nhằm phản ánh đúng bản chất của thông
tin. Số lượng phiếu khảo sát đối với người lao động là 2019 người ở các loại hình doanh nghiệp
như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Số lượng phiếu khảo sát đối với cán bộ quản lý quỹ BHTN là 1021, chủ yếu làm công tác
quản lý thu BHTN, chi trả chế độ BHTN ở các tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương và các
quận/ huyện/ thị xã/ thành phố trực thuộc tỉnh. Sau khi loại bỏ các trường hợp không hợp lệ, tác
giả thu về 1613 phiếu hợp lệ với nhóm thứ nhất và với nhóm thứ hai tác giả thu về 976 phiếu
7
hợp lệ. Như vậy, kích cơ mẫu sử dụng cho các mô hình nghiên cứu có thể nói là đủ lớn để đảm
bảo rằng các kết quả phân tích là đáng tin cậy.
1.31. Một số cán bộ cơ quan BHXH mặc dù đã được hẹn trước nhưng không gặp được
trực tiếp vì nhiều lý do khác nhau, tác giả đã thực hiện khảo sát qua điện thoại. Tuy vậy, nhóm
này chiếm tỉ lệ không nhiều và vẫn đảm bảo chất lượng về mặt số liệu.
1.32. Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan, tác giả thực hiện tiếp 1 đợt khảo sát thông
qua phiếu khảo sát điện tử được tạo trên công cụ “Google docs forms” cho cả ba nhóm đối
tượng là người lao động, chủ sử dụng lao động và cán bộ BHXH trên phạm vi cả nước để phân
tích, đánh giá các nhân tố tác động đến công tác quản lý quỹ BHTN. Sau khi thu thập và xử lý
dữ liệu, tác giả thu về 828 mẫu phiếu hợp lệ đối với người lao động, 359 mẫu phiếu hợp lệ đối
với người sử dụng lao động và 404 mẫu phiếu hợp lệ đối với cán bộ BHXH.
1.33. Do đối tượng được khảo sát trải rộng trên toàn quốc nên khoảng thời gian cần
thiết để thực hiện kéo dài từ tháng 07/2016 đến tháng 04/2017.
1.34. - Các nguồn dữ liệu sau khi thu thập được phân tích trên bảng, biểu và sử dụng
phần mềm SPSS (Phần mềm thống kê dành cho khoa học xã hội - Statistical Package for the
Social Sciences) để phân tích, đánh giá cho nghiên cứu này.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
5.1.
Một số nghiên cứu trên thế giới
1.35. Bảo hiểm thất nghiệp không phải là vấn đề mới, từ những năm đầu của thế kỷ XX
để góp
phần giải quyết tình trạng mất việc làm trên thế
giới, nhất là ở các nước
1.36. công nghiệp, ILO Convention (1919), phê chuẩn Công ước thất nghiệp C2 vào
năm 1919. ILO Convention (1934), Tổ chức này tiếp tục phê chuẩn Công ước số 44
vào ngày 04/6/1934 về bảo đảm tiền trợ cấp cho những người thất nghiệp. Trên cơ sở
Công ước này, nhiều nước đã ban hành chính sách về BHTN. ILO Convention
(1952), Công ước An sinh xã hội C102 năm 1952; ILO Convention (1991), Công ước
xúc tiến, hỗ trợ và bảo vệ phòng chống thất nghiệp C168 năm 1991. Những công ước
này là định hướng cho các nước hoạch định chính sách tìm kiếm biện pháp phòng
chống thất nghiệp để bảo vệ người lao động và gia đình họ. Để hoạch định và tổ chức
thực hiện được những chính sách này là hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,
chính trị và xã hội của từng nước.
1.37. Trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học công bố những công trình nghiên cứu về
BHTN và các vấn đề liên quan.
1.38. - Wandner, S. A., & Stengle, T. (1997) đã chỉ ra thực tế là trong những năm gần
đây, cứ mỗi tháng lại có khoảng 1/3 số người lao động thất nghiệp có trong danh sách những
người nhận trợ cấp định kỳ theo thống kê của Khảo sát Dân cư Hiện thời (CPS). Những cá nhân
này gọi là người thất nghiệp được bảo hiểm. Tỷ lệ những người đang nhận bảo hiểm được gọi là
8
tỷ lệ người thụ hưởng thất nghiệp. Có rất nhiều cách tính tỷ lệ thụ hưởng
và mỗi cách tính
thất nghiệp
lại có những ý nghĩa riêng. Mục đích của
1.39. nghiên cứu này nhằm giới thiệu các tính chỉ tiêu, tỷ lệ người thụ hưởng thất
nghiệp. Từ đó, để mọi người thảo luận và vận dụng trong thực tiễn.
1.40.
CPS giới thiệu số liệu người thất nghiệp toàn cầu. Dựa vào khảo sát trên một
số hộ gia đình, phương pháp này xác định tất cả những người thất nghiệp đang tìm kiếm việc
làm trong
một đơn vị thời gian nhất định trong tháng. Tất
cả những người đang
1.41. tìm việc làm, bất kể do bị mất việc hay bỏ việc, bất kể đó là công việc đầu tiên
hay họ mới quay lại làm việc, bất kể họ có gắn bó với công việc đó hay không và bất
kể thời gian thất nghiệp là một tuần hay vài năm, đều được CPS tính đến.
1.42.
1.43.
Ngược lại, khái
niệm về
hiểm dựa
những
trên
người thất nghiệp
được bảo
nguồn thông tin hoàn toàn khác lại mang tính hạn chế hơn. Người thất
nghiệp được bảo hiểm
vào hệ
1.44.
thống
gồm tất
BHTN.Họ phải
cả
những
người
tham
gia
đáp ứng
những điều kiện thụ hưởng ban đầu và đang yêu cầu hay đang được thụ
hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 01 tuần thất nghiệp. Họ thường là những người lao
động có gắn bó với công việc nhưng bị ép buộc phải thôi việc và có khả năng tìm
kiếm việc khác. Họ có thể có
được tính
tiền lương
như một người
và
vẫn
thất nghiệp vì khoảng thời gian họ
1.45. nhận trợ cấp thất nghiệp là hạn chế, đa số thường chỉ thất nghiệp trong khoảng
dưới 06 tháng. Theo hồ sơ hành chính, số lượng người thất nghiệp được tính định kỳ
theo tuần.
1.46. Trong thời kỳ khủng hoảng, người ta dường như đã không còn bận tâm về vấn đề
người thụ hưởng chương trình định kỳ vì có quá nhiều sự thay đổi liên quan đến
1.47. thất nghiệp với tỷ lệ người thất nghiệp và người thụ hưởng gia tăng. Tuy nhiên,
cùng lúc đó, trợ cấp từ các chương trình định kỳ được cho là ngày càng cao, và người
ta lại đặt câu hỏi
thất
nghiệp
về
việc liệu
có bao nhiêu lao
rời
khỏi chương trình mà
động
1.48. không nhận được trợ cấp thu nhập nào thêm? Mối bận tâm lúc này là liệu trợ cấp
BHTN có đủ kéo dài để ngăn ngừa tình trạng kiệt quệ về tài chính và nếu có kéo dài
thêm thì sẽ kéo dài đến bao lâu?
1.49. Các tác giả cho rằng tỷ lệ người thụ hưởng có những ý nghĩa khác nhau vì nó liên
quan đến hai thước đo khác nhau. Tỷ lệ này có tác động tới bất cứ tranh cãi nào về tính hợp lý
của chương trình BHTN và vì thế cần phải xem xét kỹ lưỡng khi đưa ra chính sách. Ngoài ra tài
liệu này còn cho rằng không nên sử dụng tỷ lệ thụ hưởng như một công cụ phân tích chính sách
9
khi khủng hoảng xảy ra bằng cách đưa ra những thước đo khác tỷ lệ thụ hưởng và cách sử dụng
chúng trong tương lai.
