Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sự ra đời của chủ nghĩa khoa học giữa thế kỷ XIX là quy luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu giảng dạy lý luận mác – lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.18 KB, 23 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một hệ thống lý luận khoa học do Mac và
Ăngghen sáng lập, Lênin kế thừa và phát triển. Những lý luận này không phải là
sản phẩm tinh thần tư tưởng thuần túy do đầu óc thiên tài của các ông tưởng tượng
ra. Sự thật là tất cả các tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa từ hàng
ngàn năm qua của nhân loại, trong đó có cả chủ nghĩa xã hội khoa học, đều gắn
liền và phản ánh mức độ nào đó của thực tiễn sản xuất và đấu tranh của nhân loại.
Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa các tư tưởng xã
hội chủ nghĩa trước nó như thế nào? Vai trò của nó trong việc nhận thức thực tiễn
tự nhiên và xã hội, trong việc nhận thức và cải tạo tự nhiên và xã hội?
Chủ nghĩa khoa học Macxit sở dĩ nói là “khoa học” bởi vì lý luận của nó
không phải dựa vào nguyện vọng chủ quan và tưởng tượng, mà xây dựng trên quan
điểm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, nó luận chúng một cách khoa
học rằng chủ nghĩa xã hội tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản, nhận thức được sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vạch rõ con đường đúng đắn thực hiện chủ
nghĩa xã hội. Nó vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, phát hiện quy
luật khách quan của chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa tất yếu bị chủ nghĩa xã hội thay
thế, luận chứng giai cấp vô sản là “người đào mồ” chôn chủ nghĩa tư bản, xây
dựng nền chuyên chính của giai cấp vô sản, thực hiện lý tưởng cuả chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học nhấn mạnh làm theo quy luật khách quan. Chủ
nghĩa xã hội khoa học từ khi ra đời đếnh nay dần dần được quần chúng công nhân
chấp nhận, trở thành kim chỉ nam cho hành động của họ, hình thành phong trào xã
hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa với quy mô ngày càng lớn và không ngừng
giành được những thành tựu mới và kinh nghiệm thực tiễn của phong trào xã hội

2



chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, làm phong phú thêm và thúc đẩy lý luận chủ nghĩa
xã hội khoa học phát triển.
Bởi vai trò to lớn đó của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà ý nghĩa của nó với
việc học tập nghiên cứu lý luận Mác – Lênin cũng vô cùng to lớn. Để làm rõ sự ra
đời của chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như những ý nghĩa thực tiễn của nó hiện
nay, em xin chọn đề tài: “ Sự ra đời của chủ nghĩa khoa học giữa thế kỷ XIX là
quy luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Ý nghĩa đối với công tác nghiên
cứu giảng dạy lý luận Mác – Lênin”. Kính mong thầy cô chỉ bảo và giúp đỡ!
2. Đối tượngvà phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng nghiên cứu là những quy luật và
tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, những nguyên tắc cơ bản, những điều
kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản (và các chế độ tư hữu) lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Thứ nhất, khảo sát phân tích những tư liệu chủ nghĩa xa hội khoa học.
- Thứ hai, thực tiễn việc nghiên cứu vận dụng vào công tác giảng dạy lý luận
Mác – Lênin.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3


Tìm ra ý nghĩa của sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học vào giữa thế kẻ XIX
đối với việc nghiên cứu giảng dạy lý luận Mác – Lênin.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích trên, đề tài phải đặt ra cho mình những nhiệm
vụ:
- Trình bày sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học vào giữa thế kỷ XIX với tư
cách là quy luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Làm rõ ý nghĩa ý nghĩa của sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học vào giữa
thế kẻ XIX đối với việc nghiên cứu giảng dạy lý luận Mác – Lênin
góp phần hoàn thành mục tiêu chính của đề tài.
4. Hệ phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội khoa học cuối thế kỷ XIX.
* Phương pháp nghiên cứu chung
Trong quá trình thực hiện đề tài, sử dụng một số phương pháp: phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa,...
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu
gồm 2 chương:

4


Chương 1: Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học giữa thế kỷ XIX – quy
luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Chương 2: Ý nghĩa sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học với việc nghiên cứu
giảng dạy lý luận Mác – Lênin.

