Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phát huy vai trò của văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.52 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người thường được đo bằng những thiên
niên kỷ, thế kỷ, thập kỷ, năm tháng, ngày giờ. Nhưng việc xác định sự phát triển
xã ại có hội bằng những chuyển biến, thay đổi có tính chất bước ngoặt có ý
nghĩa sâu sắc. Đó chính là cách phân định xã hội bằng thời đại, là việc dựa vào
những tiêu chí nhất định để phân kỳ lịch sử và đặt tên cho nó. Điều này ngay từ
rất sớm đã được C.Mác đề cập đến trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Nói như vậy có nghĩa là, việc nhận thức và xác định đúng thời đại có ý nghĩa
quan trọng giúp chúng ta hiểu được những nấc thang phát triển của xã hội,
những yếu tố có tính chất ổn định trong thế giới đầy biến động, những xu hướng
của đời sống xã hội để từ đó có những phương án tác động phù hợp nhằm phát
huy những yếu tố thúc đẩy sự phát triển và hạn chế những yếu tố kìm hãm sự
phát triển cuả xã hội.
Thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới, bắt đầu từ cách mạng thánh Mười Nga năm 1917.
Trong giai đoạn này, thời đại ngày ngay có tính chất Toàn cầu hóa là xu thế
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn; vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các Đảng Macxít Lêninnít rất
cần phải biết với những đặc điểm, tính chất và nội dung và xu thế phát triển của
nó. Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: chỉ cần tăng trưởng
kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử
dụng khoa học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết
quả cho thấy, các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế
nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức,
văn hóa ngày càng tăng. Từ đó, kéo theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định
xã hội tăng lên và cuối cùng là sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế,
đất nước rơi vào tình trạng suy thoái, không phát triển được. Đây là quan niệm



phát triển nhanh bằng cách hi sinh các giá trị văn hóa – xã hội cho sự phát triển.
Trên thực tế đã bị phá sản. Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mô hình: tăng
trưởng kinh tế, cùng với việc phát triển tài nguyên con người, bảo vệ môi trường
sinh thái. Mô hình này, tuy tăng trưởng kinh tế không nhanh, nhưng lại bền
vững, xã hội ổn định. Đây là quan niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển
văn hóa, được các nhà khoa học, các chính khách thừa nhận. Từ đó, cho rằng:
Văn hóa bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và cũng là mong muốn có
dịp đi sâu nghiên cứu vấn đề một cách có hệ thống, góp phần phác họa gam màu
cho bức tranh khái quát về thế giới toàn cầu hiện nay; học viên chọn vấn đề
nghiên cứu “ Phát huy vai trò của văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa hiện
nay” làm tiểu luận.
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế
giới hiện nay. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tạo điêù kiện cho quá trình
hội nhập và bảo vệ XHCN là tạo mối quan hệ bền vững và sự phát triển đồng
thuận giữa trong nuớc và thế giới. Vấn đề này có phạm vi và giới hạn lớn, bao
gồm nhiều lớp vấn đề nghiên cứu. Nhưng trong khuôn khổ của một tiểu luận
môn Thời đại và những vấn đề lớn của thế giới hiện nay, đề tài chỉ đề cập nội
hàm của vấn đề trên bình diện tông thể, khái quát ở lý luận chung, cơ hội và
thách thức, giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của văn hóa trong thế giơi
toàn cầu hóa hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Phát huy vai trò của văn hóa trong tiến trình phát triển của xã hội cũng
như quá trình toàn cầu hóa là vấn đề được các quốc gia, dân tộc quan tâm ngay
từ rất sớm. Có nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề như: Toàn cầu
hóa: sự sống và cái chết của một học thuyết của J.R.Saul; Thời đại và tương lai
của quyền lực Mỹ của F.Zakaria…Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam về mở rộng quan hệ đối ngoại, tích



cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, năm 2006; Chuyên đề nghiên cứu nghị quyết Đại hội X của Đảng về Tăng
cường quốc phòng va an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, NXB Chính trị
quốc gia năm 2006, Nghị quyết TW5 khóa VIII về Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia năm 1998…
Gần đây, có nhiều bài viết của các tác giả Việt Nam đề cập đến vấn đề này
ở nhiều góc độ khác nhau như: GS TS Vũ Văn Hiền với Bức tranh thế giới
đương đại, TS Nguyễn Văn Hưởng với Những đặc trưng của thời đại ngày nay
và đường lối đối ngoại của Đảng ta, TS Phan Quốc Anh với Vai trò của văn hóa
trong tiến trình phát triển đất nước; TS Trương Ngọc Nam với Toàn cầu hóa với
phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền
thông, tháng 6 năm 2009… Ngoài ra có sách đã xuất bản có nội dung liên quan
đến vấn đề nghiên cứu: Tài liệu tham khảo (Dùng cho lớp tập huấn giảng viên
các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường Đại học, Cao
đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2006…
Mặc dù những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề toàn cầu
hóa, vấn đề vai trò của văn hóa, vấn đề xây dựng nền văn hóa, vấn đề toàn cầu
hóa về văn hóa nhưng rất chung, bao gồm một lớp các vấn đề tổng quát hoặc là
những bài viết nghiên cứu ở từng khía cạnh nhất định mà chưa thể hiện cái nhìn
cụ thể về mối quan hệ giữa những vấn đề trên. Do vậy, tiểu luận mong muốn
làm sáng tỏ “Vai trò của văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay”.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung, đặc điểm, cơ
hội, thách thức của toàn cầu hóa về văn hóa, tiểu luận đề xuất một số giải pháp
cơ bản phát huy vai trò của văn hóa trong sự phát triển của thế giới hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận giải
quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa, toàn cầu hóa; vai trò của văn
hóa đối với thế giới toàn cầu hóa.



+ Nghiên cứu đặc điểm của thế giới tàn cầu, đánh giá cơ hội và thách thức
việc phát huy vai trò của văn hóa trong toàn cầu hóa hiện nay.
+ Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai trò của văn hóa
trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay.
5. Đóng góp mới của đề tài
Lần đầu tiên vai trò của văn hóa với toàn cầu hóa được nghiên cứu theo hướng
lý luận chung, đặc điểm, cơ hội, thách thức và giải pháp, góp phần phác họa bức
tranh tổng quát về vai trò của văn hóa trong tiến trình phát triển chung của nhân
loại.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng
trong công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: Tiểu luận sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp, Phương pháp lôgíc và lịch sử,
Phương pháp khái quát hóa - trừu tượng hóa
7. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về văn hóa và toàn cầu hóa
Chương 2:Cơ hội và thách thức của văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của văn hoá trong thế
giới toàn cầu hóa hiện nay
8. Dự kiến sản phẩm tạo ra
Tiểu luận là sự đóng góp về mặt lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn nên
có thể áp dụng trong nghiên cứu, giảng dạy, đấu tranh tư tưởng lý luận, làm tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu lý luận chính trị và truyền thông phát

triển nghiên cứu cao hơn.


NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về văn hóa và toàn cầu hóa
1.1.Khái niệm văn hóa và toàn cầu hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa:
Hiện nay vẫn đang còn có nhiều định nghĩa về văn hóa, bởi lẽ văn hóa là
sản phẩm do lao động của con người tạo ra mà hoạt động lao động của con
người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đó đi đến việc tạo ra
những quan niệm cụ thể khác nhau: văn hóa du lịch; văn hóa kinh doanh, văn
hóa ẩm thực ... Trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII), Đảng ta khẳng
định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ
nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới
để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn,
khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.Cựu Tổng
Giám đốc UNESCO Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa
phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống
(của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng như đang diễn
ra trong hiện tại, quahàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị,
truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà ng thể. dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng
định bản sắc…
Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía
cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng
mang những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau,
nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có
sự giống nhau tuyệt đối bởi lẽ văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần.
Như vậy, văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những chu

trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với
nhau. Thông qua mỗi một chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với


