Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận cao học -Xây dựng cơ chế phòng, chống “lợi ích nhóm” và “tham nhũng chính sách” ở các cơ quan tổ chức đảng – thực trạng và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.69 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là một tệ nạn mang tính chất toàn cầu. Tuy nhiên không
phải ở bất kì nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham
nhũng cũng giống nhau mà mỗi quốc gia trên thế giới đều có những sự khác
nhiều do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Tại Việt Nam, tình
hình tham nhũng cũng diễn ra hết sức phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhiều mức
độ khác nhau. Tham nhũng tại Việt Nam theo các nhà lãnh đạo là nạn nội
xâm, là quốc nạn, là vấn đề gây nhức nhối của cả Việt Nam. Trong đó nổi lên
là vấn đề “Lợi ích nhóm” và “Tham nhũng chính sách” trong cơ quan nhà
nước và các tổ chức cơ sở đảng là một vấn đề bức xúc và đáng quan tâm nhất
trong giai đoạn hiện nay. Do đó học viên chọn đề tài “Xây dựng cơ chế
phòng, chống “lợi ích nhóm” và “tham nhũng chính sách” ở các cơ quan
tổ chức Đảng – Thực trạng và những vấn đề đặt ra” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nhóm lợi ích và tham nhũng chính sách từ lâu đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của các học giả ở cả trong và ngoài nước. Các công
trình nghiên cứu của các tác giả rất đa dạng và phong phú với những nội
dung và cách tiếp cận khác nhau. Trong đó có thể kể đến các công trình
nghiên cứu đã được xuất bản như:
Lưu Văn An (2010), Vận động hành lang trong đời sống chính trị các
nước phương Tây, Nxb. Chính trị - hành chính, Hà Nội.
Vũ Ngọc Hoàng Lợi ích nhóm” và “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” cảnh báo nguy cơ, Tạp chí Xây dựng Đảng 12/2015
Cũng đã có một số tiểu luận, luận án đề cập tới những vấn đề liên quan
đến nhóm lợi ích như Tiểu luận thạc sĩ Chính trị học của của Hoàng Thị Hà
về Vận động chính sách ở Việt Nam hiện nay,
1


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận


3.1. Mục đích
Từ việc nghiên cứu tìm hiểu các nhóm lợi ích và tham nhũng chính
sách trong cơ quan nhà nước và các tổ chức cơ sở đảng nhằm xây dựng cơ
chế phòng và chống tham nhũng trong điều kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các vấn đề liên quan đến nhóm lợi ích, tham nhũng chính sách
như khái niệm, phân loại và hiện trạng nhóm lợi ích và tham nhũng chính sách
trong cơ quan và tổ chức cơ sở Đảng.
- Đề xuất cơ chế phòng và chống phù hợp đối với Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu các nhóm lợi ích trong cơ quan và tổ chức đảng ở
nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận cũng chỉ đề cập đến thực tiễn hoạt động của các nhóm lợi
ích, tham nhũng chính sách và đưa ra một số kiến nghị cho việc giải quyết
những vấn đề này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận
5.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được nghiên cứu trên cở sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam và nghiên cứu thực tiễn hiện tại trong đời sống xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin.
6. Ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận góp phần xây dựng một số cơ chế phòng và chống tham nhũng
ở nước ta
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của tiểu
luận được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.

2


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM VÀ THAM NHŨNG CHÍNH SÁCH
1.1. Khái niệm lợi ích nhóm và tham nhũng chính sách
“Lợi ích nhóm” là một cụm từ, một thuật ngữ đang được nhắc đến
nhiều trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đang
làm cho nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các tầng lớp
nhân dân quan tâm nhìn nhận, mổ xẻ dưới nhiều cách nhìn với các cấp độ,
góc độ khác nhau. Lợi ích thường liên kết con người với nhau, và vì vậy phân
chia ra các nhóm, giai tầng khác nhau. Chính vì thế mà có lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm, hay lợi ích giai cấp... Từ “lợi ích nhóm” có thể hình thành nên
nhóm lợi ích, nhóm xã hội. Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm xuất hiện
ngày càng nhiều nhóm lợi ích khác nhau, các nhóm này vừa có thể có lợi ích
chung, vừa có lợi ích riêng, có lợi ích tích cực, có lợi ích tiêu cực.
Như vậy, có thể hiểu lợi ích nhóm như sau: Lợi ích nhóm là lợi ích của
một nhóm người liên kết với nhau, hỗ trợ nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng
nhau có lợi ích và bảo vệ lợi ích đó. Xét về mục đích và bản chất, lợi ích
nhóm có thể chia thành lợi ích nhóm tích cực và lợi ích nhóm tiêu cực. Lợi
ích nhóm tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người. Việc
hình thành nó là nhu cầu khách quan, chính đáng, tự nhiên trong xã hội tồn tại
nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm người với những đặc điểm, hoàn
cảnh khác nhau. Còn lợi ích nhóm tiêu cực là “lợi ích” mà nhóm thu được
nhằm vào các “tình huống” hay “phi vụ” nhạy cảm, không lành mạnh, mờ ám,
thiếu minh bạch. Bài viết giới hạn ở việc phân tích những biểu hiện của lợi
ích nhóm tiêu cực (gọi tắt là lợi ích nhóm) trong công tác tổ chức, cán bộ.Lợi
ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích
chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu

thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là mục
3


tiêu và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn trọng, bảo vệ
và khuyến khích. Quên điều này, không quan tâm đến lợi ích chính đáng của
con người, ngăn cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã
hội không thể thành công, mà trước sau gì nhất định cũng sẽ thất bại.
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi
ích chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng,
làm suy yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích
nhóm” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”.
Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng
hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những
người có quyền lực trong nhà nước và trong đảng cầm quyền. Có tiền chuyển
hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có
tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành
động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với
quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội. Nhận
thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết
hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư
luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người,
những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi
ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực và tham vọng
tiền bạc.
1.2. Đặc điểm của nhóm lợi ích, tham nhũng chính sách.
Từ lợi ích nhóm, hình thành nên những nhóm lợi ích (Interest Group).
Xã hội là một hệ thống lợi ích phức tạp cùng với sự tương tác lợi ích trong
từng nhóm, hoặc giữa các nhóm khác nhau trong trạng thái cạnh tranh, đấu
tranh liên tục để nắm giữ bằng được quyền sở hữu, phân phối nguồn lực công

và quyền được tham gia vào quá trình định hình, thông qua, xác lập các quyết
định, chính sách thuộc về quyền lực nhà nước với mục đích mang lại lợi ích
nhóm cao nhất. Theo A. Bentley, “không hình thành, tồn tại các nhóm đứng
4


ngoài lợi ích.Xã hội - Đó là một tổng hợp của các nhóm lợi ích khác nhau, số
lượng của chúng bị quy định và giới hạn bởi một chỉ số duy nhất: Lợi ích - cái
mà từ đó chúng liên kết, hình thành và hoạt động”
Nhóm lợi ích còn được coi là một loại hình tập hợp người đặc biệt “nhóm gây áp lực”, hình thành, tồn tại trên cơ sở một, một vài, hoặc nhiều
lợi ích chung - vì nó mà nhóm - tập hợp người tìm mọi phương thức, con
đường tác động tới chính sách công, nhằm đảm bảo và mang lại lợi ích cho
nhóm một cách cao nhất có thể. Động cơ hành động của nhóm lợi ích có thể
mang tính chất chính trị, kinh tế, đạo đức, niềm tin… Nhóm lợi ích sử dụng
những phương thức khác nhau để đạt mục tiêu: Truyền thông, vận động hành
lang, tài trợ…
Đặc điểm chính để nhận diện nhóm lợi ích là mức độ của lợi ích nhóm.
Mức độ lợi ích ấy có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mặt bằng xã hội trong
từng giai đoạn, hoặc trong những thời điểm nhất định. Mức độ lợi ích của
nhóm đóng vai trò chỉ số tổng hợp, cơ bản, quan trọng, phản ánh vị thế và khả
năng tác động của nhóm đến chính sách nhà nước. Lưu ý rằng, không chỉ
những nhóm có ưu thế trong xã hội mới có khả năng tác động đến quá trình
hoạch định chính sách của nhà nước, mà những nhóm có vị thế yếu, hoặc
nhóm chịu nhiều tổn thất cũng có thể có những tác động nhất định đến nội
dung chính sách. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tính nhân văn và minh
bạch của nền chính trị.
Sự tồn tại của các nhóm lợi ích và đồng hành với chúng là cạnh tranh
lợi ích giữa các nhóm trong xã hội là một hiện thực khách quan. Nhóm lợi ích
có tính hai mặt. Dưới góc độ công bằng xã hội, một mặt, sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các nhóm lợi ích tác động tích cực tới đảm bảo công bằng xã hội,

tạo các động lực cơ bản thúc đẩy phát triển xã hội; mặt khác, sự cạnh tranh
thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi ích, nhất là trong các nền chính trị không
minh bạch, thông qua hình thức vận động hành lang, nhằm tác động tới cách
5