5



NỘI DUNG
Chương 1: Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học giữa thế kỷ XIX – quy
luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một hệ thống những
quan niệm, ý thức, thể hiện và phản ánh ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp,
tầng lớp lao động bị áp bức và bị thống trị về một xã hội mà ở đó trên cơ sở mọi tư
liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, các quan hệ giữa người với người là bình đẳng,
mọi thành viên có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, không có áp bức bóc lột.
Lênin đã viết: “Đã lâu rồi, bao thế kỷ nay, thậm chí hàng ngàn năm nay, nhân loại
mong ước thủ tiêu “lập tức” mọi sự bóc lột”. Quá trình phát sinh và phát triển lâu
dài tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa được thể hiện qua những nội
dung, khuynh hướng và nhiều hình thức khác nhau do điều kiện lịch sử mỗi thời kỳ
khác nhau quy định.
Trải qua hàng ngàn năm phát triển và là sự phản ánh những ước mơ, những
khát vọng chính đáng, đậm tính nhân văn và nhân đạo, tư tưởng xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa dần trở thành một hệ thống tri thức của nhân loại bị áp bức,
và trải qua các trình độ phát triển từ thấp đến cao, tư sơ khai, không tưởng đến hệ
thống lý luận khoa học. Và đến thế kỷ XIX đánh dấu sự ra đời chủ nghĩa xã hội
khoa học. Đây được coi là quy luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề tư tưởng – lý luận để chủ
nghĩa xã hội trở thành khoa học
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

6


Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong
công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền

sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở
thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào
giai đoạn hoàn thành... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa , với một lực lượng sản xuất
phát triển mạnh và với một hệ thống các quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa được xác lập, được củng cố đã tạo nên một cơ cấu xã hội – giai cấp
mới, với một hệ thống các mối quan hệ mới giữa các giai cấp và các tầng lớp xã
hội ấy. Đây được xem là nguyên nhân trực tiếp của những biến động sâu sắc trong
đời sống văn hóa – xã hội, chính trị - xã hội của chủ nghĩa tư bản. Quan hệ tác
động qua lại và những mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân đã trở
thành mối quan hệ cơ bản trung tâm, không chỉ là thay thế cho quan hệ qua lại,
mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến quý tộc với giai cấp nông dân, mà còn trở
thành trục trung tâm chi phối đời sống chính trị của xã hội đương thời, được biểu
hiện trên hai nội dung:
Thứ nhất, sự gia tăng vai trò thống trị của giai cấp tư sản, là thời đại của các
cuộc cách mạng tư sản. Có thể thấy, những năm giữa thế kỷ XIX là những năm
thuộc về giai cấp tư sản, là thời kỳ của các cuộc cách mạng tư sản. Cách mạng
chẳng những nổ ra ở Pháp mà còn nổ ra ở hầu khắp Châu Âu. Đây là năm hỗn loạn
nhất ở Châu Âu với một loạt những sự kiện, những cuộc cách mạng dân chủ tư sản
cho thấy thời đại mới đã bắt đầu, với những nội dung, quan hệ cơ bản và các mâu
thuẫn mới đã thay thế hoàn toàn thời đại chuyên chế phong kiến. Đây là thời đại
của cách mạng tư sản, thời đại của giai cấp tư sản.
Thứ hai, sự gia tăng mạnh mẽ vị thế, vai trò là một lực lượng chính trị độc
lập của giai cấp công nhân. Có thể thấy, chính những cuộc cách mạng dân chủ tư
7


sản lại là dấu hiệu báo trước về một sự lớn mạnh của giai cấp mới đối lập với giai
cấp tư sản, đánh dấu báo hiệu sự trưởng thành nhanh chóng, tất yếu trong đấu tranh
của giai cấp công nhân, với tính cách là một lực lượng xã hội mới, một lực lượng
chính trị độc lập, cách mạng trên vũ đài lịch sử. Cụ thể là từ đầu năm 1838 đến

năm 1848 ở nước Anh diễn ra phong trào hiến chương mang tính chất chính trị đầu
tiên của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản. Năm 1831, công nhân Liong
ở Pháp nổi lên đấu tranh với các khẩu hiệu “sống có việc làm hay chết trong đấu
tranh”, năm 1834 với khẩu hiệu mang tính chính trị “cộng hòa hay là chết”. Năm
1844, công nhân Xiledi ở Đức khởi nghĩa chống giai cấp tư sản. Những sự kiện
chính trị này đã nói lên được sự lớn mạnh của giai cấp công nhân một cách nhanh
chóng, với tính cách là một lực lượng xã hội mới, một thế lực chính trị mới và sự
tồn tại, phát triển của nó sẽ góp phần quyết định xu thế, nội dung phát triển của xã
hội.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh
của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph.
Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm chủ nghĩa xã hội khoa học quý báu.
1.1.2. Thành tựu khoa học tự nhiên
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời trên cơ sở hiện thực trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, mặt khác là kết tinh toàn bộ trí tuệ nhân loại những thành tựu khoa học
giữa thế kỷ XIX. Hay chủ nghĩa xã hội khoa học với khoa học nói chung và khoa
học tự nhiên nói riêng có mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy chủ
nghĩa xã hội khoa học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại.
Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang tính chất vạch thời đại
thì tạo ra sự thay đổi của chủ nghĩa xã hội khoa học.

