Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động của ban thanh tra nhân dân ở xã nghĩa hồ lục ngạn bắc giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.44 KB, 23 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội bức
xúc, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng hoàn thiện Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách nền hành chính. Hoạt
động thanh tra đã góp phần tăng cường pháp chế, thiết lập kỷ cương xã hội,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, cơ quan,
tổ chức thông qua đó nâng cao hiệu quản quản lý trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hằng năm, ngành thanh tra đã tiến hành hàng ngàn cuộc thanh tra, tập
trung vào nhiều lĩnh vực, tham mưu giúp Thủ trưởng cơ quan hành chính
nhà nước các cấp giải quyết được hàng ngàn vụ việc khiếu nại, tố cáo.
Thanh tra nhân dân là một bộ phận của ngành thanh tra. Ban thanh tra nhân
dân ở cơ sở - tổ chức thanh tra của quần chúng, có vai trò quan trọng trong
quản lý xã hội cấp cơ sở, là phương thức thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở
cơ sở.
Nghĩa Hồ là một xã thuộc huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang, theo Pháp
lệnh thanh tra ban hành ngày 01/4/1990, Ban thanh tra nhân dân ở đây đã
được thành lập và đi vào hoạt động khá tốt và ổn định. Tuy nhiên, trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường, công tác quản lý các hoạt động về kinh
tế, xã hội ở đây đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập. Tình trạng tiêu cực,
tham nhũng và nhiều tệ nạn còn diễn ra đòi hỏi yêu cầu phải tăng cường
công tác thanh tra nhân dân của Ban thanh tra nhân dân để giải quyết các
mâu thuẫn, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Xuất phát từ thực tế trên,
em chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở
xã Nghĩa Hồ - Lục Ngạn - Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay ” làm tiểu
luận nghiên cứu.

1



2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý xã hội cấp cơ sở và
hoạt động của Ban thanh tra nhân dân tìm hiểu thực tế, phân tích thực trạng
công tác thanh tra ở xã Nghĩa Hồ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang qua đó
đánh giá thực trạng với những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế,
tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng, đưa ra một số giải pháp tăng cường
hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở địa phương.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đề tài đi sâu nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Ban
thanh tra nhân dân ở xã Nghĩa Hồ, Lục Ngạn, Bắc Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập chung tìm hiểu trong phạm vi cấp cơ sở
là xã Nghĩa Hồ, Lục Ngạn, Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp
lý luận găn liền với thực tiễn, phân tích tổng hợp, tìm hiểu thực tế, tổng kết
để đúc rút, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả vấn đề
nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương, 8 tiết.

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BAN THANH TRA NHÂN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Cấp cơ sở
Cấp cơ sở là đơn vị và hành chính nhỏ nhất trong hệ thống hành chính
bốn cấp ở nước ta. Đây là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối của

Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V
Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX đã chỉ rõ: “Cấp cơ sở ở
xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ
thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, phát huy mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống cộng
đồng dân cư”
Như vậy, có thể khái quát về cấp cơ sở như sau:
Thứ nhất, cấp cơ sở là cấp xã, phường, thị trấn, là đơn vị hành chính
lãnh thổ nhỏ nhất.
Thứ hai, cấp cơ sở là cấp hành chính thấp nhất trong hệ thống hành
chính của nước ta.
1.1.2. Quản lý xã hội cấp cơ sở
Trước hết, quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và
định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh
các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và
phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đặt ra.

3


Quản lý xã hội là một yếu tố không thể thiếu trong đời sống xã hội. Xã
hội phát triển càng cao thì vai trò của quản lý xã hội càng lớn và nội dung
càng đa dạng, phong phú. Bởi theo Mác, quản lý là chức năng đặc biệt được
sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi
sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và thông qua
quản lý (con người điều khiển con người).
Như trên đã trình bày, cấp cơ sở là một cấp hành chính trong hệ thống
hành chính của nhà nước ta, cấp cơ sở như một xã hội thu nhỏ, một đơn vị