mình và với những dân tộc khác, cái còn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là
văn hóa.Đó là sự đan xen lẫn nhau của cuộc sống, đấy là sự chung sống hoà bình
của quá khứ, và đấy cũng chính là cơ sở văn hóa của sự chung sống hoà bình
trong tương lai.
Vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất: Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần do lao động của người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy
lại, tạo ra bản sắc riêng của từng tộc người, từng xã hội.
1.1.2.Toàn cầu hóa:
Thuật ngữ Toàn cầu hóa được đặt ra vào nửa sau thế kỷ 20, tuy nhiên
thuật ngữ này và định nghĩa về nó không thâm nhập vào ý thức quần chúng cho
đến nửa sau thập niên 80. Một số lớn các nhà khoa học xã hội cố gắng chứng
minh tính liên tục của toàn cầu hoá giữa những khuynh hướng đương đại với
những thời đại trước. Tuy nhiên cho đến nay, các khuynh hướng phát triển mới
của toàn cầu hóa vẫn còn đang được tranh luận trong giới nghiên cứu, đặc biệt là
các vấn đề về toàn cầu hóa văn hóa.
Trong điều kiện thế giới ngày nay đang có những biến đổi sâu sắc, toàn
cầu hóa trở thành xu thế khách quan, phổ biến đối với sự phát triển của mỗi
nước. Toàn cầu hóa là xu thế mà trong đó mỗi quốc gia, mỗi khu vực trên thế
giới có sự liên kết, phụ thuộc và tác động lânx nhau để phát triển.
Quá trình toàn cầu hóa ngày càng phát triển theo cả chiều rộng và bề sâu,
thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất, sự liên hệ, phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nhất là về thương mại, tài chính
quốc tế lớn đang tác động mạnh đến tất cả các nước trên phạm vi toàn cầu. Toàn
cầu hóa làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế,
kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp quốc gia mà còn trên quy mô toàn
thế giới, làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, thúc đẩy sự giao lưu

giữa các quốc gia làm cho con người ở mọi châu lục hiểu biết nhau hơn, nắm
được thông tin toàn thế giới.


Tiến trình toàn cầu hóa ngày nay do các nước tư bản phát triển và các tập đoàn
xuyên quốc gia phát động trước hết vì lợi ích của các nước và các tập đoàn đó.
Quá trình toàn cầu hóa do CNTB khởi xướng lại lôi cuốn được nhiều nước tham
gia. Đó là quá trình vận động phức tạp bao gồm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, cả
cơ hội và thách thức cho các quốc gia, dân tộc, nhất là cho các nước đang phát
triển và các nước nghèo; là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Toàn cầu
hóa về kinh tế sễ thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
1.2.Vai trò của văn hóa trong toàn cầu hóa
1.2.1. Đặc trưng của văn hóa và vai trò của văn hóa
Nói đến văn hoá, thường người ta nghĩ ngay đến giáo dục, vì giữa văn hoá
và giáo dục có sự gắn kết mật thiết với nhau. Văn hoá và giáo dục như hình với
bóng. Có hình là có bóng và ngược lại. Cái này sinh ra cái kia, hỗ trợ và bổ sung
cho nhau tạo nên sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Văn hoá có nghĩa
là “văn trị và giáo hoá”. Mọi người hành động để xây dựng một đời sống tốt đẹp
trên cơ sở sự giáo hoá của cộng đồng, hướng đến chân, thiện, mỹ. Nhưng ai
cũng biết rằng xã hội nào thì văn hoá đó, và thường thì trong xã hội có giai cấp,
văn hoá được chỉ đạo bởi giai cấp thống trị.Từ bản chất của văn hoá là giá trị
tinh thần ta mới có thể xác định thêm : Sinh hoạt văn hoá, hưởng thụ văn hoá,
những tính chất và hình thức của văn hoá lẫn cả nền văn hoá, Vai trò của văn
hoá và nền văn hoá, quan hệ giữa lĩnh vực văn hoá với các lĩnh vực khác của
cuộc sống, Văn hoá tích cực ích lợi và văn hoá tiêu cực phản động , điều kiện
cần và đủ để xây dựng và phát triển nền văn hoá , định hướng văn hoá, ngăn
ngừa và chống văn hoá tiêu cực..vv..Vì vậy chúng ta cần nhận thức những đặc
trưng cơ bản của văn hóa:
Một là, văn hóa dù được xem xét từ góc độ nào, cũng đều làm lộ ra (một
cách trực tiếp hay là kín đáo), những đặc trưng về con người và về đời sống của

con người. "Con người là cơ sở của toàn bộ vấn đề văn hóa học. Khái niệm văn
hoá bằng cách này hay bằng cách khác phản ánh đặc thù loài của hoạt động