8


Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh
với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế
bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống
nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống
nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển.
Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu

hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ
đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp
tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa học đã đem lại
những giá trị to lớn về phương pháp luận để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát,
nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội.
1.1.3. Tiền đề lý luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác
và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại : triết
học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp.
Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn
gốc trực tiếp. Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học
Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học
thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa
đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học
Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần
quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của
Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện
chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu

9


hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ
nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới,
trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ. Thêm
nữa hai ông đã vận dụng thành công chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc nghiên
cứu đời sống xã hội và đã phát hiện ra những quy luật vận động của lịch sử và xây
dựng thành hệ thống chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là phát kiến khoa học trọng đại
đầu tiên của Mac.

Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là
A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế
mà còn là cơ sở để tìm ra quy luật nội tại của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khám
phá ra bí mật của nền sản xuất đó và hình thành lý luận về giá trị thặng dư. Đó là
phát kiến trọng đại thứ hai của Mac.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của chủ nghĩa Mác. Các
Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp (quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm
về sở hữu v.v...) và khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của
nó để xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử. Cùng với phát kiến về chủ nghĩa
duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư, c.Mac đã phát hiện giai cấp công
nhân hiện đại và vai trò của nó trong lịch sử và xây dựng lý luận khoa học về chủ
nghĩa xã hội, học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của chủ nghĩa xã hội khoa học cần
tìm hiểu không chỉ trong chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp mà còn tìm hiểu
trong cả triết học cổ điển Đức và kinh tế chính trị cổ điển Anh.

10


Như vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học không còn là một phát hiện ngẫu nhiên
của một trí tuệ thiên tài nào mà là kết quả tất nhiên của cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản, là quy luật của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học không phải là dựng lên một chế độ hết
sức hoàn thiện mà là nghiên cứu quá trình lịch sử kinh tế đã làm xuất hiện các giai
cấp nói trên và cuộc đấu tranh giữa các giai cấp ấy là một kết quả tất nhiên của quá
trình đó, và trong tình hình kinh tế do quá trình đó tạo ra, tìm cho được những
phương pháp, cách thức, con đường để giải quyết những xung đột giai cấp đó trong
điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội tư sản. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học

cách mạng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới.
1.2. C.Mac và Ph.Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học
1.2.1. Sự chuyển biến của C.Mac và Ph. Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang
thế giới quan duy vật, lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường dân chủ
cộng sản
Các Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố
là luật sư) ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh hưởng của cách
mạng tư sản Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã
hội khác đã giúp Các Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do.
Phẩm chất đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc
đời sinh viên và đưa Các Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Cũng vì thế, trong
tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của nó được
Các Mác xem là chân lý. Trong thời gian học ở khoa Luật trường Đại học Tổng
hợp Béc lin (1836 - 1841) ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề

11


giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 Các Mác tập
trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Sau khi nhận bằng tiến sỹ triết học (8/1841), Các Mác chuẩn bị vào giảng
dạy triết học ở trường đại học và dự định xuất bản một tạp chí với tên gọi “Tư liệu
của chủ nghĩa vô thần”. Nhưng dự định đó không được thực hiện vì nhà nước
phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ cách mạng. Ông
và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động chính trị đấu
tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ; đánh dấu
bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư tưởng
của Các Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ
cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc

ở báo Sông Ranh, ở đây lúc đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo
và ông đã làm cho nó trở thành cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Các
Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động.
Lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ
“quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần nhân đạo,
ông tập trung phê phán các chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước đó chỉ là “cơ
quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán đó
Các Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý
tưởng tự do trong thực tế đã giúp Các Mác hình thành khuynh hướng duy vật, nhận
thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần dân chủ cách mạng sâu
sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh
bị cấm (1843), Các Mác đặt cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán
12


quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và nhà nước. Ông đã viết tác
phẩm “góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ
nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận
quan điểm duy vật của triết học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã
thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của
Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm
lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoi Ơ
Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của Mác.
Cuối tháng 10 - 1843, Các Mác sang Pari. ở đây, không khí chính trị sôi sục
và tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt
khoát quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài
báo “lời nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của