1.50. Có thể thấy, nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến sự tác động của BHTN tới tình
hình lao động việc làm, việc trở lại làm việc sau thất nghiệp, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp và
tác động của BHTN đến an sinh xã hội. Tuy nhiên, nghiên cứu không đi sâu vào công tác quản
lý và cân đối quỹ BHTN, cho dù tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ người thụ hưởng có ảnh hưởng đến
quỹ và quản lý quỹ BHTN.
1.51.
- Schwartz, J. (2009) phân tích mối tương quan giữa BHTN tại
Mỹ và chu kỳ kinh doanh. Nghiên cứu thứ nhất xây dựng mô hình xác định mức điều chỉnh trợ
cấp BHTN tối ưu nhất cho chu kỳ kinh doanh. Mô hình này hỗ trợ hiệu quả cho việc tăng cường
trợ cấp BHTN cho người thất nghiệp lâu dài trong thời kỳ suy thoái. Tại Mỹ, cơ chế để bắt đầu
mở rộng trợ cấp BHTN khi tỷ lệ thất nghiệp của một bang đạt tới một ngưỡng nhất định. Cơ chế
này được xem là thiết kế không hiệu quả và việc mở rộng chỉ có thể được thực hiện ở một số ít
bang trước khi xảy ra khủng hoảng. Tiểu luận thứ hai phân tích tính khả thi của các mô hình
Markov Switching (MS) nhằm xác định ở chu kỳsuy thoái nào trong thị
có
1.52.
thể thực
hiện mở rộng
trợ
trường lao động
cấp
BHTN. Tăng cường trợ cấp trong thời kỳ suy thoái với mô hình MS dựa theo
khoảng thời gian thất nghiệp trung bình liên kết chặt chẽ hơn với việc kéo dài thời
gian đảm nhận một công việc tạm thời hơn là các chương trình hiện thời và các giải
pháp đề xuất khác. Tiểu luận cuối cùng tập trung vào tác động của chương trình mở
rộng tự động tại Mỹ tới hành vi tìm kiếm. Với chương trình này, có một sự không
chắc chắn trong việc thụ hưởng trợ cấp của cá nhân người tham gia bởi việc mở rộng
mang tính ngẫu nhiên và không chắc chắn vì
thất
nghiệp
phụ thuộc vào
tại một bang. Tác giả sử
tỷ
lệ
dụng
1.53. cách tiếp cận hồi quy gián đoạn để xác định ảnh hưởng của chương trình tới
khoảng thời gian thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp ở quy mô hạt. Tác giả nhận thấy
rằng việc mở rộng trợ cấp có tác động đáng kể đến cả hai yếu tố trên, sự không chắc
chắn ở chương trình này có thể tác động đáng kể đến tỷ lệ thất nghiệp ở hạt.
1.54. Kết luận của nghiên cứu này có thể sử dụng như nguồn tài liệu hướng dẫn các
nhà hoạch định chính sách nhằm thiết kế một hệ thống BHTN tối ưu, xác định thời điểm suy
thoái của thị trường lao động và hiểu rõ tác động của việc tăng cường trợ cấp một cách tự động
trong thời kỳ suy thoái tới hành vi tìm hiểu của người dân. Tuy nhiên, các chuỗi nghiên cứu này
chưa đề cập đến việc quản lý quỹ BHTN, mà chỉ đề cập đến thời kỳ suy thoái của thị trường lao
động như một nhân tố tác động lớn đến quỹ và quản lý quỹ BHTN.
1.55. - Mullins, S. D. (2012) phân tích tác động của thất nghiệp tới việc mở rộng bảo
hiểm thất nghiệp vào năm 2008. Robert J. Barro, báo Wall Street, 30/8/2010 đã từng đưa ra dự
1
0
đoán rằng tỷ lệ thất nghiệp có thể xuống thấp hơn 6,8% thay vì 9,5% nếu trợ cấp thất nghiệp
không được mở rộng đến 99 tuần.
1.56. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung bình đạt 4,6% trong vòng 02 năm trước cuộc
khủng hoảng năm 2008-2009 và sau đó vào mùa hè năm 2010, con số này đã tăng lên hơn gấp
đôi. Robert Barro lúc
đó đã nghiên cứu
đánh giá liệu sự gia tăng tỉ lệ thất
1.57. nghiệp này có tác động như thế nào tới sự thay đổi trong chính sách BHTN. Phân
tích của ông gợi ý rằng: khủng hoảng không thực sự nghiêm trọng như những gì số
liệu thống kê thất nghiệp đưa ra bởi vì hơn một nửa phần tăng trong tỷ lệ thất nghiệp
kể từ khi khủng hoảng bắt đầu là do việc mở rộng BHTN. Barro tin tưởng rằng
Chính phủ cần xem xét lại việc mở rộng BHTN.
1.58.
Chương trình BHTN là một ví dụ hoàn hảo phản ánh chính sách của Chính
phủ phải đối mặt với sự thỏa hiệp giữa công bằng và hiệu quả kinh tế (Okun 1975). Động cơ
triển khai BHTN năm 1935 chính là từ lòng thương cảm nhằm mang đến sự trợ giúp tạm thời
cho những người đang phải đối mặt với tổn thất về thu nhập trong thời kỳ suy thoái kinh tế lan
rộng. Nhưng tất nhiên, việc gì cũng có hai mặt. Tính thiếu hiệu quả có thể được nhìn thấy khi trợ
cấp này nhằm hỗ trợ người dân kéo dài tình cảnh thất nghiệp mà BHTN đang tìm cách để kéo họ
ra??? Các nhà kinh tế học từ lâu đã chấp nhận rằng trợ cấp BHTN có thể dẫn đến việc kéo dài
tình trạng thất nghiệp (Kartz và Meyer 1990; Chetty 2008). Một số chuyên gia khuyến nghị rằng
tính thiếu hiệu quả có thể nghiêm trọng
rộngtrợ
đến nỗi phải xem xét lại
việc
mở
cấp thất nghiệp (Barro)
1.59. hoặc hủy bỏ chương trình BHTN hiện thời, thay bằng tài khoản tiết kiệm tạm ứng
cá nhân (Feldstein và Altman 1998).
1.60.
Cuộc khủng hoảng hiện thời cùngvới
tình trạng thất nghiệp
kéo dài (Farber 2011) và chính sách mở rộng trợ cấp thất nghiệp chưa
từng có tiền lệ (Bộ Lao động Mỹ 2011) đã thu hút sự quan tâm trong những thảo luận về chính
sách của Chính phủ. Trợ cấp BHTN có thể được đề xuất xóa bỏ nếu chính sách mở rộng trợ cấp
này trong những năm vừa qua được xác định là làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Ở khía cạnh khác,
nếu sự gia tăng này là không đáng kể, chính sách hạn chế trợ cấp có thể “trừng phạt” những cá
nhân chịu tác động của khủng hoảng kinh tế nhưng lại “đút túi” một món lời nhỏ.
1.61.
Nghiên cứu này cho thấy việc mở rộng chính sách BHTN, việc kéo dài thời
gian nhận
trợ cấp BHTN của người lao động bị thất nghiệp có tác động trực tiếp và
1.62. làm gia tăng người bị thất nghiệp. Điều này đương nhiên ảnh hưởng đến quỹ và
quản lý quỹ BHTN. Song nghiên cứu không đi sâu vào vấn đề chính mà luận án
hướng tới.
- Carter, J., Bédard, M., & Bista, C. P. (2013) nghiên cứu so sánh kinh nghiệm
1.63.
thực hiện bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm việc làm khu vực Châu Á và trên
thế giới. Trong nghiên
về các chương
cứunày đã
trình bày tổng quan
trình
hiểm thất
bảo
1.64. nghiệp và bảo hiểm việc làm đang được thực hiện tại 14 quốc gia, như một
phương án hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm trong khi
1
1
họ thay đổi công việc, và tìm kiếm việc làm mới. Các quốc gia được lựa chọn làm
đối tượng cho nghiên cứu này không chỉ đa dạng về mặt địa lý, mà còn đang trong
các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. Có hai quốc gia ở Bắc Mỹ (Canada và
Hoa Kỳ), hai ở Nam Mỹ (Argentina và Chile), ba ở Châu Âu (Đan Mạch, Pháp,
Đức), một ở Trung Đông (Bahrain), hai nước là thành viên của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) (Thái Lan và Việt Nam), và bốn nước cuối cùng thuộc khu
vực Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ và Hàn Quốc).