thức, tỷ lệ phân bổ lợi ích của nhà nước, để tạo dựng và thụ hưởng đặc quyền,
đặc lợi là nguy cơ trực tiếp đối với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã hội.
Luận giải trên đây cho thấy, tiếp cận lợi ích nhóm không thể tách rời
sự tiếp cận chính trị và hệ thống cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức cơ
sở Đảng.
Chính vì thế, vấn đề quan trọng nhất, song cũng khó khăn, phức tạp
nhất của vận hành, quản trị xã hội là các cơ quan nhà nươc và tổ chức đảng
phải kết hợp được lợi ích của các nhóm cụ thể với lợi ích của xã hội như một
toàn thể. Kết quả của thao tác chính trị đó quy định sự ổn định xã hội, của
toàn bộ hệ thống chính trị, tính hợp pháp, hiệu quả của chính phủ, sự năng
động của phong trào xã hội và uy tín của đảng cầm quyền. Xã hội tuy bị ràng
buộc, chế định, chi phối bởi điều kiện kinh tế - văn hóa, pháp luật và đạo đức,
song yếu tố chi phối quyết định nhất, căn bản nhất, trực tiếp nhất là hệ thống
chính trị; trong đó, vấn đề sâu xa, cội rễ nhất là vấn đề quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị thiếu kiểm soát, hoặc kiểm soát
không chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến những nhóm lợi ích bất minh.

6


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ VIỆC XÂY DỰNG CƠ CHẾ PHÒNG
CHỐNG LỢI ÍCH NHÓM VÀ THAM NHŨNG CHÍNH SÁCH
2.1. Thực trạng “Lợi ích nhóm”
Hiện nay, ở nước ta, lợi ích nhóm tiêu cực phát triển khá phổ biến, hiện

diện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Nhưng, phổ biến nhất,
tác hại và nguy hiểm nhất là lợi ích nhóm trong quá trình thực hiện chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và được thể hiện dưới các dạng
sau đây:
- Tạo quan hệ với cấp trên, với cơ quan có thẩm quyền, khi cần thiết có
thể “hối lộ” dưới mọi hình thức để giành được kinh phí, đề tài, dự án v.v…
cho đơn vị, địa phương v.v… (trong khi có thể bố trí kinh phí, đề tài, dự án
cho đơn vị, địa phương khác sẽ có lợi và hiệu quả hơn).
- Tạo quan hệ, móc ngoặc với những người có chức, có quyền quyết
định để được bố trí vào các chức vụ mong muốn cho bản thân hoặc cho người
thân trong gia đình, trong khi năng lực, phẩm chất không đáp ứng được yêu
cầu của vị trí công tác đó.
- Nhà đầu tư, doanh nghiệp tạo quan hệ móc nối với cơ quan, người có
thẩm quyền quyết định, hình thành nhóm lợi ích để xây dựng các dự án, chủ
trương đầu tư hoặc giành được các dự án “phát triển kinh tế - xã hội” nhằm
mục đích kiếm lợi, có chi trả % cho chủ đầu tư, không tính đến hiệu quả đầu
tư hoặc hiệu quả thấp, miễn là “có việc” là “có ăn”. Người có chức quyền,
thoái hóa, biến chất, chỉ chăm lo thu vén lợi ích cá nhân, chỉ phê duyệt cho
đơn vị, cá nhân nào biết quan hệ, biết điều, chi trả % đậm hơn.
- Các doanh nghiệp là “sân sau”, đồ đệ trung thành của những người có
chức, có quyền hình thành nhóm lợi ích, cố kết với nhau để cùng nhau có lợi
ích, bảo vệ lợi ích cho nhau. Doanh nghiệp và các đồ đệ trung thành phải
chăm lo lợi ích của “sếp” tạo dựng uy tín, lo lót để che chắn khuyết điểm của
“sếp”, để “sếp” được vào những vị trí công tác mong muốn v.v… Đến lượt
“sếp” phải trả ơn, chăm lo lợi ích của các doanh nghiệp, đồ đệ của mình, phê
7


duyệt cho họ những dự án “béo bở”, cất nhắc họ vào những vị trí làm việc
hứa hẹn nhiều bổng, lộc v.v…