Hêghen”, Các Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa
và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời
ông khẳng định, chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc
cách mạng triệt để”. Các Mác nêu rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là
vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của
mình”. Với bài báo này và một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường, quan
điểm của Các Mác.
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh
Ranh. Khi còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự chuyên quyền và
độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở
Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con đường khoa học. Song,
chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ (Anh) từ mùa thu 1842 khi nghiên
cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong

13


trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài
báo: "Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp
công nhân Anh". Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ
nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa cộng sản đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với Các Mác. Trong
các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.
1.2.2. C.Mac và Ph.Ăngghen sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học
C.Mac và Ph. Ăngghen là những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học,
nhà lý luận và là lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Từ năm 1844, C.Mac và Ph. Ăngghen đã gắn bó với nhau trong công tác

nghiên cứu khoa học và trong thực tiễn cách mạng, hình thành hệ thống quan điểm
về chủ nghĩa xã hội khoa học : vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, Đảng cộng sản,
cách mạng vô sản, vấn đề giành chính quyền, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, vấn đề giải phóng con người và xây dựng xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Cùng với hoạt động lý luận, hai ông đã gắn bó cuộc đời mình, hòa vào
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác hướng
chủ nghĩa xã hội đến chố kết với phong trào công nhân. Dưa tới sự chín muồi cho
việc thành lập tổ chức cách mạng độc lập của giai cấp công nhân. Cuối năm 1847,
C.Mac và Ph.Ăngghen đã cải tổ “Liên đoàn những người chính nghĩa” thành
« Liên đoàn những người cộng sản ». Đại hội trù bị của Liên đoàn đã giao cho
C.mac và Ph. Ăngghen viết « Tuyên ngôn của Đảng cộng sản »1848 – đánh dấu sự
14


hình thành về cơ bản những phàm trù, nguyên lý chủ yếu của chủ nghĩa xã hội
khoa học và cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào công nhân quốc tế. Đây
đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tư tưởng cơ bản của «Tuyên ngôn của Đảng cộng sản » được thể hiện ở sự
khẳng định nhất quán cho rằng, cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử loài người đã
phát triển đến một giai đoạn mà giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu
không đồng thời giải phóng vĩnh viễn xã hội ra khỏi tình trạng phân chia giai cấp
và đấu tranh giai cấp. Sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời chủ nghĩa xã hội
là tất yếu như nhau.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của cuộc đấu tranh
giai cấp mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra : giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc
đấu tranh đó thể hiện chín muồi của những nhu cầu phát triển xã hội đòi hỏi phải
được giải phóng khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa để không ngừng vươn lên trên con
đường tiến bộ của lịch sử.
Có thể tóm tắt công lao của C.Mac và Ph.Ăngghen đối với sự ra đời của chủ

nghĩa xã hội khoa học được tập trung ở mấy điểm :
Thứ nhất, các ông đã phát hiện và chứng minh một cách khoa học con
đường, phương thức đấu tranh của nhân loại trong quá trình chuyển biến cách
mạng của loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, các ông đã phát hiện ra và chứng minh một cách khoa học rằng giai
cấp công nhân là lực lượng xã hội duy nhất có đủ khả năng đảm nhận sứ mệnh lịch
sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Thứ ba, hai ông đã kế thừa một cách xuất sắc những giá trị của chủ nghĩa xã
hội không tưởng – phê phán đối với những mặt, những nội dung cơ bản hợp thành

15


của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hơn thế, các ông còn chứng minh
được một cách khoa học những quy luật và tính quy luật của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực cơ bản của xã hội, trong tiến trình từng bước xây dựng
xã hội mới, đưa nhân loại từng bước tiến vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Với công lao nay, C.Mac và Ph. Ăngghen đã thực hiện cuộc cách mạng trên
lĩnh vực xã hội chủ nghĩa của loài người, đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở
thành khoa học, đặt cơ sở, nền móng cho sự khám phá sáng tạo mới của chủ nghĩa
xã hội trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.