kinh tế độc lập mang sắc thái riêng không giống bất kỳ một cấp hành chính
nào. Hoạt động quản lý xã hội cấp cơ sở ở nước ta được thực hiện ở nước ta
được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Bên cạnh chủ thể cơ bản là nhà
nước còn có các chủ thể là các tổ chức do cộng đồng các dân cư khác nhau
thiết lập nên để quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của cộng
đồng. Các chủ thể quản lý luôn luôn tồn tại song hành, nhưng mức độ tác
động, phương thức tác động tới xã hội là khác nhau. Trong tiến trình phát
triển của lịch sử xã hội loài người vị thế các chủ thể đối với xã hội cũng có
sự thay đổi.
Quản lý xã hội cấp cơ sở là sự tác động bằng quyền lực nhà nước và
bằng các thiết chế xã hội khác để điều chỉnh các quá trình xã hội ở cơ sở và
hành vi của con người nhằm duy trì trật tự và ổn định xã hội ở cấp cơ sở.
1.1.3. Thanh tra nhân dân và ban thanh tra nhân dân ở cấp cơ sở
Thanh tra nhân dân (TTND) là một trong những nội dung cơ bản của
Luật Thanh tra. Vấn đề này cũng đã được quy định tại Pháp lệnh Thanh tra
năm 1990. TTND là hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban TTND
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo và việc thực hiện quy chế dân chủ của cơ quan, tổ chức và cá nhân có
trách nhiệm.

4


Ban TTND được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan Nhà nước, đơn
vị sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến TTND ở cơ
sở trong bộ máy chính quyền cấp cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn.
Ban TTND ở cấp cơ sở là tổ chức thanh tra của quẩn chúng được thành
lập ở cấp xã, phường, thị trấn nhằm đảm bảo quyền giám sát, kiểm tra của
quần chúng đối với mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật trong phạm vi xã, phường, thị trấn. Ban thanh tra cơ sở do nhân dân

bầu ra, Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở tổ chức, chỉ đạo hoạt động.
Uỷ ban Nhân dân (UBND) cấp cơ sở có trách nhiệm thông báo cho Ban
thanh tra nhân dân biết các Nghị quyết của Hội Đồng nhân dân (HĐND),
quyết định của HĐND cấp cơ sở và xem xét, giải quyết kịp thời các kiến nghị
của Ban TTND; tạo điều kiện thuận lợi và phương tiện cần thiết cho ban
TTND hoạt động… Xử lý nghiêm khắc các hành vi cản trở hoạt động của các
uỷ viên Ban TTND.
1.2. Nội dung của Ban thanh tra nhân dân cấp cơ sở
1.2.1. Về cơ cấu tổ chức
Được quy định tại Điều 58, Luật Thanh tra 2004.
Ban TTND ở xã phường, thị trấn do Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị
đại biểu nhân dân ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố bầu ra. Việc bầu ra thành
viên Ban thanh tra nhân dân phải căn cứ vào địa bàn, số lượng dân cư ở xã,
phường, thị trấn.
Số lượng thành viên Ban TTND được bầu có thể từ 05 đến 11 người.
Thành viên của Ban TTND không thể là người đương nhiệm trong UBND xã,
phường, thị trấn. Quy định này nhằm đảm bảo hoạt động của Ban thanh tra
nhân dân có hiệu quả, đảm bảo nguyên tắc khách quan, độc lập trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của thành viên Ban TTND.

5


Trong một nhiệm kỳ, thành viên Ban TTND không hoàn thành nhiệm
vụ hoặc không còn được nhân dân tín nhiệm thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam xã, phường, thị trấn đề nghị Hội nghị nhân dân hoặc hội nghị đại
biểu nhân dân đã bầu ra thành viên đó bãi nhiệm và bầu ra người khác thay
thế.
1.2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn
Khác với thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá của cơ

quan nhà nước, hoạt động mang tính quyền lực của Nhà nước, thanh tra nhân
dân là hoạt động giám sát của nhân dân.
Nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân được Luật thanh tra quy định
như sau:
- Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước.
- Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì kiến nghị người có thẩm quyền
xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó.
- Xác minh những vụ việc nhất định khi được Chủ tịch UBND xã,
phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước giao.
- Kiến nghị với Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khắc phục sơ hở,
thiếu xót được phát hiện qua việc giám sát; bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân và người lao động, biểu dương những đơn vị, cá nhân có
thành tích. Trường hợp phát hiện người có hành vi vi phạm pháp luật thì kiến
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý.

6


1.2.3. Về hoạt động
Hoạt động của Ban TTND được quy định tại Điều 61 và Điều 65 của
Luật thanh tra. Trong đó, Luật tranh tra ra các quy định mang tính nguyên tắc
về hoạt động của Ban TTND. Hoạt động của Ban TTND được quy định như
sau:
- Ban TTND chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp hoặc Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong quá trình hoạt