1.65. Nghiên cứu này thực chất chỉ là một bài báo nêu lên các đặc điểm chính và thực
tiễn triển khai một số chương trình BHTN - có ba nước gọi là chương trình bảo hiểm việc làm nhưng không đi vào nghiên cứu chi tiết tất cả các đặc điểm và đưa ra các số liệu cụ thể. Đồng
thời, bài báo cũng nêu lên những bức tranh toàn cảnh vè BHTN ở 14 quốc gia đại diện cho các
Châu lục khác nhau để dễ dàng so sánh. Vì thế, việc đi sâu vào nghiên cứu quỹ và quản lý quỹ
BHTN chưa được thực hiện. Hơn nữa, báo cáo chỉ được trình bày dưới dạng liệt kê, phản ánh
các vấn đề có liên quan đến BHTN ở từng nước để người đọc tự so sánh, tự liên hệ...
-
Hu, Y. W., Impavido, G., & Li, X. (2009) đã nêu lên vấn đề về hệ thống hưu trí
của Trung Quốc có sự phân hoá và phân cấp cao, với các tiêu chuẩn quản trị, thực tiễn quản lý
quỹ hưu trí, quy định và giám sát của họ khác nhau đáng kể giữa các thành phần được hỗ trợ của
hệ thống lương hưu Trung Quốc và các tỉnh. Báo này mô tả các thành phần chính của hệ thống,
nhấn mạnh những tiến bộ đã đạt được cho đến nay và xác định các điểm yếu còn lại liên quan
đến công bố thông tin, khung quản trị và các tiêu chuẩn quản lý quỹ lương hưu. Tuy rằng, báo
cáo này đề cập đến quản lý quỹ trong hệ thống hưu trí có tính tương đồng với vấn đề mà luận án
đang nghiên cứu nhưng chỉ đề cập đến quản lý quỹ trên góc độ của một tổ chức, bộ máy quản trị
quản lý quỹ hưu trí. Những vấn đề liên quan đến đối tượng tham gia, mức đóng, mức hưởng, các
nhân tố tác động đến việc quản lý quỹ trong báo cáo chưa đề cập.
5.2.
Các công trình nghiên cứu trong nước
1.66. Cả trước và sau khi chính sách pháp luật về BHTN ở Việt Nam được thực hiện
(01/01/2009) đã có không ít những nghiên cứu liên quan đến vấn đề này của các nhà khoa học,
các nhà quản lý:
-
Đỗ Văn Sinh (2005) đã nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận về quỹ BHXH, quản
lý quỹ BHXH ở Việt Nam. Tác giả cũng đã chỉ ra những nhân tố tác động đến quỹ BHXH đó là:
nhân tố chính sách, nhân tố tổ chức thực hiện, các nguồn tài chính vận động làm tăng quy mô
quỹ BHXH, giảm quỹ BHXH. Và các nội dung quản lý quỹ BHXH. Trên cơ sở đó, tác giả đã
phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quỹ BHXH trong giai đoạn nghiên cứu, cụ thể tập trung
nghiên cứu quỹ hưu trí và trợ cấp giai đoạn từ năm 1995 - 2003 và quỹ khám chữa bệnh từ năm
1998 - 2003 về chính sách, mô hình quỹ, phương thức quản lý và hệ thống tổ chức bộ máy quản
lý quỹ BHXH để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. Xuất phát từ những thực
trạng, tồn tại, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam gồm:
1
2
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chế độ hình thành và sử dụng quỹ BHXH; Hoàn thiện
hoạt động nghiệp vụ quản lý quỹ BHXH; Hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán
quỹ BHXH; Hoàn thiện hoạt động thông tin, tuyên truyền về chính sách BHXH; Các giải pháp
điều kiện về mô hình tổ chức bộ máy, cán bộ, trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ quản lý quỹ
BHXH;...
1.67.
như: Đối
Nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến quỹ và quản lý BHXH
tượng tham gia, đối tượng thụ hưởng, mô hình
tổ chức thực hiện,...
Tuy
1.68. nhiên, nghiên cứu này được thực hiện trước khi Luật BHXH ban hành và là một
trong những nghiên cứu có tính tương đồng về quỹ BHTN, quản lý quỹ BHTN. Do
đó, công trình này sẽ được tác giả kế thừa những vấn đề liên quan để nghiên cứu
trong luận án này.
-
Nguyễn Văn Định (2008) nghiên cứu và đề xuất mô hình tổ chức bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam. Nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận về thất nghiệp, trợ cấp thất
nghiệp và BHTN, đánh giá đúng thực trạng thất nghiệp ở nước ta, nhu cầu và
1.69.
khả năng tham gia BHTN, xác định những nội dung liên quan đến
BHTN và đề xuất mô hình tổ chức BHTN ở nước ta. Nghiên cứu sử dụng một số
phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh và điều tra, khảo sát thực tế cụ thể ở
Thủ đô Hà Nội với một số doanh nghiệp đại diện trên địa bàn. Tác giả đã làm rõ một
số vấn đề về thất nghiệp, các biện
thất
pháp, chính sách
nghiệp và nội dung cơ
khắc phục
tình trạng
bản của
1.70. BHTN, cùng với đó đề xuất hai mô hình tổ chức BHTN ở Việt Nam bên cạnh
việc nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức BHTN tại các nước như: Cộng hòa Liên bang
Đức, Trung Quốc, Thái Lan.
1.71.
Nội dung của đề tài đề cập đến thực trạng thất nghiệp, nhu cầu và khả năng
tham gia BHTN ở Việt Nam. Đề tài dựa trên các chính sách và một số biện pháp giải quyết tình
trạng thất nghiệp ở nước ta những năm trước đó và đưa ra mô hình tổ chức BHTN ở Việt Nam.
Theo mô hình tổ chức BHTN của tác giả thì BHTN Việt Nam phải tổ chức theo một hệ thống
dọc với 3 cấp (cấp trung ương, cấp tỉnh/ thành phố, cấp huyện/ quận/ thị xã). Chính vì thế,
nghiên cứu này đã kiến nghị nên gắn BHTN vào hệ thống BHXH hiện hành. Cơ quan BHXH
các cấp vừa nắm đối tượng tham gia BHTN, vừa thực hiện công tác thu - chi BHTN và quản lý
đối tượng hưởng trợ cấp BHTN... Điều đó cũng có nghĩa coi BHTN giống như một chế độ
BHXH bắt buộc, nên khi tổ chức thực hiện phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống.
Có thể nói đây là một đề tài được nghiên cứu khá toàn diện và hết sức công phu, đồng thời cũng
rất phù hợp với Việt Nam khi tổ chức triển khai. Tuy nhiên, thực tế tổ chức triển khai chính sách
BHTN ở nước ta lại khác. Bộ lao động thương binh và xã hội ngoài việc thực hiện chức năng
là
quản
lý Nhà nước về BHTN,
cũng tham gia quản lý sự nghiệp
1
3
1.72.
BHTN. Còn BHXH Việt
Nam
chỉ thực
hiện các nghiệp
thu và chi
trả trợ cấp
vụ
1.73. BHTN cho người lao động.
1.74. Nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến quản lý thu BHTN như:
Đối tượng tham gia, hình thức triển khai, mức đóng góp BHTN; một số vấn đề liên quan đến
quản lý chi trả chế độ như: Mức hưởng, Điều kiện hưởng, Thời gian hưởng và vấn đề về chi chế
độ BHTN khác. Tuy nhiên, nghiên cứu này được thực hiện trước khi chính sách BHTN có hiệu
lực và chưa đề cập đến quỹ BHTN cũng như quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam.