16


Chương 2 : Ý nghĩa sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học với việc nghiên cứu
giảng dạy lý luận Mác – Lênin
2.1. Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả của sự vận dụng tất nhiên thế giới

quan, phương pháp luận triết học vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật
khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa – bước chuyển từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, từ vương quốc của tất yếu sang
vương quốc của tự do.
Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng nằm trong quá trình phát triển lịch sử các tư
tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa, phát
triển những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng, tìm ra cơ sở khoa học, cơ sở
thực tiễn của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Các nhà kinh điển Mác – Lênin cũng
chỉ rõ nghĩa rộng và nghĩa hẹp của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Theo nghĩa hẹp, thì chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên phương pháp luận triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời cũng dựa trên những cơ sở lý
luận khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ kinh tế... để luận giải một cách khoa
học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành và phát triển
hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, , gắn với sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
giai cấp công nhân hiện đại, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác – Lênin
(gồm cả ba bộ phận). Nói về nghĩa rộng của chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin
khẳng định « Chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác », bởi vì, suy cho
cùng cả triết học Mác và kinh tế chính trị Mác đều dẫn đến cái tất yếu lịch sử là
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
17


nghĩa. Người lãnh đạo, tổ chức nhân dân thực hiện chỉ có thể là giai cấp công nhân
hiện đại, thông qua đảng của nó. Mà phạm trù « giai cấp công nhân » và « sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân » lại trực tiếp là những phạm trù cơ bản nhất của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Cho nên, gọi toàn bộ chủ nghĩa Mác (hay chủ nghĩa
Mác – Lênin) là chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa rộng là nói về thực chất và
mục đích của toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin

2.2. Ý nghĩa sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học với việc nghiên cứu giảng dạy
lý luận Mác – Lênin
Về mặt lý luận, việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển lý luận chủ
nghĩa Mác – Lênin phải chú ý cả ba bộ phận hợp thành của nó. Nếu không chú ý
nghiên cứu, vận dụng, học tập, phát triển chú nghĩa xã hội khoa học sẽ làm cho
triết học, kinh tế chính trị Mác – Lênin dễ bị chệch hướng chính trị - xã hội, trước
hết và chú yếu là lệch hướng bản chất, mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản giải phóng hoàn toàn xã hội và con người khỏi các chế độ tư hữu,
áp bức, bất công, chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu và mọi tai họa xã hội khác... mà
thực tế lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến. Bởi vậy, khi nghiên cứu giảng dạy
triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị Mác – Lênin phải luận chứng cuối cùng đến
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, dẫn đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản... đó mới là những biểu hiện đúng đắn trong giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin
Sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học còn có ý nghĩa lý luận quan trọng với
việc nghiên cứu giảng dạy, đó là ; trang bị những nhận thức chính trị - xã hội (như
đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học)
cho đảng cộng sản, nhà nước và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ và xây
dựng chủ nghĩa xã hội... Vì thế, các nhà kinh điển Mác – Lênin có lý khi xác định
rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện dại

18


và đảng của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân
mình.
Cũng như triết học và kinh tế chính trị học Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội
khoa học không chỉ ở giải thích thế gới mà căn bản ở chỗ cải tạo thế giới theo
hướng tiến bộ văn minh. Đội ngũ trí thức và thế hệ trẻ nước ta hiện nay là những
lực lượng xã hội có trí tuệ, có nhiều khả năng và tâm huyết trong quá trình cải tạo
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu chí thuần túy chú trọng về khoa học

và công nghệ, phi chính trị hoặc mơ hồ về chính trị và vi phạm pháp luật, họ càng
không thể góp tài góp sức xây dựng tổ quốc mình. Nghiên cứu học tập chủ nghĩa
xã hội khoa học chính là việc được trang bị trức tiếp nhất về ý thức chính trị - xã
hội, lập trường tư tưởng chính trị và bản lĩnh cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi
công dân Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, định hướng
xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra.
Sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho việc nghiên cứu học tập tốt
hơn, làm cho chúng ta có căn cứ nhận thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích
đúng và đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống
phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với Đảng ra, Nhà nước, chế độ ta,
chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích nhân dân, dân tộc và nhân
loại tiến bộ.
Về mặt thực tiễn, bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc biệt các khoa học
xã hội, bao giờ cũng có khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất là những dự
báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học lại
càng thấy rõ khoảng cách đó, bởi vì chủ nghĩa xã hội trên thực tế, chưa có nước
nào xây dựng hoàn chỉnh. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, cùng với thoái trào của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, lòng tin vào chủ