người" (cần chú ý đặc thù mang tính loài chứ không phải đặc thù của loài người
nói chung).
Hai là, văn hóa có liên quan đến tinh thần. Thế giới tâm linh, biểu tượng, ý
thức của con người là cái rất cơ bản của văn hoá, kể cả văn hóa vật chất, chúng
ẩn tàng trong văn hóa vật chất, nếu văn hóa vật chất được hiểu tách thoát khỏi
thế giới đó thì văn hóa không còn là văn hóa (có thể hình dung điều này tương
tự như sự khác nhau giữa thiên thạch và vật phẩm của người xưa).
Ba là, để phân biệt các bản sắc văn hóa khác nhau là vùng văn hóa. Sở dĩ
nền văn hóa thế giới luôn luôn phong phú và đa dạng, đồng thời lại luôn luôn
được xem như một chỉnh thể toàn vẹn chính là nhờ có sự "đóng góp" những nét
đặc thù và độc đáo từ các vùng văn hóa. Mỗi vùng văn hóa bao giờ cũng có
bàng giá trị riêng của mình. Trong khái niệm văn hóa có ngu ý thừa nhận sự
bình đẳng tương đối giữa các bảng giá trị.
Do vậy, văn hóa có vai trò:
. Văn hóa là cơ sở XH hóa các cá nhân. Trong thực tế cuộc sống của mỗi
cá nhân, văn hóa được thể hiện là những nhận thức XH của mỗi người để đảm
bảo đời sống của chính họ . Tất cả những điều đó các cá nhân học hỏi và lĩnh hội
đc thong qua quá trình XH hóa các cá nhân . Do đó văn hóa là cơ sở của nền văn
hóa đã trở thành con người của XH , hòa đồng vào XH.
.VH là cơ sở phát triển kinh tế: Toàn bộ các yếu tố văn hóa đc biểu hiện
trong lĩnh vực kinh tế là các cơ sở vật chất dung cho sx kinh doanh và năng lực
lao động của con người . Các nhà kinh tế thường gọi các yếu tố là tài sản hữu
hình và tài sản vô hình , đây là cơ sở cho quá trình phát triển kinh tế xã hội . Nền
văn hóa phát triển cao đồng nghĩa với hệ thống cơ sở vật chất phát triển cao ,
đây là tiền đề cho phát triển kinh tế . Tương tự như vậy nền văn hóa phát triển
cao đồng nghĩa với người lao động có năng lực lao động có trình độ kho học kỹ

thuật cao, đây là tiền đề thứ 2 cho phát triển kinh tế . Do vậy xây dựng và phát
triển văn hóa quốc gia là nhiêm vụ hết sức quan trọng cho các nhà nước.


.Văn hóa với việc hoàn thiện con người và XH: Văn hóa là cơ sở hình
thành nhân cách cá nhân . Các cá nhân tiếp nhậ nền văn hóa và trở thành con
người xã hội, cá nhân tiếp nhận trình độ văn hóa càng cao thì nhân cách của họ
cang lớn và có bản lĩnh song cao, chủ động điều tiết mình trong mọi tình huống
phù hợp với yêu cầu của XH . Do vậy văn hóa tham gia vào quá trình hoàn thiện
con người và qua con người tham gia vào hoàn thiện XH.
.Văn hóa với vấn đề hội nhập quốc tế: Thông qua giao lưu văn hóa XH
quốc tế, các nền văn hóa chắt lọc được những tinh túy văn hóa của nhau và ứng
dụng vào nền văn hóa của mình để đạt được trình độ văn hóa ngày càng cao. Hội
nhập quốc tế là cơ hội tốt cho các nền VH giao lưu và học hỏi lẫn nhau để đưa
thế giới lên nền văn minh ngày càng cao. Do vậy hội nhập quốc tế là vấn đề
quan trọng đối với các quốc gia, dân tộc nhằm giúp họ thể hiện mình với quốc tế
và học hỏi được từ các nước những điều cần thiết cho quốc gia.
1.2.2. Vai trò của văn hóa trong toàn cầu hóa hiện nay
Ngoài hai xu thế là dân chủ hóa về chính trị và tự do hóa về kinh tế còn có
một xu thế lớn khác là toàn cầu hóa về văn hoá. Hiện nay, trên thế giới cũng như
ở Việt Nam, người ta nói nhiều đến toàn cầu hóa nhưng chủ yếu là nói về khía
cạnh kinh tế. Nói như thế là phiến diện, mặc dù nó có lý do lịch sử.
Phải khẳng định rằng, toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa về văn hóa
nói riêng trong bối cảnh hiện nay đã khác xa so với trước kia cả về nội dung, ý
nghĩa, quy mô và tốc độ. Thật ra, nói một cách chính xác, toàn cầu hóa trước kia
chỉ là khu vực hoá. Sự giao lưu có tính chất khu vực được quy định bởi sự hạn
chế của các phương tiện, của giao thông lúc bấy giờ và do đó phạm vi ảnh
hưởng của giao lưu văn hóa không có tính toàn cầu thực sự. Chỉ đến ngày nay,
nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ, các phương tiện giao thông
và thông tin hiện đại mới cho phép con người vượt qua các giới hạn không gian