1.75. - Nguyễn Vinh Quang (2009) nghiên cứu các mô hình và kinh nghiệm thực hiện
bảo hiểm thất nghiệp trên thế giới với mục đích đưa ra các thông tin cô đọng và khái quát bức
tranh về các mô hình BHTN điển hình trên thế giới tại các nước phát triển, các nước đang phát
triển và các nước chuyển đổi. Về cơ sở lý thuyết, chuyên đề đưa ra một số định nghĩa về BHTN
như: Trong Công ước 102/1952 về An sinh xã hội (Các
1.76.
Tiêu chuẩn tối thiểu) và Công ước 168/1988 về thúc đẩy việc làm và
bảo đảm người lao động chống lại thất nghiệp, ILO đã xác định: BHTN là một hình
thức bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một
thời gian giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra
việc mất thu nhập mà họ và gia đình họ dựa vào đó; Từ điển bách khoa toàn thư
Columbia định nghĩa: BHTN là loại hình bảo hiểm chống lại sự mất thu nhập trong
khoảng thời gian một người lao động khoẻ mạnh bị thất nghiệp một cách không tự
nguyện. Mục đích của hình thức bảo hiểmnày là cung
tối
thiểu
cho
người
lao động bị
cấp một
khoản trợ
cấp
thất
1.77. nghiệp đến khi họ tìm lại được việc làm; Từ điển bách khoa toàn thư Britannica
định nghĩa: BHTN là một loại hình BHXH được xây dựng nhằm đền bù cho người
lao động trong một giai đoạn ngắn hạn do bị thất nghiệp không tự nguyện. Mục đích
cơ bản của BHTN là cung cấp sự trợ giúp tài chính cho các lao động mất việc trong
một khoảng thời gian đủ để cho phép họ tìm việc làm khác hoặc được thuê lại làm
công việc cũ.
1.78.
Trong chuyên đề này, tác giả tập trung nghiên cứu các yếu tố như: Đối
tượng tham gia, nguồn đóng góp, điều kiện hưởng, trường hợp loại trừ, các hình thức cung cấp
chế độ BHTN, mức hưởng, thời gian hưởng và cơ quan thực hiện. Các yếu tố này được đưa vào
phân tích so sánh tại các nước phát triển bao gồm: các nước Bắc Âu, Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hàn
Quốc; Các nước đang phát triển bao gồm: các nước Mỹ Latinh, Thái Lan; Và tại các nước
chuyển đổi bao gồm các nước Đông Âu và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, chuyên đề đã khái quát,
đánh giá mô hình BHTN tại các nước và đưa ra bốn khuyến nghị: Thứ nhất, đối tượng tham gia
nên mở rộng diện bao phủ chế độ BHTN; Thứ hai,
thời
quy định theo
đóng
cả độ
tuổi
và thời gian
gian hưởng
nên
1
4
1.79. góp bảo hiểm thay vì chỉ dựa vào thời gian đóng bảo hiểm; Thứ ba, quản lý hành
chính cần thiết lập một cơ chế phối hợp cụ thể giữa các cơ quan liên quan để tạo điều
kiện thuận lợi cho người lao động và công tác quản lý đối tượng; Thứ tư, hình thức
cung cấp chế độ cần được đa dạng hoá.
1.80. Nghiên cứu đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến quản lý thu BHTN, như: đối
tượng tham gia, nguồn đóng góp; một số vấn đề liên quan đến quản lý chi BHTN, như: mức
hưởng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng; và một số vấn đề về tổ chức thực hiện chính sách
BHTN. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa đề cập đến quỹ BHTN cũng như quản lý quỹ BHTN tại
các nước trên thế giới và được thực hiện trước khi chính sách BHTN ở Việt Nam có hiệu lực thi
hành.
1.81. - Phạm Trường Giang (2010) nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ
chế thu Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam với mục đích nghiên cứu sự phối hợp giữa các bộ phận
trong hệ thống thu BHXH từ đó phát hiện ra những hạn chế, bất cập nhằm đưa ra những giải
pháp hoàn thiện cơ chế thu BHXH ở Việt Nam.
1.82. Luận án đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và làm rõ khái niệm, vai trò của thu BHXH
từ đó đưa ra khái niệm về cơ chế thu BHXH, nội dung cơ bản của cơ chế thu BHXH. Trong quá
trình phân tích thực trạng cơ chế thu BHXH ở Việt Nam, cơ chế thu BHXH được đánh giá phải
đảm bảo qua 5 tiêu chí, cụ thể: tính minh bạch, tính thuận tiện,
tính kiểm
soát, tính trôi chảy
tính
hiệu
quả,
trong vận hành. Và một số chỉ
1.83. tiêu cơ bản đánh giá cơ chế thu BHXH là: tỷ lệ lao động tham gia BHXH, kết quả
cấp sổ BHXH, tỷ lệ nợ đóng BHXH, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu BHXH. Sau khi
đánh giá các tiêu chí, tác giả đưa ra những kết quả đạt được và một số hạn chế về cơ
chế thu BHXH như: Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn chậm, sự
phối hợp chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên, hoạt động thu nộp phí BHXH chưa
thuận tiện, sự kiểm soát đối với hoạt động thu BHXH chưa chặt chẽ, tỷ lệ lao động
tham gia BHXH thấp, ứng dụng CNTT trong hoạt động thu BHXH còn nhiều hạn
chế. Với những hạn chế đó, tác giả đã đưa ra nhiều nhóm giải pháp, trong đó tập
trung vào các giải pháp hoàn thiện cơ chế thu BHXH: Hoàn thiện các quy định về thu
BHXH; Tăng cường quan hệ công chúng vào hoạt động BHXH; Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; Ứng dụng CNTT và cải cách hành chính.
1.84. Đây là một công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về cơ chế thu BHXH.
Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ có tính tương đồng với luận án và được kế thừa để nghiên cứu về
hoạt động thu BHTN do cơ quan BHXH thực hiện thu đồng thời với BHXH.
1.85. - Nguyễn Thị Chính (2010) nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến công
tác tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, đánh giá thực trạng từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH
cho người lao động ở Việt Nam. Tác giả đã tiếp cận cơ sở lý thuyết khá chi tiết về BHXH trong
1
5
đó có quỹ BHXH, nghiên cứu các kinh nghiệm về tổ chức chi trả các chế độ BHXH tại Mỹ,
Nhật, Trung Quốc, Pháp... và đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1.86. Thực trạng hệ thống tổ chức chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam được tác giả
phân tích rất chi tiết, từ quy trình chi trả các chế độ BHXH đến phân tích các tồn tại của hoạt
động chi trả các chế độ BHXH. Qua đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam như: Giải pháp hoàn thiện hệ
thống tổ chức chi trả BHXH; Giải pháp hoàn thiện hoạt động chi trả BHXH; Hoàn thiện phương
thức chi trả; Quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả; Tăng cường phương tiện phục vụ công tác
chi trả; Kiện toàn công tác cán bộ; Tăng cường kiểm tra, thanh tra trong các khâu chi trả; Quản
lý chặt chẽ chi trả các chế độ
1.87. BHXH ngắn hạn; tăng lệ phí chi trả...
1.88. Nghiên cứu này đề cập sâu đến quản lý chi trả chế độ BHXH và quỹ BHXH,
những vấn đề tương đồng với luận án đang nghiên cứu. Vì vậy, sẽ được kế thừa để nghiên cứu
những vấn đề liên quan mà luận án đề cập.