19


nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội khoa học của nhiều người có giảm sút. Đó là một
thực tế dễ hiểu. Vì thế, nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học càng khó
khăn trong tình hình hiện nay và cũng có ý nghĩa chính trị cấp bách. Chỉ có bình
tĩnh và sáng suốt, kiên định và chủ động sáng tạo tìm ra những nguyên nhân cơ bản
và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ và những thành
tựu to lớn trước đây cũng như những thành quả đổi mới có thể đi tới kết luận chuẩn
xác rằng : không phải do chủ nghĩa xã hội – một xu thế xã hội hóa mọi mặt của
nhân loại, cũng không phải do chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học...

làm các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng. Trái lại, chính là do các nước xã hội
chủ nghĩa đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Mác – Lênin... đã giáo điều, chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố
kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đó có chủ nghĩa tư bản,
đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội tong một số đảng cộng sản và
sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình đã làm
cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.
Thấy rõ thực chất những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học, đồng
thời được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các
nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên
định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo định hướng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn.
Do đó, việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, lý luận chính trị xã hội nói riêng và các khoa học khác càng là vấn
đề thực tiễn cơ bản và cấp thiết. Xây dựng chỉnh đốn Đảng, chống mọi biểu hiện
cơ hội chủ nghĩa, dao động, thoái hóa, biế chất trong Đảng và cả xã hội, giáo dục
lý luận chính trị xã hội một cách cơ bản khoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm
tin sự thật đối với chủ nghĩa xã hội... cho cán bộ, học sinh, sinh viên, thanh thiếu
20


niên và nhân dân. Tất nhên đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
mở rộng hợp tác quốc tế, tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa về kinh tế, xây
dựng « kinh tế tri thức », thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa...đang là những vận hội lớn, đồng thời có những thách thức lớn đối với nhân
dân ta, dân tộc ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất nặng nề và vẻ vang của cả thế
hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cộng sản trên
đất nước ta.

21



KẾT LUẬN
Như vậy, với sự uyên bác về trí tuệ, sự kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với
lòng trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân và kiên định lập trường
giai cấp đã giúp cho hai ông nhận thức được quy luật phát triển của xã hội loài
người, nhất là quy luật vận động của xã hội tư bản, đồng thời hai ông phát hiện ra
một lực lượng chuyển xã hội sang một giai đoạn mới. Vì vậy, hai ông đã làm cuộc
cách mạng trong lịch sử loài người. Công lao vĩ đại của Mac ở chỗ là đã phát hiện
ra chủ nghiã duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Từ đó, đi đến phát hiện
ton lớn trong chủ nghĩa xã hội khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Nhờ những phát hiện quan trọng này, Mac và Ăngghen có những căn cứ
vững chắc để khẳng định mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư
bản chủ ngĩa ngày càng phát triển, được biểu hiện thành mâu thuẫn trong đời sống
xã hội không thể điều hòa được giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Mâu
thuẫn này nhất định sẽ dẫn đến lực lượng sản xuất do giai cấp công nhân là người
đại biểu phải phá vỡ quan hệ sản xuất do giai cấp tư sản bảo vệ. Giai cấp công
nhân là lực lượng cách mạng được giao phó sứ mệnh xóabỏ giai cấp tư sản cùng
chế độ tư hữu bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân chính
là công lao vĩ đại thứ ba của Mac và Ăngghen. Điều này làm nên sự khác biệt về
chất giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với các học thuyết khác.
Sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học có ảnh hưởng, tác động lớn tới việc học
tập và nghiên cứu lý luận Mác – Lênin. Chúng ta không chỉ cần nắm vững nhận
thức lý luận mà còn phải biết vận dụng lý luận vào thực tiễn. Như vậy, mới tạo nên
sức sống lâu dài, bền bỉ cho chủ nghĩa xã hội khoa học, làm nên diện mạo mới cho
khoa học Mác – Lê nin trong cuộc đấu tranh chống lại những trào lưu, tư tưởng phi
Macxit.

22



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Chu Thương Vân – Chu Cẩm Ly – Trần Tích Hỷ [1999]: Chủ nghĩa xã hội là gì?
Xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
2. Khoa chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền [2007]:
Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa (Lưu hành nội bộ).
3. Khoa chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền [2007]:
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Lưu hành nôi bộ).
4. Hội đồng Quốc gia về biên soạn sách giáo khoa Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh [2004]: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [2010]: Những vấn đề
cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính
tri – Hành chính, Hà Nội.
6. Tiêu Phong [2004]: Hai chủ nghĩa, một trăm năm, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

23



×