động.
- Phương hướng và nội dung kế hoạch hoạt động của Ban thanh tra
được xây dựng căn cứ vào Nghị quyết của HĐND hoặc Nghị quyết Hội nghị
công nhân, viên chức, Hội nghị đại biểu công nhân, viên chức và sự chỉ đạo
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc ban chấp hành công
đoàn cơ sở.
- Ban TTND có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp hoặc Ban chấp hành công đoàn cơ sở về kết quả hoạt động của
mình.
Hoạt động của Ban TTND bao gồm:
- Giám sát chính quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân, tổ chức.
- Tiếp dân; lắng nghe phản ánh của nhân dân.
- Nắm tình hình, xác minh, theo dõi.
- Trao đổi trong Ban TTND và Mặt trận Tổ quốc.
- Kiến nghị HĐND, UBND vừa bằng hình thức phát biểu, vừa bằng văn
bản.
- Theo dõi việc giải quyết của chính quyền.
- Tham gia trong các đoàn kiểm tra của Thanh tra nhà nước
7


1.3. Vai trò của Ban TTND trong quản lý xã hội cấp cơ sở
Vai trò của Ban TTND là giám sát cơ quan chính quyền, người điều
hành, quản lý, thực thi các văn bản pháp luật và ban hành các văn bản pháp
quy cấp cơ sở.
Ban TTND được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước để
giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

cơ quan, tổ chức.
Ban TTND vừa là tổ chức thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của
nhân dân ở cơ sở, vừa là tổ chức thực hiện quyền kiểm tra có tính nhà nước
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức, các nhân
có trách nhiệm.
Với vai trò quan trọng như vậy, Ban TTND cần được tăng cường hoạt
động hơn nữa để phát huy triệt để chức năng, nhiệm vụ của mình xây dựng bộ
máy chính quyền ở cơ sở ổn định, phát triển vững mạnh.

8


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN THANH TRA
NHÂN DÂN Ở XÃ NGHĨA HỒ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về đặc điểm tình hình xã Nghĩa Hồ
Nghĩa Hồ là một xã thuộc huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Là xã nằm
ở phía Đông Bắc huyện Lục Ngạn, có diện tích đất tự nhiên khá rộng 212,23
km2 với 11 thôn, xóm; dân số của xã là hơn 1,3 vạn nguời, có 05 dân tộc sinh
sống; Nhân dân các dân tộc trong xã chủ yếu sống ở vùng nông thôn (chiểm
87%); lao động chủ yếu là lao động nông nghiệp.
Những năm gần đây, với sự nỗ lực phấn đấu của mình và được sự giúp
đỡ của các ngành, các cấp trong huyện, tỉnh và Trung ương, Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân các dân tộc trong xã đã đạt được nhiều thành tựu trong
phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh quốc phòng; nền kinh tế tiếp tục
đạt mức tăng trưởng khá, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được đầu tư tăng
cường, nhiều công trình phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh được xây dựng
từ nguồn vốn tập trung của nhà nước, vốn sự nghiệp và vốn đóng góp của
nhân dân. Giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao có nhiều chuyển biến
tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt,

nhiều chính sách xã hội phát triển và nâng cao đời sống nhân dân được triển
khai thực hiện. An ninh chính trị, đời sống vật chất của nhân dân được ổn
định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, nhân dân tuyệt đối tin tưởng vào sự
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền.
Tuy vậy, Nghĩa Hồ là xã thuộc huyện miền núi, có diện tích đất đai
rộng nhưng địa hình khá phức tạp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa phát
triển, quy mô kinh tế còn nhỏ, có cấu kinh tế còn nhiều lạc hậu đặc biệt là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông – lâm ngiệp còn chậm và chủ
yếu là phụ thuộc vào thiên nhiên; đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó
9


khăn. Đây cũng là vấn đề đặt ra cho các cấp uỷ đảng, chính quyền xã cần
đẩy mạnh công tác nghiệp vụ và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, phản
ánh tốt hơn mọi mặt đời sống của nhân dân, giúp ổn định tình hình kinh tế xã hội
2.2. Thực trạng của Ban thanh tra xã Nghĩa Hồ
2.2.1. Về tổ chức
Ban TTND xã Nghĩa Hồ nhiệm kỳ (2007-2009) gồm có 01 Trưởng
ban, 01 phó ban và 09 thành viên được phân công phụ trách từng thôn theo
địa bàn dân. Tháng 12/2007, thực hiện Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLTKHĐT-UBMTTW-TC ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Ủy Ban
Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài Chính về thực hiện
Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg về quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng,
Ban TTND xã Nghĩa Hồ đề nghị và được Uỷ ban Mặt trận xã ra Quyết định
công nhận Ban TTND kiêm thêm nhiệm vụ Giám sát đầu tư cộng đồng
(GSĐTCĐ). Từ đó, Ban TTND tiếp tục bầu bổ sung thêm 01 Phó trưởng
ban. Tất cả thành viên Ban TTND kiêm GSĐTCĐ được tập huấn kỹ năng
nghiệp vụ tại huyện. Trong suốt nhiệm kỳ qua, Ban TTND kiêm GSĐTCĐ
đã kịp thời phát hiện những thiếu sót kiến nghị cho Ủy ban nhân dân giải
quyết, góp phần xây dựng Đảng, Chính quyền trong sạch, vững mạnh, thúc
đẩy kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển, trật tự xã hội trên địa bàn từng bước