1.89. - Lê Quang Trung (2011) nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực trạng tham gia
BHTN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian qua và khuyến nghị các giải pháp
thúc đẩy các doanh nghiệp này tham gia BHTN giai đoạn đến năm 2020. Qua nghiên cứu cơ sở
lý thuyết, đề tài đưa ra một số khái niệm cơ bản và vai trò, đặc điểm phân loại các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Đặc biệt, đề tài chỉ ra các yếu tố tác động đến việc tham gia BHTN của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: Các quy định của pháp luật về BHTN, việc tuyên truyền
và nâng cao nhận thức về BHTN, việc tổ chức triển khai và thực hiện chính sách BHTN, vai trò
của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện chính sách BHTN, kiểm tra, thanh tra và xử lý các
vi phạm hành chính về BHTN. Đồng thời đề tài nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và thực hiện
chính sách BHTN của một số nước trên thế giới.
1.90. Nghiên cứu thực trạng tham gia BHTN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
đề tài rút ra một số tồn tại, đó là: về mặt nhận thức của người lao động, chủ sử dụng lao động và
các cơ quan tổ chức có liên quan còn rất hạn chế. Mặt khác, còn tồn tại một số khó khăn trong
công tác thu BHTN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi đơn vị lách luật về đối
tượng tham gia hay nói cách khác là thiếu bình đẳng trong hỗ trợ doanh nghiệp lớn và nhỏ bởi
giới hạn số lượng lao động để tham gia BHTN; hoặc trụ sở đơn vị không rõ ràng gây khó khăn
cho cơ quan quản lý thực hiện thu BHTN. Để khắc phục những tồn tại đó, đề tài đưa ra bốn giải
pháp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHTN trong thời gian tới. Cụ thể,
với giải pháp 1:
BHTN, đề
Giải pháp hoàn
thiệnchính sách, pháp
xuất mở rộng
đối
luật
về
1.91. tượng tham gia BHTN, quy định trách nhiệm của chủ sử dụng lao động trong
việc tham gia BHTN và các cơ quan thực hiện chính sách, đồng thời quy định về
thanh tra, kiểm tra, rà soát tình hình tham gia BHTN; Giải pháp 2: giải pháp về tổ
chức thực hiện, tăng cường thông tin tuyên truyền, tập huấn thực hiện chính sách;
1
6
Giải pháp 3: giải pháp về thanh tra, kiểm tra và phát hiện các vi phạm, xử lý các vi
phạm; Giải pháp 4: các giải pháp hỗ trợ khác.
1.92. Tuy nhiên, liên quan đến quỹ BHTN và quản lý quỹ BHTN lại được trình với nội
dung
rất hạn chế, có chăng chỉ đề cập đến các yếu tố có liên quan đến
1.93. thành và
đối
sử
tượng
dụng
quỹ, như:
tham gia,
mức đóng,
việc hình
chính sách, pháp luật,
1.94. thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật.
- Trung tâm phát triển xã hội và môi trường vùng (CERSED) (2013) nghiên cứu, phân
tích và đánh giá tình hình hoạt động của quỹ BHTN trong giai đoạn 2009 - 2012, xác định các
yếu tố đầu vào, yếu tố đầu ra cũng như các yếu tố tác động tới tình hình hoạt động của quỹ.
Đánh giá, dự báo tình hình phát triển của quỹ, tính bền vững của quỹ trong bối cảnh có những
thay đổi của các yếu tố có liên quan. Và đề xuất mô hình chuyển đổi xây dựng quỹ bảo hiểm
việc làm dựa trên quỹ BHTN.
1.95. Nghiên cứu phân tích thực trạng hoạt động quỹ BHTN giai đoạn 2009 - 2012. Cụ
thể: Đối với hoạt động thu BHTN là thực trạng về đối tượng tham gia và thu BHTN. Đối với
hoạt động chi là thực trạng về các hoạt động như chi trợ cấp thất nghiệp, chi
giới
thiệu việc làm, chi
tư
vấn,
hỗ trợ đào tạo nghề, chi BHYT, chi phí
1.96. quản lý. Qua đó, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu BHTN gồm 3 yếu tố:
đối tượng tham gia, mức hỗ trợ của Nhà nước, mức đóng. Và các yếu tố ảnh hưởng
tới hoạt động chi của quỹ BHTN gồm 7 yếu tố: xác định nguyên nhân nghỉ việc, thời
gian đăng ký thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp một lần, xác định mức trần hưởng và
mức sàn hưởng, thời gian tính trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề và giới thiệu việc
làm, chi khác. Đồng thời nghiên cứu cũng dự báo tình hình phát triển quỹ BHTN đến
năm 2025 và đưa ra một số khuyến nghị.
1.97.
Đây là một trong những nghiên cứu khá đầy đủ cả về hoạt động thu và chi trả
trợ cấp thất nghiệp. Trên cơ sở đó, dự báo tình hình phát triển quỹ BHTN qua các nhân tố ảnh
hưởng
đến nó với thước đo cụ thể cho từng nhân tố. Tuy nhiên, dưới góc độ
1.98. quản lý quỹ BHTN thì đề tài này lại chưa đề cập đến.
-
Lê Thị Phương Thảo (2014) đã nghiên cứu và làm rõ thêm cả về lý luận và thực
tiễn về BHTN, quản lý quỹ BHTN; Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý quỹ BHTN
tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hưng Yên, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót để
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác quản lý quỹ BHTN tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Hưng Yên.
1.99. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận về quản lý quỹ BHTN,
kinh nghiệm quản lý quỹ BHTN và bài học rút ra cho tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên, tác giả chưa
làm rõ được những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Đồng thời, chưa có bộ chỉ tiêu để đánh giá những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN. Mặt
1
7
khác, phần lý luận về quản lý quỹ BHTN trình bày còn sơ sài, chưa có tính hệ thống và phạm vi
nghiên cứu ở một tỉnh...
- Trần Quang Lâm (2016) nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về những nhân tố tác
động đến nguồn thu của quỹ BHYT nói chung và ở Việt Nam nói riêng để đưa ra các nhóm giải
pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn thu của quỹ BHYT.
1.100.
Luận án đã bổ sung vào hệ thống cơ sở lý luận về quỹ BHYT và nguồn thu
của quỹ BHYT. Đặc
nhiều
biệt,
nhân tố tác
nghiên
cứu
đã phân tích và chỉ ra
độngđến
1.101. nguồn thu của quỹ BHYT, bao gồm: Chính sách pháp luật, điều kiện kinh tế - xã
hội, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật, chất lượng KCB, tổ chức
thu, đối tượng tham gia, mức đóng góp BHYT v.v... Nghiên cứu đã phân tích từng
nhân tố và cho rằng, các nhân tố trên đều có tác động tổng hợp đến nguồn thu, nhưng
số lượng đối tượng tham gia và mức đóng góp BHYT có tác động mạnh và trực tiếp
đến nguồn thu của quỹ BHYT. Qua phân tích thực trạng ở Việt Nam, nghiên cứu lý
giải các nhân tố có tác động mạnh nhất đến nguồn thu đó là: Chính sách pháp luật về
BHYT. Do chính sách pháp luật được điều chỉnh kịp thời và hợp lý nên số đối tượng
tham gia tăng nhanh, mức đóng cũng tăng nhanh từ đó làm tổng thu BHYT tăng, góp
phần cân đối thu - chi quỹ BHYT; và Chất lượng KCB BHYT còn nhiều yếu kém,
đây là nhân tố không chỉ tác động trước mắt, mà còn tác động rất lâu dài đến nguồn
thu. Chính vì vậy, nghiên cứu này đã đưa ra các giải pháp chủ yếu tập trung vào hoàn
thiện chính sách, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng khám bệnh,
chữa bệnh BHYT...
1.102. Đây là một trong những nghiên cứu mà tác giả tổng quan do có tính tương đồng
về quỹ BHYT, nguồn thu của quỹ BHYT với quỹ và quản lý quỹ BHTN. Do đó, nghiên cứu này
sẽ được tác giả kế thừa để nghiên cứu về vấn đề mà luận án đang đề cập đến.