và thời gian, tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa phát triển trên phạm vi toàn thế


giới. Loài ngươời hàng ngày được tiếp cận nhiều nguồn thông tin và do đó có
thêm nhiều dịp trao đổi tiếp xúc với nhau, đẩy mạnh sự giao lơưu về mọi mặt từ
kinh tế mậu dịch, đầu tư, du lịch đến văn hóa nghệ thuật. Làn sóng di dân từ
nước này sang nước khác cũng góp phần mở rộng hơn nữa sự giao lơưu trực tiếp
và mạnh mẽ về cả đời sống vật chất và tinh thần của nhiều dân tộc. Cũng nhờ
những thành tựu của khoa học - công nghệ, thế giới hình thành các lực lượng đủ
mạnh có quy mô toàn cầu. Đó là các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia, các
thể chế quốc tế và đi cùng với nó là các lực lượng phá hoại như khủng bố hay
tôn giáo cực đoan... Các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia ngày nay thậm chí
còn có sức mạnh hơn cả những quốc gia trung bình, có khả năng ảnh hưởng to
lớn đến nền kinh tế thế giới. Đồng thời, các lực lượng phá hoại xuất hiện và hoạt
động trên quy mô toàn cầu, kết quả của những xung đột giữa các dân tộc, các
sắc tộc, các tôn giáo, mà nguyên nhân sâu xa là sự xung đột về kinh tế, chính trị
được che đậy dưới hình thức của sự xung đột về tôn giáo, cũng phải được nhìn
nhận như một mặt khác của toàn cầu hóa về văn hoá. Đây là vấn đề sâu sắc nhất,
bức thiết nhất trong xu thế toàn cầu hóa mà chúng ta không thể chỉ xem xét
thông qua các lực lượng thị trường.
Trong thế kỷ vừa rồi, sau khi một loạt quốc gia được giải phóng khỏi ách
thuộc địa, nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra đối với họ là phát triển kinh tế, nâng
cao mức sống cho người dân. Tuy nhiên, càng ngày con người càng nhận ra một
trào lưu toàn cầu hóa khác, thậm chí còn quyết liệt hơn, sâu sắc hơn, đó là toàn
cầu hóa về văn hoá.
Cũng giống như toàn cầu hóa nói chung, toàn cầu hóa về văn hóa có từ rất
lâu và là kết quả của sự tương tác giữa các cộng đồng. Nó diễn ra song song với
toàn cầu hóa về kinh tế. Như vậy, quá trình toàn cầu hóa về văn hóa là một quá
trình tất yếu. Giao lưu kinh tế là tiền đề của giao lưu văn hoá, còn giao lưu văn
hóa thúc đẩy nhận thức cả về sự khác biệt lẫn sự tương đồng về văn hoá. Ngày

nay, khi người ta ý thức được rằng văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của