- Một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất trong các cơ quan
có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát, cơ quan điều tra v.v… cũng bị móc
nối và vì lợi ích vị kỷ của mình hình thành nhóm lợi ích với các cơ quan, cán
bộ, công chức là đối tượng thanh tra, kiểm tra, điều tra v.v… để che chắn
khuyết điểm, thậm chí làm nhẹ tội cho các đối tượng này.
Những biểu hiện trên đây của lợi ích nhóm tiêu cực đã được Đảng tổng
kết thành các hành vi “chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng
cấp, chạy huân chương” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.262) và dư luận xã hội đã tổng
kết muốn có chức quyền, lợi ích phải có “tiền tệ, quan hệ, hậu duệ, đồ đệ và
cuối cùng mới là trí tuệ”.
2.2. Lợi ích nhóm trong các cơ quan và tổ chức Đảng hiện nay.
Biểu hiện lợi ích nhóm trong cơ quan và tổ chức đảng nổi cộm nhất
trong công tác tổ chức, cán bộ, biểu hiện của lợi ích nhóm cũng rất đa dạng,
phức tạp, có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy trình
hoạt động của công tác tổ chức, cán bộ trong cơ quan nhà nước và tổ chức
đảng.
Thứ nhất, lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về
công tác tổ chức, cán bộ cơ quan nhà nước và tổ chức đảng.
Biểu hiện lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về
công tác cán bộ là một bộ phận cán bộ tham mưu, khi tham mưu cho cấp có
thẩm quyền ban hành chính sách có liên quan đến công tác cán bộ thì không
vì chính sách, lợi ích chung mà tham mưu, ban hành những chính sách có lợi
cho họ (ví dụ: nới lỏng hơn các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, đề bạt, nâng
lương, chuyển ngạch, nâng ngạch,...). Biểu hiện khác của tình trạng này là
những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ đã nghiên cứu, tham mưu
xây dựng, ban hành chính sách cán bộ “dưới tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản”
8



(như điều kiện tiếp nhận, điều chuyển, bố trí công tác, luân chuyển, bổ nhiệm,
đề bạt hoặc được đi học, đi công tác nước ngoài) để người thân của họ, hoặc
cán bộ lãnh đạo có đủ điều kiện đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện đó; ban hành
chính sách, quyết định, nhiều khi mang tính “nội bộ”, có tính chất đặc quyền,
đặc lợi cho một số ít cán bộ, trái với quy định hoặc theo quy định của Nhà
nước nhưng không minh bạch để trục lợi.
Thứ hai, lợi ích nhóm trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của
cấp trên về công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế, quy trình cụ
thể của cấp dưới để trục lợi.
Có tình trạng quy định của cấp trên về chính sách, chế độ chung của
Đảng, Nhà nước đối với cán bộ không được cấp dưới cụ thể hóa bảo đảm
đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục. Họ “vận dụng” ban hành chính sách, chế
độ đối với cán bộ vì lợi ích nhóm của số ít cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công
tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, dẫn đến việc thực hiện trái quy
định của cấp trên vì nhiều lý do hoặc luôn có sự thay đổi để cho “vừa” với
những tiêu chuẩn, điều kiện cá biệt của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý để
trục lợi cho bản thân hoặc cho người thân của mình theo kiểu “trên có chính
sách, dưới có đối sách” làm thiệt hại cho lợi ích chung của cán bộ, công chức,
viên chức, gây bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có nơi, đáng lẽ
phải vận dụng quy định của cấp trên để ban hành chính sách về công tác cán
bộ của cấp mình phù hợp nguyên tắc, chủ trương, quy định, nhưng lại vận
dụng ban hành trái quy định nhằm “lách luật” để có lợi cho bản thân hoặc
người thân của mình trong việc tuyển dụng, đề bạt, thực hiện các chính sách
cán bộ khác, như mở tuổi để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử, kéo dài thời gian
công tác,...
Thứ ba, lợi ích nhóm trong việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính
sách về công tác tổ chức, cán bộ cơ quan nhà nước và tổ chức đảng.
Biểu hiện của lợi ích nhóm này dễ thấy nhất và đang phổ biến hiện nay
là cán bộ lãnh đạo trong một số doanh nghiệp nhà nước đã chỉ đạo xây dựng
9