ổn định.
2.2.2. Về hoạt động
Thực hiện sự chỉ đạo của UBND xã Nghĩa Hồ, Ban TTND kiêm
GSĐTCĐ đã xây dựng chương trình hoạt động hằng quý, năm, đồng thời phối
hợp với các ban ngành, đoàn thể và nhân dân hợp tác trong hoạt động giám
sát. Ban thanh tra nhân dân kiêm GSĐTCĐ đã được HĐND, UBND và Uỷ
Ban Mặt trân Tổ quốc xã cung cấp các Nghị quyết các kỳ họp HĐND xã,
chương trình công tác định kỳ 6 tháng, năm của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc,
10


báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng, năm của UBND xã, các văn bản về
dự toán, thiết kế xây dựng các công trình ở xã, các văn bản áp giá đền bù, giải
phóng mặt bằng, tái định cư, khai thác quỹ đất; quy chế dân chủ ở xã... Ngoài
ra, Ban TTND được mời tham dự các cuộc họp, hội nghị HĐND, UBND, Uỷ
ban Mặt trận Tổ định kỳ 6 tháng, một năm và bất thường, các cuộc hội nghị ở
thôn; hội nghị đóng góp ý kiến và lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND, UBND nhiệm kỳ (2004-2009). Tham gia công tác giải toả đền bù,
giải phóng mặt bằng; tham gia các cuộc họp đấu thầu, nghiệm thu xây dựng
các công trình như trường học, đường giao thông nông thôn, nhà văn hoá
thôn, trung tâm văn hoá; tham gia các cuộc hoà giải và giải quyết khiếu nại ở
thôn, xã. Bên cạnh đó, Ban TTND xã được nhân dân cung cấp nhiều nguồn
tin có giá trị giúp Ban TTND kiến nghị kịp thời cho UBND trên các lĩnh vực
như: công tác áp giá đền bù, giải phóng mặt bằng tái định cư cụm công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp Nam Dương; lấn chiếm đất xây dựng nhà trái phép; tranh
chấp đất và cây lâm nghiệp giữa Sư đoàn 325 với một số hộ thôn Tân Lập;
các công ty khai thác khoáng sản gây ô nhiễm môi trường như khai thác đá
ảnh hưởng tiếng nổ, bụi, nguồn nước sản xuất; khai thác quặng Titan làm
ngăn dòng chảy, ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Cụ
thể như sau:

2.2.2.1. Hoạt động giám sát việc thực hiện chủ trương chính sách pháp
luật
Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND xã, Ban TTND xã đã
giám sát việc xây dựng Trạm Y tế xã, xây dựng Trường Mẫu giáo đạt chuẩn
Quốc gia, xây dựng Trung tâm văn hoá xã, Nhà sinh hoạt văn hoá thôn, bê
tông hoá giao thông nông thôn, chế độ người có công, cấp gạo cho hộ khó
khăn trong dịp Tết; giám sát áp giá đền bù, tái định cư, xây dựng đường và
cống thoát nước khu tái định cư, giám sát việc đền bù hư hại nhà cửa do nổ
mìn của công ty Quốc tế đá Thái Bình đối với 121 hộ dân thôn Ổi Mới, việc

11


giải quyết ô nhiễm môi trường của Trạm trộn bê tông nhựa Đài Loan, khai
thác Titan của các công ty gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và sản xuất,
đồng thời bồi lấp mương tưới tiêu, việc lập thủ tục đề nghị cấp giấy quyền
sử dụng đất, việc đóng góp tiền, vật lực của dân để xây dựng giao thông
nông thôn, thu chi ngân sách và các nguồn quỹ đóng góp của dân, giám sát
việc bình xét hộ đói nghèo năm 2009 – 2010…
Qua giám sát, phát hiện kiến nghị cho UBND và các ngành hữu quan
đã kiểm tra, xử lý, giải quyết được nhiều vụ việc, tạo được niềm tin, giảm
khiếu nại đông người, điển hình các vụ việc như: Chi trả tiền hỗ trợ xây
dựng nhà văn hoá thôn, Công ty khai thác cát Bình Dương đền bù thiệt hại
121 nhà dân ở thôn Nhập Thành, số tiền là 39.000.000đ; xử lý phạt hành
chính 2.000.000 đồng về việc xây dựng nhà trái phép; buộc 02 công ty khai
thác quặng Titan đền bù cho nhân dân là 21.000.000đ để khắc phục ô
nhiễm nước sinh hoạt; giải quyết tranh chấp cây cối, thu hồi lại cho người
bị hại 350.000đ...
Ban TTND xã giám sát việc xây dựng các công trình “Nhân dân làm,
Nhà nước hỗ trợ” như xây dựng đường giao thông nông thôn, Nhà văn hoá