sự phát triển thì có thể khẳng định rằng, toàn cầu hóa về văn hóa là quá trình tất
yếu, diễn ra song song với toàn cầu hóa về kinh tế ở giai đoạn đầu và vượt trước
nó ở giai đoạn phát triển sau này.
Do đó về bản chất, toàn cầu hóa về văn hóa chỉ góp phần thúc đẩy sự hợp tác và
chọn lọc giữa các nền văn hóa chứ không thể gây áp lực hay lấn át bản lĩnh văn
hóa của bất cứ nền văn hóa nào. Trong bối cảnh hiện nay, dân tộc nào đứng
ngoài cuộc giao lưu văn hóa và không chủ động trong giao lưu văn hóa thì sẽ
khó tránh khỏi suy thoái. Bản sắc văn hóa dân tộc đóng vai trò quan trọng trong
đời sống tinh thần cũng như vật chất của con người. Văn hóa tạo nên một phần
giá trị của sản phẩm, trong một số sản phẩm thậm chí là phần lớn nhất. Ngoài ra,
toàn cầu hóa về văn hóa ảnh hưởng đến tổ chức lao động và chất lượng lao động
quy định những tiêu chuẩn chung trong sản xuất và lưu thông..Văn hóa chính là
thông điệp chung sống vì vậy nó có giá trị chung sống.Trong những thập kỷ gần
đây, UNESCO và các tổ chức tiến bộ đã cùng đặt lại vấn đề văn hóa và giao lưu
văn hoá, khẳng định lại vị trí của văn hóa so với kinh tế và chính trị trong sự
phát triển chung của nhân loại và của mỗi dân tộc. Những năm quốc tế khoan
dung, về người già, về trẻ em đều phản ánh nguyện vọng chính đáng của nhân
loại. Cùng với xu thế tự do thương mại, xu thế toàn cầu hóa về văn hóa đang
góp phần làm cho các nước trên thế giới xích lại gần nhau. Do đó, các nhà chính
trị phải chấp nhận những nguyên tắc đối thoại chung trên phạm vi toàn cầu. Đó
là những tiêu chuẩn trong sản xuất về sử dụng lao động trẻ em, lao động tù nhân
hay những tiêu chuẩn về môi trường - vấn đề hiện nay đã trở thành vấn đề đạo
đức… Như vậy toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa về văn hóa nói riêng
buộc các quốc gia phải cùng nhau hợp tác, cùng nhau xây dựng một thế giới
chung hòa bình và ổn định, trong đó giá trị cá nhân không được phép bỏ qua.

Chương II: Cơ hội và thách thức đối với văn hóa trong thế giới

toàn cầu hóa hiện nay
2.1. Những đặc điểm của thế giới toàn cầu hóa


Thế giới đã bước sang thế kỷ XXI với nhiều thay đổi. Tuy nhiên, theo
nhận định của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, "trên thế giới, hòa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục
hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu
hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình
đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng
lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay gắt.
Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn.
Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố,
những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên
tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn
của thời đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia
và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các
nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn...
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đan xen giữa cơ hội,
thuận lợi và khó khăn, thách thức, điều quan trọng là phải nhận thức rõ những
đặc điểm có tính chất chi phối sự phát triển lâu dài. Trong đó có một số vấn đề
nổi bật của thế giới đương đại, như vấn đề đấu tranh giai cấp và dân tộc, vấn đề
tôn giáo, quan hệ giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, những
tính chất và mâu thuẫn cơ bản của thời đại chúng ta, tiền đồ của chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội…
2.2. Những cơ hội và thách thức đối với văn hóa trong thế giới toàn cầu hiện
nay
2.2.1.Cơ hội

Do toàn cầu hoá dựa trên động lực và sức mạnh của kinh tế tri thức nên
tác động của nó đối với những trí thức đang hoạt động trong lĩnh vực văn hóa,
xã hội, giáo dục ngày càng tăng, ngày càng có tính chất trực tiếp. Điều này bắt


nguồn từ đặc điểm của lực lượng sản xuất mới trong nền kinh tế tri thức đòi hỏi
một mặt, tri thức không ngừng được xã hội hoá, mặt khác, xã hội không ngừng
được tri thức hoá. Chính vì vậy, mối quan hệ tương tác giữa kinh tế tri thức với
văn hoá, xã hội, giáo dục ngày càng gắn bó. Mối quan hệ đó thúc đẩy thông qua
tác động của toàn cầu hoá.
Tác động của toàn cầu hoá đối với những trí thức hoạt động trong lĩnh
vực văn hoá, xã hội, giáo dục đã đặt ra những vấn đề sau đây đòi hỏi nhận thức
đúng:
Mối quan hệ giữa văn hoá phương Đông với văn hoá phương Tây. Đây là
vấn đề đang tranh luận ở nhiều nước với các quan điểm khác nhau.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong xã hội "hậu công nghiệp" khác trong
xã hội công nghiệp. Sự khác nhau tập trung ở hai vấn đề: con người trong mối
quan hệ với xã hội và với tự nhiên; con người phát triển toàn diện khác với con
người chủ nghĩa cá nhân.
Đối với những vấn đề về lực lượng sản xuất mới, nền văn hoá mới, con
người mới nói trên thì người ta mong đợi nhiều sự phát triển nền giáo dục mới.
Chính vì vậy mà toàn cầu hoá đang gây ra sức ép mạnh mẽ đối với những trí
thức hoạt động giáo dục, đang tham gia quá trình cải cách giáo dục.
Trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hoá còn đưa đến
những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu xã hội dân cư. Trong giai đoạn quá độ hiện
nay, cơ cấu xã hội - giai cấp trong xã hội công nghiệp vẫn còn và đang biến đổi,
nhưng một xã hội mới đang dần hình thành do sự phát triển phân công lao động
mới trong nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá kinh tế. Những nét mới thấy được
của cơ cấu xã hội đang hình thành là:
. Giai cấp công nhân đang phát triển ở trình độ mới hình thành những