chính sách lương, chính sách thu nhập có lợi cho họ, dẫn đến chính sách
lương “khủng” - “thu nhập quá cao” trong một số cán bộ lãnh đạo, quản lý
của một số doanh nghiệp, lĩnh vực ngành, nghề; hoặc ban hành, thực hiện
những chủ trương, chính sách cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hằng năm đi
nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước ngoài quá nhiều lần, gây tốn kém, lãng
phí, thất thoát kinh phí của cơ quan, đơn vị, tổ chức. Một biểu hiện nữa của
lợi ích nhóm trong tổ chức thực hiện công tác cán bộ là cán bộ cấp trên, cán
bộ lãnh đạo, quản lý tuy biết cán bộ cấp dưới thuộc “cánh hẩu” của mình,
trình độ năng lực hạn chế, nhưng vẫn bổ nhiệm, đề bạt, bao che để tạo thành
một “ê-kíp” cán bộ làm việc vì lợi ích nhóm để trục lợi. Trong khi đó, cán bộ
có đủ năng lực, trình độ, điều kiện thì không được quan tâm quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đúng khả năng, sở trường của họ, khiến họ
“bất bình”, thậm chí đi tìm cơ hội làm việc ở những nơi khác.
Thứ tư, lợi ích nhóm trong việc tổ chức thực hiện công tác tổ chức, cán
bộ cơ quan nhà nước và tổ chức đảng.
Biểu hiện này thể hiện ở một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức,
cán bộ thuộc phe, cánh của người lãnh đạo đã tham mưu trong việc bố trí
người thân của họ dù trình độ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, kinh
nghiệm công tác không có vào những chức vụ, vị trí công tác có nhiều “lợi
thế, màu mỡ, quyền thế” để trục lợi theo kiểu “quyền đi liền với lợi lộc, quyền
đi liền với tiền”. Trong khi những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo
đức tốt và có kinh nghiệm công tác, có uy tín thì không được xem xét bố trí
đảm nhiệm các công việc đó. Tình trạng này đã hình thành “cơ quan”, “chi
bộ” mang tính chất gia đình như ở Vụ PMU18 trước đây và một số vụ việc
tiêu cực khác. Có cán bộ lãnh đạo khi sắp hết nhiệm kỳ, hết thời hạn làm lãnh
đạo quản lý đã ban hành những quyết định bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, thay
đổi vị trí công tác tốt hơn cho cán bộ thuộc diện “thân tín”, cho người thân
trong gia đình mình không đúng chế độ, tiêu chuẩn, điều kiện.

10


Tình trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên
nhân khách quan cho thấy, một số quy định của Đảng, Nhà nước ban hành
nhưng chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, nên bị một số cán bộ lãnh đạo, quản lý
hoặc cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ lợi dụng để tham mưu,
“lách luật” ban hành những quy định có lợi cho lợi ích của cán bộ lãnh đạo
hoặc người thân của họ hoặc cho chính cán bộ làm công tác tham mưu về
công tác cán bộ. Về nguyên nhân chủ quan cho thấy, một số cán bộ tham mưu
về công tác tổ chức, cán bộ hoặc cán bộ lãnh đạo dù nhận thức đúng, đầy đủ
chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ nhưng vì lợi ích cục bộ,
lợi ích nhóm đã cố tình không thực hiện đúng, đã chỉ đạo hoặc chủ động tham
mưu ban hành những chủ trương, chính sách về công tác cán bộ ở cấp mình
nhằm vụ lợi cho bản thân, người thân hoặc “cánh hẩu” của mình; mà không vì
lợi ích chung của cơ quan, tổ chức, của toàn Đảng về công tác cán bộ. Một số
cán bộ lãnh đạo không chấp hành nghiêm quy chế làm việc, nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác cán bộ, dẫn đến vi phạm về công tác này vì lợi
ích cục bộ, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa lợi ích cục bộ của
một số ít người, “cánh hẩu” của mình hoặc người thân của mình trong công
tác bổ nhiệm, đề bạt, bầu cử cán bộ.
2.3. Những biểu hiện của tham nhũng chính sách trong cơ quan và
tổ chức đảng.
Một chính sách ra đời phải trải qua 4 giai đoạn chính, bất kỳ giai đoạn
nào cũng có thể xảy ra tham nhũng. Theo đó, giai đoạn thứ nhất là lựa chọn
vấn đề chính sách: Một đất nước, hàng ngày có hàng ngàn vấn đề đang đặt ra
cần được giải quyết bằng chính sách. Vậy nhưng vấn đề nào cần ưu tiên giải
quyết ngay hôm nay?
Nếu một quy trình chính sách đúng, nhà hoạch định chính sách phải có
thông tin đầy đủ, xem vấn đề gì nhân dân bức xúc nhất, quan tâm nhất, giải

quyết được vấn đề đó sẽ tháo gỡ cho các vấn đề khác. Những nhà hoạch định
chính sách phải rất khách quan khi tiếp nhận và xử lý thông tin, quyền tiếp
11