thôn Minh Lập, Trung Nghĩa, Nghĩa Hồ...cũng như các công trình phúc lợi
phục vụ dân sinh, giám sát cơ chế hành chính liên thông “một cửa”. Giám sát
việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và
UBND xã, giám sát việc chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nghị quyết HĐND xuống dân. Nhìn chung, cán bộ từ xã đến thôn luôn giữ
mối quan hệ mật thiết với nhân dân, luôn phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tạo được sự đồng thuận trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, mà cụ thể việc lấy phiếu tín nhiệm vừa qua
các đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND xã đều đạt 98-100%
phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên gần đây do áp lực khối lượng công việc nhiều nên
việc chuyển tải những chủ trương của Đảng, Nghị quyết của HĐND, các

12


chương trình phát triển kinh tế xã hội khác đến nhân dân có lúc chưa kịp thời.
Mặt khác số lượng nhân dân tham gia trong các buổi hội họp còn thấp.
2.2.2.2. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại
Hai năm qua, tổng số đơn thư khiếu nại của công dân, UBND xã đã thụ
lý 57 đơn, trong đó Ban TTND chuyển sang 04 đơn. Có 56 đơn thư khiếu nại
đúng, khiếu nại không đúng 01 đơn.
UBND xã đã thụ lý giải quyết 57 đơn đạt 100%. Số đơn thư khiếu nại
đúng chiếm tỷ lệ cao, nhờ đó Ủy ban nhân dân và các cơ quan liên quan xử lý
giải quyết kịp thời, đúng luật không có tình trạng dây dưa, kéo dài quá thời
hạn quy định.
2.2.2.3. Công tác hoà giải
Hầu hết 11/11 thôn,xóm đều có tổ hoà giải. Ban hoà giải ở xã đã xây
dựng được quy chế phối hợp trong công tác hoà giải, Ban TTND phối hợp
cùng UBND xã tổ chức hoà giải 45 vụ, hoà giải thành 43 vụ, chưa hoàn
thành tiếp tục thụ lý hồ sơ giải quyết 02 vụ. Điển hình các vụ việc hoà giải

thành: tranh chấp lối đi của hộ dân ở thôn Nghĩa; tranh chấp đất vườn giữa
các hộ dân ở thôn Hoà Vân; tranh chấp cây lâm nghiệp giữa các hộ dân ở
thôn Hoà Mỹ; về vợ chồng mâu thuẫn xin ly hôn ở thôn Lâm Trường...Nhờ
đó mà hạn chế được việc khiếu nại đông người vượt cấp.
2.3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế tồn tại của Ban thanh tra nhân dân
xã Nghĩa Hồ
2.3.1. Ưu điểm
Ban TTND xã đã nhận thực được trách nhiệm của mình đối với công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm.
Từ đó đã tích cực chủ động lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời các vụ việc
khiếu nại, tố cáo từ khi mới phát sinh để góp phần ổn định tình hình trật tự xã
hội, hạn chế xảy ra khiếu kiện đông người.
13


Với tinh thần trách nhiệm, Ban TTND xã Nghĩa Hồ đã duy trì tốt việc
tổ chức và phân công từng thành viên phụ trách hoạt động theo địa bàn dân
cư. Được tập huấn công tác giám sát nên khắc phục được tình trạng bị động,
lúng túng, hiệu quả giám sát được nâng lên. Đồng thời, được sự lãnh đạo của
các cấp uỷ Đảng; sự phối hợp, quan tâm tạo điều kiện của HĐND, UBND;
Ban Thường Trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã luôn hướng dẫn đôn
đốc và Ban Công tác Mặt trận thôn thường xuyên giữ mối liên hệ. Hoạt động
của Ban TTND bám sát được chương trình, nhiệm vụ trọng tâm của xã như
xây dựng cơ sở hạ tầng, áp giá đền bù, giải phóng mặt bằng..., thường xuyên
giao ban phản ảnh tình hình kịp thời hạn chế khiếu kiện và không phát sinh
điểm nóng.
Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, giải thích
chính sách cho nhân dân. Các kiến nghị, phản ánh của công dân đều được
phân loại, xử lý và giải quyết kịp thời.
* Nguyên nhân của những ưu điểm và kết quả đạt được