1.103. - Nguyễn Quang Trường (2016) quan điểm hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN
được thể hiện qua nhiều khía cạnh như: số người tham gia BHTN tăng lên hằng năm, quỹ
BHTN phải an toàn và phát triển, trợ cấp bằng tiền cho người thất nghiệp và giải quyết tốt việc
làm cho người thất nghiệp, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả xây dựng tiêu chí đánh
giá hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN và phân tích, đưa ra một số các nhân tố ảnh hưởng đến
quản lý nhà nước về BHTN, như: (i) trình độ phát triển của nền kinh tế, (ii) phạm vi bao phủ,
(iii) chu kỳ kinh doanh, (iv) sự phát triển của thị trường lao động, (v) tập quán của dân cư, (vi) ý
thức tuân thủ chính sách của người tham gia BHTN, (vii) mô hình quản lý BHTN. Một số hạn
chế, bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN được tác giả
đánh giá qua thực trạng về chính sách như: chưa cụ thể, rõ ràng trong việc xác định đối tượng,
phạm vi tham gia BHTN, hay mức đóng, mức hưởng BHTN chưa thực sự hợp lý; tình trạng đơn
vị sử dụng lao động nợ đọng tiền BHTN vẫn diễn ra làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
1
8
động; tình trạng trục lợi quỹ BHTN xảy ra cả với người lao động và người sử dụng lao động,...
Theo tác giả, quỹ BHTN có kết dư cao, được cơ quan BHXH quản lý tốt và dự báo quỹ vẫn đảm
bảo an toàn đến năm 2020. Tuy nhiên, nếu chính sách trong thời gian tới có một số điểm thay
đổi mà không có phương án dự báo quỹ trong dài hạn thì có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối.
1.104. Qua phân tích thực trạng, tác giả đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHTN. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, tác giả chưa có
những lý giải, phân tích rõ nguyên nhân quỹ BHTN hiện nay ngày một thặng dư lớn. Do vậy,
nghiên cứu này cũng sẽ được luận án kế thừa, phân tích và đánh giá nhằm làm rõ những vấn đề
mà luận án đang đề cập.
1.105. Trên đây là tổng quan các công trình nghiên cứu mà tác giả cho là thiết thực, có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án. Còn nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu, sách,
báo tạp chí có liên quan được tác giả đề cập trong phần tài liệu tham khảo.
5.3.
Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
1.106. Tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả nhận thấy còn nhiều
khoảng trống nghiên cứu liên quan đến quản lý quỹ BHTN, cụ thể:
1.107. Khoảng trống lý thuyết: khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp, quỹ BHTN và quản
lý quỹ BHTN, phân biệt quỹ BHTN với các quỹ BHXH, hệ thống chỉ tiêu liên quan đến quản lý
quỹ BHTN, những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN.
1.108. Khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Phần lớn các công trình nghiên cứu
chủ yếu dựa trên nguồn số liệu thứ cấp, còn nguồn số liệu sơ cấp thông qua điều tra, khảo sát
còn rất hạn chế. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu chủ yếu là các phương pháp phân
tích, so sánh, thống kê, mô tả...
1.109. Khoảng trống về thực tế: Quản lý quỹ BHTN cần được phân tích toàn diện, chi
tiết, khách quan về tổ chức thực hiện trên phạm vi cả nước.
1.110. Quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam được nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ tổ chức
thực hiện do cơ quan BHXH đảm nhiệm. Vì vậy, các giải pháp và kiến nghị của Luận án đều
hướng tới hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHTN, kiến
nghị sửa đổi chính sách, mô hình quản lý ở Việt Nam.
6. Khung lý thuyết và mô hình nghiên cứu
1.111. Trên cơ sở tổng quan nghiên và các khoảng trống trong các nghiên cứu trước, tác
giả đề xuất mô hình nghiên cứu dự kiến như sau:
1
9
1.30.
1.112.
1.113. Hình 1: Mô hình nghiên cứu dự kiến
1.114. Trong mô hình nghiên cứu dự kiến, bảy nhân tố tác động tới quản lý quỹ BHTN
bao gồm: Chính sách pháp luật, Tổ chức triển khai chính sách pháp luật, Tuyên truyền phổ biến
chính sách pháp luật, Chất lượng nguồn nhân lực, Thanh tra, kiểm tra và giám sát, Ứng dụng
công nghệ thông tin và Điều kiện kinh tế - xã hội.
1.115. Để đơn giản hoá trong việc phân tích thì hoạt động quản lý quỹ BHTN được giả
sử ảnh hưởng bởi 3 nhóm nhân tố lớn: (i) Chính sách pháp luật, (ii) Chất lượng nguồn nhân lực
và (iii) Điều kiện kinh tế - Xã hội. Cụ thể, chính sách pháp luật được thể hiện qua các chỉ tiêu
như đối tượng tham gia và thụ hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp, quy trình tổ chức
thực hiện quản lý quỹ BHTN; Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua các tiêu chí như
trình độ học vấn của cán bộ quản lý, kỹ năng giao tiếp, tác phong làm việc, am hiểu chính sách
pháp luật và thành thạo tin học, ngoại ngữ; Điều kiện kinh tế - xã hội thể hiện qua các tiêu chí
như cơ sở hạ tầng trong thực hiện quản lý quỹ BHTN, sự phù hợp của chính sách với mục tiêu
và định hướng phát triển quốc gia và sự thúc đẩy sản xuất kinh doanh với việc trích nộp BHTN,
thực hiện chính sách pháp luật về BHTN tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
7. Những đóng góp mới của Luận án
- Về mặt lý luận và học thuật:
1.116. + Luận án nghiên cứu và làm rõ các khái niệm về BHTN, quỹ và quản lý quỹ
BHTN;
2
0
1.117. + Xác định những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN, lý giải làm rõ nội
dung của từng nhân tố;
1.118. + Xác định và lựa chọn các chỉ tiêu phục vụ công tác quản lý quỹ BHTN.
- Những đóng góp mới rút ra từ kết quả nghiên cứu:
1.119. + Phân tích và làm rõ thực trạng quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam (2011 - 2015).
1.120. + Phân tích những nhân tố tác động đến quản lý quỹ BHTN ở Việt Nam bao gồm
cả chính sách, pháp luật về BHTN; điều kiện kinh tế - xã hội; đối tượng tham gia và thụ hưởng
chính sách; mức đóng góp, mức thụ hưởng; công tác tổ chức quản lý thu, chi và cân đối quỹ
BHTN; công tác tuyên truyền và phổ biến chính sách pháp luật; công tác kiểm tra, thanh tra
BHTN và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan đến BHTN;... Đồng thời, tác giả
đã tiến hành điều tra cả người thụ hưởng chính sách và những người trực tiếp tổ chức triển khai
chính sách BHTN để từ đó xác định 3 nhân tố ảnh hưởng đến quản lý quỹ BHTN một cách khoa
học, khách quan: chính sách pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, chất lượng nguồn nhân lực của
cơ quan quản lý quỹ BHTN.
1.121. + Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
quản lý quỹ BHTN, bao gồm cả các giải pháp về chính sách và tổ chức thực hiện chính sách
BHTN ở Việt Nam.
8. Kết cấu Luận án
1.122. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục... Luận án
được kết cấu thành 3 chương:
1.123. Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
1.124. Chương 2: Thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
1.125. Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý quỹ
bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
1.127.
NGHIỆP
1.126. CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT
1.1.
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1.
Khái quát về bảo hiểm thất nghiệp
11.1.1.
Khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp
1.128. Bảo hiểm thất nghiệp là một phạm trù kinh tế - xã hội gắn với sự ra đời của sản
xuất hàng hoá và phân công lao động xã hội, giúp cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn
định cuộc sống cho bản thân và gia đình khi bị mất việc làm, tái hoà nhập thị trường lao động.
- Theo ILO Convention (1952) và ILO Convention (1988): Bảo hiểm thất nghiệp là một
hình thức bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một thời gian
giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra việc mất thu nhập mà
họ và gia đình họ dựa vào đó.