cận các “kênh” thông tin phải bình đẳng, năng lực “đưa” (diễn giải) thông tin
phải ngang nhau.
Tuy nhiên trên thực tế, việc hoạch định chính sách không phải lúc nào
cũng đảm bảo khách quan. Những nhóm có thế mạnh thường có cách để đưa
thông tin và có các “kênh” để làm cho cơ quan chức năng quan tâm hơn đến
vấn đề của họ. Để tiếp cận nhanh đến cơ quan chức năng, những nhóm này có
thể vận động “hành lang”, thậm chí “bôi trơn”… để được quan tâm hơn. Như
vậy, rõ ràng những đối tượng yếu thế như nông dân, công nhân sẽ thua thiệt
trong vấn đề này.
Giai đoạn thứ hai là xây dựng và ban hành chính sách, tham nhũng có
thể xảy ra với những hình thức rất tinh vi. Nhóm tham nhũng có thể “chèn”
các câu chữ vào văn bản quy phạm pháp luật, nhất là những câu chữ liên quan
đến lợi ích của họ. Họ có thể thêm các thủ tục, các loại “giấy phép con” sao
cho người của họ có thể lợi dụng được. Có thể coi đó là một trong những
nguyên nhân khiến chúng ta dù đã thực hiện chiến lược cải cách hành chính
15 năm nay, nhưng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn.
Tham nhũng ở giai đoạn này rất “khéo” và rất tinh vi. Chúng nhân danh
sự “chặt chẽ’ trong quản lý nhà nước, nhân danh “an ninh quốc gia”, nhân
danh “lợi ích nhân dân”… Kết quả là chủ trương, chính sách một đằng, khi
thực hiện lại một nẻo, xung đột pháp lý, xung đột chính sách là hiện tượng
nhức nhối đến nay vẫn chưa giải quyết được.
Giai đoạn thứ ba là tổ chức thực hiện chính sách. Ở giai đoạn này, các
nguồn lực của Nhà nước được huy động để thực hiện chính sách. Những kẻ
tham nhũng sẽ câu kết với nhau để “đấu thầu”, “chỉ định thầu”, “xin-cho”,
“lại quả”, “bôi trơn”… Tác hại của tham nhũng trong giai đoạn này đã quá rõ:

Các công trình lớn nhỏ đều bị “rút ruột”, làm ăn dối trá, mua thiết bị công
nghệ cũ kỹ, năng suất lao động thấp…
Giai đoạn cuối cùng là đánh giá chính sách. Trong giai đoạn này, chính
sách cần được đánh giá để hoàn thiện hoặc kết thúc. Đánh giá chính sách cần
12


áp dụng nhiều tiêu chí, trên nhiều phương diện: Chính trị, xã hội, kinh tế, môi
trường… Đánh giá bởi các cơ quan chức năng của Nhà nước, đánh giá bởi các
cơ quan độc lập, đánh giá của người thụ hưởng chính sách, đánh giá của nhân
dân… Tham nhũng ở giai đoạn này làm cho việc đánh giá thiếu khoa học,
thiếu khách quan và thiếu toàn diện.
2.4. Một số giải pháp khắc phục “lợi ích nhóm” trong cơ quan nhà
nước và tổ chức đảng.
Biểu hiện “lợi ích nhóm” trong cơ quan nhà nước và các tổ chức đảng
thời gian qua với những dạng khác nhau ở các cấp độ, mức độ khác nhau
trong các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội,
tuy chưa nhiều, chưa phổ biến nhưng rất nguy hại, cần sớm có chủ trương,
giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời. Theo chúng tôi, cần tập
trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chính sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người
đứng đầu về tác hại của nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu cực trong
cơ quan nhà nước để từ đó nâng cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo việc nghiên cứu, ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, nghị
quyết, quy định, quyết định cũng như tổ chức thực hiện đúng chủ trương
đường lối của đảng. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm cho
cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế của
Nhà nước về tác hại của lợi ích nhóm, để từ đó thực hiện đúng, tốt chức năng
tham mưu trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính

sách, nghị quyết, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ. Kịp
thời thay thế hoặc bố trí công việc khác cho phù hợp đối với những cán bộ
tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ có biểu hiện động cơ lợi ích nhóm, suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, thiếu trách nhiệm hoặc
tiêu cực trong tham mưu, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, uy tín
giảm sút.
13