Có được những kết quả trên, trước hết là do sự phối hợp giữa chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo được chú trọng.
Công tác vận động, giáo dục, thuyết phục, hoà giải, thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở được tăng cường, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của
nhân dân, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Ban TTND và
công tác thanh tra trong địa bàn xã Nghĩa Hồ.
2.3.2. Hạn chế
Về thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo còn hạn chế, viêc tiếp dân, tiếp
nhận các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền phải giải quyết còn
chậm, giải quyết không kịp thời, dứt điểm. Có biểu hiện đùn đẩy, né tránh,
giải quyết chưa thấu tình đạt lý.

14


Công tác tuyên truyền, thuyết phục vận động hoà giải các tranh chấp
trong nọi bộ nhân dân kết quả chưa cao, một số cán bộ năng lực hạn chế, thiếu
trách nhiệm, thái độ của cán bộ tham gia giải quyết công việc của nhân dân
chưa đúng mức, chưa thuyết phục nên đã gây ức chế cho người khiếu nại, tố
cáo dẫn đến một số cụm dân cư công dân thiếu lòng tin ở cán bộ cơ sở, gửi
đơn vượt cấp lên trên (như Minh Lập, Hồng Giang…).
Ngoài ra, quan hệ lệ thuộc UBND về phương tiện, điều kiện vật chất
của Ban TTND xã cũng là một khó khăn, vướng mắc và mâu thuẫn giữa
nhiệm vụ và quyền hạn của TTND. Điều này thể hiện ở chỗ Ban TTND giám
sát hoạt động của UBND, nhưng UBND lại là người cấp kinh phí hoạt động
dưới các hình thức khác nhau cho Ban TTND và tạo những điều kiện, phương
tiện khác cho TTND hoạt động: Trụ sở, thanh toán công tác phí, chi phí cho
tổng kết hoạt động, thi đua khen thưởng đều lấy tài chính từ UBND. Như vậy,
TTND sẽ khó giữ tính độc lập, khách quan đối với UBND, dẫn đến né tránh

việc giám sát, kiểm tra hoạt động điều hành, quản lý của cơ quan nhà nước
quan trọng bậc nhất ở cơ sở này.
Những điều kiện cho Ban TTND xã hoạt động là một thực trạng khó
khăn. Là tổ chức được Nhà nước giao quyền năng giám sát nhưng Ban TTND
lại ít được phổ biến các văn bản pháp luật của Trung ương cũng như địa
phương. Các chính sách của địa phương, TTND cũng không được thông suốt,
phồ biến vì không được UBND, HĐND mời họp, chỉ có Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cơ sở có trách nhiệm này, trong khi chính Mặt trận Tổ quốc cơ sở cũng
bị hạn chế về thông tin.
* Nguyên nhân của những hạn chế
Một số thành viên Ban TTND ít bám sát chương trình hoạt động nên
có lúc nắm bắt, phản ảnh thông tin khi vụ việc xảy ra chưa kịp thời; ít vận
động được sự hợp tác của nhân dân nên số nguồn tin do nhân dân cung cấp
còn ít.
15


Mặt khác, một số thành viên Ban TTND vì điều kiện kinh tế khó khăn,
nên ít tham gia công tác giao ban, trực báo, định kỳ, đột xuất, nội dung báo
cáo còn chung chung chưa đảm bảo yêu cầu của hoạt động.
Chưa xây dựng quy chế phối hợp giữa TTND với Ban công tác Mặt
trận, nên có lúc, có nơi một số Trưởng ban công tác Mặt trận chưa thực sự coi
thanh tra nhân dân là đại diện cho mình để đôn đốc, hướng dẫn, vì thế hoạt
động giám sát của TTND còn hạn chế.