2
1
1.129.
1.130.
Bảo hiểm
thất
nghiệp
thường chỉ đảm
những
người lao
động có thu
nhập định kỳ,
bởi vì theo lý thuyết những
này dễ
gặp phải
bảo
cho
đối tượng
rủi ro thất
1.131. nghiệp không tự nguyện. Vì vậy, người lao động tự tạo việc làm (hay còn gọi là
lao động tự do) và các lao động thời vụ thường không được bao gồm trong các
chương trình BHTN.
- Columbia Encyclopidia (2008) đưa ra khái niệm: Bảo hiểm thất nghiệp là loại hình
bảo hiểm chống lại sự mất thu nhập trong khoảng thời gian một người lao động khoẻ mạnh bị
thất nghiệp một cách không tự nguyện. Mục đích của hình thức bảo hiểm này là cung cấp một
khoản trợ cấp tối thiểu cho người lao động bị thất nghiệp đến khi họ tìm lại được việc làm.
-
Britiannica Encyclopidia (2008) cho rằng: Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình
bảo hiểm xã hội được xây dựng nhằm đền bù cho người lao động trong một giai đoạn ngắn do bị
thất nghiệp không tự nguyện. Mục đích cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp là cung cấp sự trợ giúp
tài chính cho các lao động mất việc trong một khoảng thời gian đủ để cho phép họ tìm việc làm
khác hoặc được thuê lại làm công việc cũ...
- Lê Thị Hoài Thu (2008) nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, Bảo hiểm thất nghiệp (một
dạng thuộc hệ thống chế độ BHXH) là tổng hợp những quy định của Nhà nước nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực đảm bảo điều kiện vật chất cho người lao động
đang có việc làm mà bị mất việc vì lý do khách quan, cũng như trong lĩnh vực giúp người thất
nghiệp trở lại với thị trường lao động.
1.132. - Bảo
hiểm thất nghiệp
bù
đắp
là
sự bảo đảm thay thế hoặc
một phần thu nhập
1.133. của người lao động trong trường hợp bị mất việc làm và đang có nhu cầu tìm
việc, đồng thời bao gồm một số biện pháp giúp họ trở lại với thị trường lao động
(Nguyễn Tiệp, 2011).
1.134. Như vậy, khái niệm về BHTN ở các nước tuy câu chữ có khác nhau, song đều
thống nhất ở những khía cạnh chủ yếu sau:
1.135. + BHTN là loại hình bảo hiểm độc lập với BHXH, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ
với BHXH.
1.136. + Mục
nhập
tối
thiểu
đích
của BHTN nhằm đảm bảo
cho
người
thu
lao động
1.137. khi họ bị mất việc làm, giúp họ và gia đình tiếp tục ổn định cuộc sống và sớm trở
lại làm việc.
1.138. + Nguyên nhân mất việc làm không phải lỗi của người lao động.
2
2
1.139.
+ Phần
thu nhập của
do
bị
người laođộng bị
mất
đi
mất việc làm sẽ được
1.140. BHTN bù đắp, nhưng chỉ bù đắp trong một khoảng thời gian nhất định.
1.141.
Tuy nhiên, các khái niệm trên chủ yếu chỉ đề cập đến việc bù đắp một phần
thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định mà chưa đề
cập
đến việc bảo hiểm cho
người lao động tránh khỏi tình trạng thất nghiệp
bằng
1.142. những biện pháp đảm bảo việc làm trong ngắn hạn hoặc dài hạn cho người lao
động. Đây cũng là một trong những biện pháp ở một số nước trên thế giới áp dụng
trong chương trình bảo hiểm việc làm nhằm hạn chế tối đa việc sa thải người lao
động.
1.143. Xuất phát từ những phân tích trên, theo tác giả: “Bảo hiểm thất nghiệp là sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập trong một khoảng thời gian nhất định cho
người lao động bị thất nghiệp, nhằm ổn định cuộc sống cho họ và gia đình, giúp người thất
nghiệp sớm quay lại thị trường lao động và hạn chế tình trạng sa thải lao động bằng các biện
pháp hỗ trợ của quỹ BHTN, từ đó góp phần đảm bảo ASXH. ”
1.11.2.
Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp
1.144. Dù khái niệm có khác nhau, song bản chất của BHTN thể hiện ở chỗ: BHTN là
sự đảm bảo những khoản trợ cấp tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định để người lao
động bị thất nghiệp ổn định cuộc sống.
1.145. BHTN là nhu cầu khách quan, đa dạng, phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội
hoạt động theo cơ chế thị trường. Khi mối quan hệ thuê mướn lao động ngày càng phát
1.146. triển, kinh tế phát triển
phát triển
và có sự
thì thị
trường
lao
động
cũng
biếnđộng
1.147. không ngừng. Đặc biệt là những biến cố, rủi ro làm cho người lao động mất việc
làm mà không phải do lỗi của họ, như: bị sa thải, chấm dứt quan hệ lao động,...
thường xảy ra khi người sử dụng lao động chuyển đổi hoặc thu hẹp sản xuất kinh
doanh và những biến động lớn như khủng hoảng nền kinh tế,...Do vậy, mối quan hệ
trong BHTN phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia
BHTN (người lao động và người sử dụng lao động), tổ chức quản lý BHTN (tổ chức
nhận nhiệm vụ quản lý quỹ BHTN) và Nhà nước.
1.148. Nguồn tài chính để bù đắp một phần thu nhập tối thiểu cho người thất nghiệp
trong khoảng thời gian nhất định, đồng thời đáp ứng nhu cầu của người thất nghiệp được đào
tạo, học nghề và giới thiệu việc làm để có thể sớm quay trở lại thị trường lao động được cung
cấp từ quỹ BHTN. Ngoài ra, quỹ còn có thể sử dụng vào mục đích hạn chế tình trạng sa thải lao
động bằng các biện pháp hỗ trợ đào tạo, duy trì việc làm cho người lao động,... Quỹ được hình
thành từ người lao động, người sử dụng lao động đóng góp và có thể được Nhà nước bảo hộ, hỗ
trợ. Với tư cách là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng, Nhà nước phải can
2
3
thiệp và bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi bị thất nghiệp. Do vậy, Nhà nước phải có trách
nhiệm sử dụng ngân sách trong trường hợp sự đóng góp của các bên tham gia không đủ để bù
đắp các khoản trợ cấp cho người thất nghiệp.
1.149.
- Bảo hiểm thất nghiệp cũng giống như nhiều loại hình bảo hiểm khác,
đó là hoạt động dựa trên nguyên tắc “cộng đồng - lấy số đông bù số ít”, nghĩa là dùng số tiền
nhỏ được đóng góp từ số đông người tham gia BHTN để chia sẻ, bù đắp cho số ít người thất
nghiệp
với
số tiền
lớn hơn so với số đóng góp của
từng
1.150. người khi thất nghiệp.
1.1.1.3.
Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
1.151.
Bảo hiểm thất nghiệp
có vai trò rất
trong
tế
đời sống kinh
quan
trọng
- xã hội
1.152. của mỗi quốc gia, đó là:
a. Bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi bị mất việc làm, giúp họ và gia đình
ổn định cuộc sống
1.153.