Hai là, để tích cực tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là người
đứng đầu phải nêu cao tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo
Chỉ thị số 03-CT/TW, của Bộ Chính trị, ngày 14-5-2011 và Quy định số 101QĐ/TW của Ban Bí thư, ngày 7-6-2012, về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; đồng thời thực hiện
nghiêm Quy định về những điều đảng viên không được làm; nêu cao ý thức
thực hiện đúng quy định về đạo đức công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công
chức. Động viên người thân trong gia đình chấp hành nghiêm túc quy định
của Đảng và Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ, không lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình can thiệp, tác động để làm trái hoặc được hưởng những
chế độ, chính sách về công tác cán bộ không đúng tiêu chuẩn, điều kiện.
Ba là, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện các chủ
trương, nghị quyết, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước về chính sách xã
hội, chuẩn xác, công khai, minh bạch. Đồng thời phải kiểm soát, giám sát chặt
chẽ quá trình thực thi mới hạn chế được việc lợi dụng, “lách luật” để cấp dưới
ban hành chủ trương, chính sách, chế độ thuộc cấp mình hoặc vận dụng thực
hiện quy định của cấp trên ban hành mang tính chất lợi ích nhóm để trục lợi.
Chấn chỉnh lại công tác tổ chức, cán bộ vì nhân tố con người là quan trọng
nhất và quyết định tất cả. Chỉ đạo xây dựng một bộ tiêu chí cụ thể, sát thực
hơn để đánh giá cán bộ một cách công khai, công bằng, hiệu quả nhất, đáp

ứng được 3 tiêu chuẩn: thứ nhất, có tầm nhìn, năng lực, nhất là năng lực thực
tiễn; thứ hai, có khả năng tổ chức triển khai; thứ ba, gương mẫu, hết lòng
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không cá nhân chủ nghĩa, không lợi ích
cục bộ, lợi ích nhóm. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng đề cao
quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa và đề cao trách nhiệm cá
nhân, người đứng đầu; khắc phục tình trạng bầu cử, bổ nhiệm, đề bạt tuy đúng
quy trình, hình thức, nhưng không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng
14


cán bộ theo quy hoạch và thực tế năng lực, trình độ của họ; coi trọng phát
hiện, đào tạo, sử dụng và tôn vinh người tài, “đủ tâm” và “đủ tầm” gánh vác
trọng trách được giao; kiên quyết chống những biểu hiện lợi ích nhóm, tham
nhũng, tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ. Nâng cao mức lương cho cán
bộ, công chức, bảo đảm để họ có thể sống được bằng lương và thể hiện danh
dự của người cán bộ, công chức sẵn sàng cống hiến cho Đảng, Nhà nước và
hết lòng phục vụ nhân dân. Kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện
các chủ trương, chính sách, chế độ, nghị quyết, quy định về công tác tổ chức,
cán bộ đã ban hành để rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi những
quy định không còn phù hợp, khó thực hiện, dễ bị lợi dụng tạo lợi ích nhóm
để trục lợi; ban hành mới những quy định còn thiếu và tổ chức thực hiện chặt
chẽ, nghiêm túc, có kết quả.
Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp trên phải chú
trọng, tăng cường, đổi mới phương thức, biện pháp, nội dung kiểm tra, giám
sát, kiểm soát tổ chức đảng cấp dưới, cán bộ, đảng viên dưới quyền trong việc
thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chế độ, quy định về công
tác hoạch định chính sách , trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao về
công tác tổ chức bộ máy nhà nước và tổ chức đảng. Đặc biệt là phải hết sức
coi trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực (quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước) của tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ,

đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cơ
quan, đơn vị, kể cả cán bộ tham mưu cấp chiến lược từ cấp tỉnh trở lên về
công tác tổ chức, cán bộ; bảo đảm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
đều phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát nghiêm ngặt, chặt chẽ bằng chế
độ, quy định, quy chế cụ thể, không được lạm dụng thực hiện lợi ích nhóm để
trục lợi. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước phải tiếp tục rà soát để bổ
sung, sửa đổi quy chế làm việc, chế độ công tác cho phù hợp, trong đó xác
định rõ và phân công cụ thể, rành mạch trách nhiệm, quyền hạn của tập thể,
cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ
15


chức nhà nước, mối quan hệ giữa các thành viên trong chỉ đạo, điều hành nói
chung, trong công tác hoạch định chính sách nói riêng để thực sự phát huy
dân chủ, chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng
hoặc quyền lực tập trung vào một số ít người, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để
hợp pháp hóa chủ trương, quyết định biểu hiện lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ
của một số ít người, thậm chí của một người. Ban hành và tổ chức thực hiện
quy định về kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền
hạn chủ trì ở các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước trước khi kết thúc
nhiệm kỳ để chống “lợi ích nhóm”. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, kiểm
soát, phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái
đạo đức, lối sống, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển.
Những trường hợp có dấu hiệu vi phạm, bị tố cáo có vi phạm về lợi ích nhóm
trong công tác hoạch định chính sách phải được chỉ đạo, tổ chức kiểm tra,
xem xét, kết luận, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Tăng cường công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng, tổ chức nhà
nước, tổ chức kinh tế của Nhà nước,... trong cán bộ, đảng viên, công chức gắn
với đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác tổ chức bộ