người lao động tri thức, có vai trò ngày càng tăng trong lao động sáng tạo và
quản lý.
. Lần đầu tiên trong lịch sử, khoảng cách giữa lao động chân tay với lao
động trí óc (do lịch sử sinh ra từ phân công lao động cũ) đang được thu hẹp và


mờ dần. Người công nhân mới cùng với các chuyên gia đang kết hợp thành lực
lượng sản xuất chủ yếu của xã hội mới.
. Sự phân công lao động mới trong nền kinh tế tri thức được thúc đẩy bởi
toàn cầu hoá đã đưa đến hình thành tầng lớp trung lưu (hay tầng lớp hữu sản,
không phải là vô sản cũng không phải là tư sản). ở các nước đang phát triển kinh
tế thị trường trong thời đại hiện nay đều hình thành tầng lớp trung lưu. ở Trung
Quốc đã có hơn 15% dân số thuộc tầng lớp này. Xu hướng "dân giàu, nước
mạnh" sẽ thể hiện ở một trong những tiêu chí là sự ra đời và phát triển tầng lớp
trung lưu như là con đẻ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai
đoạn kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Những công nhân, nông dân trí thức sẽ trở
thành một bộ phận ngày càng lớn của tầng lớp trung lưu. Đó là sự giải phóng lần
thứ hai khi công nông vượt ra khỏi tình trạng vô sản chuyển thành những người
hữu sản văn minh.
Bên cạnh đó, Toàn cầu hóa cũng tạo ra nhiều cơ hội cho khoa học giáo
dục phát triển, đó là:
Khoa học là lĩnh vực hoạt động sáng tạo nhằm tìm tòi những quy luật, xu
hướng phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy vì sự phát triển của xã hội loài
người. Sự phân biệt giữa văn minh với dã man, tự do với tất yếu đều gắn liền với
trình độ phát triển khoa học. Tuy vậy, từ xưa đến nay, sự thực hiện chức năng
khoa học đều gắn liền với môi trường chính trị - xã hội lại do những điều kiện
lịch

sử


quy

định,

không

thể

từ

mong

muốn

chủ

quan.

Trong thời đại chủ nghĩa tư bản, khoa học công nghệ đã phát triển chưa từng có,
là nhân tố chủ yếu tạo ra sự giàu có của chủ nghĩa tư bản. Nhưng môi trường
chính trị - xã hội của chủ nghĩa tư bản đã làm cho tiến bộ khoa học công nghệ
mang tính chất hai mặt. Theo quan điểm của trường phái Phranphuốc thì "Tiến
bộ khoa học kỹ thuật = Tăng trưởng của cải xã hội = Phát triển nô dịch". Tiến bộ
khoa học kỹ thuật do con người tạo ra nhưng trở thành lực lượng khống chế,
thậm chí nô dịch con người. Trong các chế độ bá quyền hay độc tài thì khoa học
kỹ thuật bị tha hoá thành công cụ thống trị chính trị.