Thất nghiệp là rủi ro bị mất việc làm mà không một người lao động nào
mong muốn. Khi bị thất nghiệp, thu nhập của người lao động bị mất toàn bộ. Vì thế, nếu họ có
tham gia BHTN, họ sẽ được bù đắp một phần thu nhập bị mất đi từ quỹ BHTN chi trả do các
bên tham gia đóng góp. Cho dù khoản thu nhập được bù đắp thấp hơn thu nhập của ngườilao
động trước
khi
1.154.
bị
thất nghiệp,
sống của họ và gia
định cuộc
song vẫn góp phần ổn định cuộc
đình, đặc biệt
sống ngay sau những ngày
là ổn
bị thất
1.155. nghiệp, cũng như thông qua các chế độ, giúp người thất nghiệp có những cơ hội
về việc làm để trở lại thị trường lao động. Chính vì điều này, những hệ lụy mà tình
trạng thất nghiệp gây ra sẽ được kiểm soát, xã hội vì thế sẽ đảm bảo ổn định bền
vững, nhiều tệ nạn sẽ được đẩy lùi,...
b. Phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHTN
1.156. Trong thực tế, chỉ có một bộ phận người lao động bị mất việc làm trở thành thất
nghiệp do các nguyên nhân khách quan và không ai mong muốn. Do đó, só người hưởng trợ cấp
thất nghiệp tất yếu ít hơn số người tham gia đóng góp bắt buộc vào quỹ BHTN. Từ đó hình
thành nguyên tắc BHTN là “lấy số đông bù số ít”. Nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại
thu nhập giữa những người lao động có thu nhập khác nhau, giữa những người có thu nhập cao
và thu nhập thấp, giữa những người đóng góp đều đặn và không đều đặn vào quỹ BHTN. Như
vây, vai trò BHTN không những phân phối lại thu nhập mà còn góp phần thực hiện công bằng
xã hội.
c. Động viên người lao động hăng hái làm việc
2
4
1.157.
Người lao động sẽ thực sự yên tâm do có chỗ dựa vững chắc khi được đảm
bảo việc làm bằng các biện pháp hỗ trợ nhằm hạn chế việc bị sa thải và được chi trả các chế độ
thất nghiệp nếu như tham gia BHTN và đủ điều kiện hưởng. Chính vì vậy, người lao
sẽ gắn
1.158.
động
bó với công việc, tích cực làm việc để tăng thêm nguồn thu
nhập và cũng từ đó có điều kiện tăng mức đóng BHTN để lúc nào đó có thể sẽ
được hưởng chế
tích cực
độ.
Đó là quan hệ hai chiều
của
BHTN đối với
mang tính
chất
1.159. người lao động.
d. Quỹ BHTN nhàn rỗi sẽ góp phần đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội
1.160. Các nguồn thu chủ yếu từ đối tượng tham gia đã tồn tích, hình thành quỹ BHTN,
trong thời gian nhàn rỗi có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm
nguồn thu cho quỹ BHTN. Khoản đầu tư này vừa góp phần phát triển sản xuất - kinh doanh, vừa
đảm bảo an toàn cho quỹ BHTN khỏi bị mất giá để chi trả trợ cấp BHTN cho người lao động.
e.
Cùng với các loại hình bảo hiểm khác, BHTN còn góp phần đảm bảo an sinh xã hội
1.161. Ngoài BHTN, trong điều kiện kinh tế thị trường còn có BHXH, BHYT, bảo hiểm
thương mại,... Tất cả các loại hình bảo hiểm ngày nay đều đóng vai trò là trụ cột chính của hệ
thống các chính sách, các chương trình đảm bảo an sinh xã hội quốc gia. Bởi các loại hình bảo
hiểm đều dựa trên mối quan hệ đóng, hưởng, trên cơ sở hình
1.162. thành quỹ do các bên tham gia đóng góp. Vì thế, các rủi ro mà đối tượng gặp phải
đều được quỹ bảo hiểm bù đắp, chi trả hoặc bồi thường. Từ đó, góp phần làm giảm
nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ngày nay, chính sách BHTN ngày càng
được thế giới khẳng định, quan tâm và đánh giá rất cao.
1.1.2.
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.163.
Khái niệm và nguồn hình thành quỹ BHTN
1.164. Để triển khai các chương trình BHTN hay BHVL, chính sách và pháp luật các
nước đều quy định rõ nguồn tài chính để thực hiện. Hạt nhân tài chính BHTN hay BHVL chính
là quỹ BHTN được hình thành từ các bên tham gia đóng góp (nếu như BHTN được triển khai
độc lập với BHXH). Còn nếu trợ cấp thất nghiệp được coi là một trong các chế độ BHXH thì
quỹ trợ cấp thất nghiệp có thể là một quỹ thành phần hoặc cũng có thể được hình thành, quản lý
thống nhất, tập trung và gọi chung là quỹ BHXH. Nội dung được đề cập ở đây là quỹ BHTN và
nguồn hình thành quỹ BHTN trong BHTN, không phải trong chế độ trợ cấp thất nghiệp.
1.165. Quỹ BHTN ra đời, tồn tại và phát triển gắn với sản xuất hàng hoá cũng như sự
thuế mướn nhân công của giới chủ với mục đích chính là thay thế, bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro mất việc làm và giúp họ được đào tạo, giới thiệu, tìm
kiếm việc làm để sớm quay lại thị trường lao động. Chính vì vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu và
2
5
quản lý đều cho rằng: Quỹ BHTN phải là một quỹ tiền tệ tập trung do các bên tham gia đóng
góp. Song, Nhà nước cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ và bảo hộ.
1.166.
Theo ILO Convention (1952), ILO Convention (1988), khuyến nghị rằng
các loại trợ cấp và chi phí quản lý chương trình BHTN/ BHVL phải có nguồn tài chính tập thể từ
đóng bảo hiểm, hoặc từ thuế để tránh tạo ra gánh nặng đối với người lao động thu nhập thấp và
đề xuất các quốc gia phải chịu trách nhiệm quản lý chương trình này
bao
gồm cả tính toán
1.167.
hiệu
cần thiết và đánh giá tài chính
quả,
định kỳ.
Kinh phí hoạt động của các chương trình này được đảm bảo từ nguồn đóng
góp của người sử dụng
lao động, người
lao
động
và
ngân
sách Nhà nước. Trong một số
1.168. trường hợp ngân sách chương trình được ba bên chia sẻ đóng góp theo thoả thuận
(chi tiết tại Bảng 1.1).
1.31. Bảng 1.1: Tỷ lệ đóng góp BHTN/BHVL ở một số nước trên thế giới
1.33. 1.35. Ngư
1.36. N 1.37.
1.32. Quố
Đ
1.39. Ghi chú
gười Nhà
ời lao
c gia
1.38.
sử
động
1.40. Bahr 1.34.
1.41.
1.42. 1%
1.43.dụn1 nước1.44.
1.45.
ain
%
%%
1
1.46.
1.50.
1.49. Mức
1.51.
1.52. Phí thông
1.48.
Đan
%
1.54.
phí cố
1.55.
định,1,5%
1.61.
1.62. 0,55
1.66. Mỹ
1.67.
1.68.
1.72. Nhật
1.73.
1.47.
1.53.
Đức
%
1.56. 1
%
1.60.
%
Quốc
%
1.70.
1.75. 0
1.76.
1.74. 0,6%
25
,6%
+
1.78. Thái 1.79.
1.80. 0,5%
1.81. 0
1.82.
Lan
%
,5%
0,
1.84. Việt 1.85.
1.86. 1%
1.87. 1
1.88.
Nam
%
%
1
1.90. Nguồn: Carter, J., Bédard, M., & Bista, C. P. (2013)
Bản
%
thường
1.57. 1.58.
1.64. 1.65. Người sử
,5%
1.63. 0
,55
%+
0,25
%
(<153
1.69.
,2%
1.59.
Hàn
70
dụng lao động
chỉ đóng cho
Quỹ đảm bảo
Việc làm và
ĐàoDao
tạo động
phát
1.71.
từ 1,4% đến
6,7%
1.77.
Chỉtuỳ từng
có
người sử dụng
lao động đóng
1.83.
1.89.
1.91.
1.169.
1.170.
Nhìn chung, các quốc gia đã triển khai các chương trình
BHTN/BHVL trong một thời gian dài thường
hơn,
có chi phí và
đặc biệt
mứcđóng bảo hiểmcao
tại các
1.171. quốc gia Châu Âu, trong khi các nước mới triển khai các chương trình này thời
gian gần đây có xu hướng áp dụng mức trợ cấp và chi phí thấp hơn. Bên cạnh phần