16


CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA

BAN THANH TRA NHÂN DÂN Ở XÃ NGHĨA HỒ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Quan điểm của Đảng về hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chọn, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân chủ
nhân dân, giành chính quyền về tay mình và đã xây dựng nên Nhà nước Việt
Nam độc lập, tự do.
Đảng ta nhận định rằng Ban TTND là tổ chức giám sát của quần chúng,
có nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ,
viên chức nhà nước nhằm mục đích xây dựng Nhà nước Việt Nam ngày càng
lớn mạnh. Nhờ đó, các thói quan liêu, thiếu trách nhiệm sẽ được hạn chế dần; tệ
tham nhũng sẽ bị triệt phá tận gốc, khiến cho bộ máy nhà nước trong sạch hơn.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban TTND là giải pháp hữu hiệu nhằm tăng
cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, một trong các mục tiêu của công cuộc cải
cách bộ máy nhà nước ta hiện nay.
Với tư tưởng này, Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hoá thành hệ thống
chính trị: Đảng - Nhà nước - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên. Như vậy, Hiến pháp đã thừa nhận hình thức tập hợp quần chúng nhân
dân thông qua Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức quần chúng, đoàn thể nhân dân đã trở thành người đại diện cho tầng
lớp nhân dân.
Các Nghị quyết Trung ương Đảng khóa VIII, văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII đã chỉ rõ: “Tăng
cường tổ chức và hoạt động ban thanh tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu
hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước; thiết lập kỷ cương xã hội”.
17


Như vậy, quan điểm của Đảng ta là cần hình thành một hệ thống tổ
chức nhân dân từ Trung ương xuống cơ sở. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

thành viên phối hợp tổ chức, chỉ đạo đối với hệ thống này.
3.2. Một số giải pháp tăng cường hoạt động của Ban TTND xã Nghĩa Hồ
trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Kiên trì sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền
Để Ban TTND hoạt động tốt hơn cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết
của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng về cơ sở nhằm
tạo cho cơ sở phát triển trên các mặt đời sống xã hội. Ban TTND xã Nghĩa
Hồ tiếp tục phát huy vai trò trong hoạt động giám sát, đồng thời phối hợp
các tổ chức thành viên của Mặt trận và vận động nhân dân hợp tác trong
việc hoạt động giám sát. Xây dựng chương trình hoạt động giám sát gắn
với nhiệm vụ do HĐND, UBND xã đề ra và chủ trương chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước, tập trung giám sát những nhiệm vụ trọng tâm
của địa phương.
Chú trọng đến việc áp giá đền bù, tái định cư, giải phóng mặt bằng, xây
dựng cơ bản, quản lý đất đai, tài chính, tài sản công, thực hiện tốt việc lấy
phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND, bầu cử
trưởng thôn, bầu cử HĐND 3 cấp, giám sát cán bộ công chức nhằm xây dựng
chính quyền trong sạch vững mạnh.
3.2.2. Nâng cao vai trò trách nhiệm của cán bộ xã, trưởng các ban, ngành
trong xã
Thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND và UBND, bầu cử trưởng thôn, bầu cử HĐND 3 cấp, giám sát cán bộ
công chức nhằm xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh.
3.2.3. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Ban TTND cần thiết lập được nhiều mối quan hệ mà mối quan hệ gắn
bó nhất là với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cơ sở. Từ giai đoạn thành lập cho đến
18


khi hoạt động, Mặt trận Tổ quốc cơ sở đều chỉ đạo sát sao, coi Ban TTND

như một công cụ đắc lực của mình, góp phần thực hiện chức năng giám sát
của Mặt trận cơ sở. Nhiều nơi cấu tạo Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc cơ sở là
Trưởng ban TTND, vì vậy các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà
nước mà Mặt trận Tổ quốc cơ sở nắm được đều truyền đạt, phổ biến kịp thời
cho Ban TTND.
Mặt trận tổ quốc cơ sở quan hệ với chính quyền xã, phường, thị trấn
nhằm tạo điều kiện, cơ sở vật chất như trụ sở, phương tiện tối thiểu làm việc
cho Ban, kiến nghị để Uỷ viên TTND có được thù lao công tác trong lúc chế
độ đãi ngộ cho Uỷ viên TTND chưa được quy định. Những kiến nghị của Ban
TTND được Mặt trận Tổ quốc cơ sở ủng hộ, bảo vệ trong các cuộc họp Hội
đồng nhân dân cùng cấp. Vì vậy cho thấy, nếu Mặt trận Tổ quốc xã, phường,
thị trấn nào hoạt động mạnh thì hầu như nơi đó Ban TTND cũng hoạt động có
hiệu quả cao.
3.2.4. Thường xuyên giám sát giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo
Giải pháp này yêu cầu phải thường xuyên quan tâm, đôn đốc, giải
quyết các kiến nghị, khiếu nại của công dân theo đúng thẩm quyền, đúng
trình tự và thời gian quy định. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, hướng
dẫn, chấn chỉnh các thôn xóm thực hiện tốt công tác tư tưởng, tránh xảy tra
tranh chấp, bất đồng và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm Luật Khiếu
nại, tố cáo.
Để nâng cao và phát huy vai trò giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ban
TNND phải chú ý những vụ việc kéo dài, tồn đọng, tham gia tốt công tác hoà
giải ở cơ sở, hạn chế đơn thư khiếu nại tố cáo phát sinh vượt cấp.
Tăng cường giám sát công tác hoà giải ở cơ sở, đây là giải pháp hết sức
quan trọng góp phần giải quyết các mâu thuẫn, khiếu nại, tố cáo một cách triệt
để trong cộng đồng dân cư.