máy nhà nước và tổ chức đảng để trục lợi. Trong đó chú trọng thực hiện quy
định tất cả công chức khi vào làm việc tại cơ quan đảng, chính quyền đều phải
kê khai trung thực, đầy đủ, chính xác tài sản của bản thân và của gia đình
mình và sau đó phải thực hiện kê khai thường xuyên hằng năm; cuối nhiệm
kỳ công tác hoặc trước khi được điều động, điều chuyển, luân chuyển công
tác mới, bảo đảm công khai, minh bạch các nguồn thu nhập của bản thân và
gia đình. Có biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý kịp thời các hoạt
động phi pháp, ngăn chặn các biểu hiện bất minh, lợi ích nhóm, bảo đảm
không có cơ hội để lợi dụng tạo ra nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu
cực trong công tác hoạch định chính sách để tham nhũng, trục lợi. Sử dụng
những công cụ, biện pháp giám sát của cộng đồng, của nhân dân và xã hội để
16


phát hiện những dấu hiệu bất thường, bất minh nhằm chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác công tác tổ chức bộ máy nhà nước và
tổ chức đảng .

17


KẾT LUẬN
Phòng chống tham nhũng và lợi ích nhóm là gốc của Đảng, bảo vệ sự
trong sạch, vững mạnh của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, của tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên. Nếu trong lĩnh vực này có suy thoái, biến chất,
tham nhũng, tiêu cực ở mức độ “lợi ích nhóm” thì rất nguy hại cho Đảng, Nhà
nước, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm, hạn chế
trong công tác bổ nhiệm cán bộ ở cơ quan và tổ chức đảng thời gian qua, dẫn
đến tình trạng còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích, chạy tội, bao che cho khuyết điểm sai
phạm của cấp dưới. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ sự hình thành lợi ích
nhóm, khái niệm lợi ích nhóm, biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong công tác tổ
chức bộ máy nhà nước và tổ chức đảng chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến lợi ích
nhóm, đề xuất một số giải pháp đấu tranh, ngăn chặn, giúp cho các cấp ủy, tổ
chức đảng, ủy ban kiểm tra thấy được sự nguy hại, ảnh hưởng tiêu cực của nó
đối với công tác tác tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức đảng nói
riêng để có cơ sở, căn cứ đề ra các chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu
tranh thực sự có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng
trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của Đảng./.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quang Nhiếp (chủ biên) (2005), Nâng cao hiệu quả của báo chí
trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay , Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Lưu Văn An (2010), Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước
phương Tây, Nxb. Chính trị - hành chính, Hà Nội.
3. Nguyễn Cảnh Bình (7/2004), Thủ tục chất vấn của Nghị viện Anh, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp.
4. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công ở Hoa Kỳ (giai đoạn 1935 - 2001),
Nxb. Thống kê, Hà Nội.
5. Nguyễn Chí Dũng (9/2006), Vận động hành lang trong hoạt động lập pháp
các nước và xu hướng ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 83.
6. Hoàng Minh Hiếu (2003), Vai trò của ủy ban trong quy trình lập pháp ở
nghị viện một số nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7.

7. Ngọc Hà (9/2007), Vận động và hối lộ - Lằn ranh giới mong manh, Báo
Người đại biểu nhân dân.
8. Lê Quốc Lý (2014), Lợi ích nhóm - thực trạng và giải pháp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tòng (2004), Toàn cầu hóa – những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM VÀ THAM NHŨNG
CHÍNH SÁCH..................................................................................................................3
1.1. Khái niệm lợi ích nhóm và tham nhũng chính sách...................................3
1.2. Đặc điểm của nhóm lợi ích, tham nhũng chính sách..................................4
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ VIỆC XÂY DỰNG CƠ CHẾ PHÒNG
CHỐNG LỢI ÍCH NHÓM VÀ THAM NHŨNG CHÍNH SÁCH.................7
2.1. Thực trạng “Lợi ích nhóm”.................................................................................7
2.2. Lợi ích nhóm trong các cơ quan và tổ chức Đảng hiện nay.....................8
2.3. Những biểu hiện của tham nhũng chính sách trong cơ quan và tổ
chức đảng.........................................................................................................................11
2.4. Một số giải pháp khắc phục “lợi ích nhóm” trong cơ quan nhà nước
và tổ chức đảng..............................................................................................................13
KẾT LUẬN......................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................19

20




×