19



3.2.5. Phối hợp với UBND tiếp tục tuyên truyềnchính sách của Đảng, Pháp
luật của Nhà nước, Pháp lệnh dân chủ cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong việc thực hiện giám sát
Hằng quý đánh giá việc thực hiện quy chế phối hợp giữa TTND và
UBND. Nâng cao chất lượng hoạt động, đi vào nề nếp để làm tốt thông tin
hai chiều, thực hiện sơ kết, tổng kết, giao ban báo cáo định kỳ quý, 6 tháng,
năm cho Uỷ ban Mặt trận các cấp đúng thời gian quy định.
Tăng cường hoạt động của các Ban TTND là một trong những nhiệm
vụ của công cuộc cải cách bộ máy nhà nước ta hiện nay. Chính vì vai trò này
của tổ chức quần chúng, từ thực tế cùng gánh vác công việc chung của đất
nước mà Nhà nước ta cần hỗ trợ tài chính cho tổ chức giám sát của nhân dân
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các nước trên thế giới đều thực hiện tài trợ, hỗ trợ
đối với các tổ chức phi chính phủ có hoạt động vì sự phát triển xã hội, cũng
như tạo ra một số các điều kiện khác để các tổ chức đó hoạt động. Xét cho
cùng thì các hoạt động vì sự phát triển của xã hội đó chính là những hoạt động
chia sẻ trách nhiệm cùng Nhà nước trước các xu hướng phát triển xã hội đa
dạng, phức tạp, nếu chỉ mình Nhà nước sẽ không làm nổi.

20


C. KẾT LUẬN
Ban thanh tra nhân dân ở cơ sở có vai trò hết sức quan trọng. Thực hiện
tốt công tác thanh tra nhân dân của Ban thanh tra nhân dân thể hiện quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong việc tăng cường hoạt động giám sát của nhân
dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là việc thực hiện nhiệm vụ
của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước. Đồng
thời, tăng cường hoạt động của Ban thanh tra nhân dân thể hiện quan điểm
xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân của Đảng và Nhà nước ta,
trong đó mọi quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân.

Xã Nghĩa Hồ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang thời gian qua mặc dù
Ban thanh tra nhân dân hoạt động còn nhiều hạn chế, thiếu xót nhưng về cơ bản
đã thực hiện tốt đi vào quy củ và có nề nếp. Xã đã quán triệt đầy đủ ý nghĩa và
tầm quan trọng của Ban thanh tra nhân dân trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành. Đây là việc vô cùng cần thiết. Từ đó,
có các biện pháp tích cực tạo điều kiện thuận lợi để các ban thanh tra nhân dân
hoàn thành nhiệm vụ, đưa hoạt động thanh tra nhân dân đạt chất lượng, hiệu
quả, xứng đáng với vai trò, vị trí của các Ban thanh tra nhân dân góp phần thực
hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo xây dựng đất nước
phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh./.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình quản lý xã hội cấp cơ sở - Khoa Nhà nước và Pháp luật – 2010;
2. Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam – NXB Lao Động – 2009;
3. Những nội dung cơ bản của Luật Thanh tra – Hà Nội – 2004;
4. Một số Văn bản pháp luật về Thanh tra, khiếu nại, tố cáo và chống tham
nhũng – NXB Thống Kê – HN – 2006;
5. Mấy vấn đề về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Vũ Như
Ngô, 2008;
6. Quan điểm mới tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, H.Chính
trị Quốc Gia – 2005;
7. Lịch sử Đảng bộ huyện Lục Ngạn;
8. Báo cáo tổng kết UBND huyện Lục Ngạn các năm 2007, 2008, 2009;
9. www.vietbao.vn;


22


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA NHÀ NƯỚC – PHÁP LUẬT

TIỂU LUẬN

Đề tài:

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN THANH
TRA NHÂN DÂN Ở XÃ NGHĨA HỒ - LỤC NGẠN – BẮC GIANG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY (2007 – 2009)

Sinh viên: Lưu Thị Quỳnh Hoa
Lớp:

Quản lý xã hội K27

Môn:

Quản lý xã hội cấp cơ sở

HÀ NỘI – 2010

23




×