Sự ra đời kinh tế tri thức và phát triển toàn cầu hoá, một mặt đã mở rộng cả mặt
tích cực và tiêu cực của tiến bộ khoa học kỹ thuật ra toàn cầu, mặt khác đã có

nhiều nhà khoa học và dân chúng lên tiếng phê phán và đòi hỏi "nhân đạo hoá
và nhân văn hoá khoa học" theo các phương hướng:Loại trừ khả năng lạm dụng
những thành tựu khoa học; Khai thác sử dụng giới tự nhiên một cách cân bằng;
Khắc phục tính phiến diện và tuyệt đối hoá việc nhận thức bằng phương pháp
thực nghiệm duy lý; Bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề
nghiệp cần thiết cho cán bộ khoa học, giúp bản thân nhà khoa học phát triển toàn
diện và hài hoà nhằm phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo của mỗi người; Nhà
nước bảo đảm cho khoa học có một vị thế tương đối và sự ủng hộ về mặt đạo
đức của xã hội.
Như vậy, vai trò của đội ngũ khoa học công nghệ phát huy như thế nào
đều gắn liền với môi trường chính trị - xã hội. Ngoài ra từ cuối thế kỷ XX trở đi,
xu hướng phát triển hài hoà giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội trong
nền khoa học hiện đại, trong đội ngũ và trong mỗi nhà khoa học đang mở ra
triển vọng to lớn và tính khả thi về thực hiện quá trình nhân đạo hoá khoa học.
Tính chất tiên tiến của một nền khoa học quốc gia còn được đánh giá từ tiêu chí
nhân đạo hoá khoa học. Do môi trường chính trị - kinh tế khác nhau, nên hiện
nay vấn đề lưu động chất xám ngày càng tăng cùng với phát triển toàn cầu hoá.
Trong đó có vấn đề "chảy máu chất xám" của nhiều quốc gia ... Tình trạng mất
đi những người được đào tạo chuyên môn ở trong và ngoài nước được người ta
coi là "sự tàn phá đặc biệt" đối với quốc gia ở thời kỳ phát triển trong bối cảnh
cạnh tranh quốc tế gay gắt. Gần đây, tình trạng những người có chuyên môn tuy
không ra đi, nhưng không được sử dụng đúng hoặc phải chuyển nghề để kiếm
sống cũng được người ta coi là một "sự tàn phá bên trong".
Hiện nay, xu hướng phát triển bền vững đang ngày càng có tác động tích
cực đến việc cải thiện môi trường chính trị - xã hội cho phù hợp với nhu cầu
nhân đạo hoá và nhân văn hoá khoa học.


2.2.2 Thách thức
Toàn cầu hoá nói chung, một mặt, là sự tiếp nối, sự khẳng định và hoàn

thiện các khuynh hướng đã hình thành từ lâu trong lịch sử thế giới, mặt khác, nó
cũng là một hiện tượng mới, bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần đần
lôi cuốn theo toàn cầu hoá về một số lĩnh vực văn hoá và tác động mạnh mẽ đến
chính trị. Từ khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến
tranh lạnh kết thúc, thế giới hai cực thực sự đã trở thành thế giới một cực, với
một siêu cường duy nhất là Mỹ. Ngày nay, Mỹ đang từng bước thực hiện chủ
nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền nhằm biến toàn cầu hoá thành Mỹ hoá
cả về kinh tế, văn hoá và chính trị, nuôi hy vọng chiếm địa vị độc tôn và làm bá
chủ thế giới.
Thật ra, không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
với mức độ giống nhau và đều được bình đẳng như nhau. Khi tham gia toàn cầu
hoá, các nước phát triển có rất nhiều lợi thế. Phần còn lại của thế giới thì chịu
thiệt thòi về nhiều mặt và gặp nhiều thách thức. Tuy nhiên, trong điều kiện thế
giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn toàn toàn cầu hoá hoặc
đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá. Vấn đề đối với tất cả các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, là phải có chiến lược thích ứng và
khôn ngoan để vượt qua thách thức và chớp lấy thời cơ, trong quá trình hội nhập
thế giới, phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh
Ngày nay, ai cũng biết rằng, toàn cầu hóa có cả mặt tích cực với những
khả năng và cơ may rất lớn, và mặt tiêu cực cũng chứa đựng không ít những
thách thức, rủi ro và cạm bẫy. Mặc dù người được lợi nhiều nhất trong toàn cầu
hoá là các nước phát triển, đặc biệt là nước Mỹ, còn người bị thiệt thòi hơn cả là
các nước đang phát triển, nghĩa là phần số đông còn lại của thế giới. Song,
không nên nghĩ rằng, các nước phát triển khi tham gia toàn cầu hoá chỉ gặp toàn
những thuận lợi, mà không gặp một thách thức nào cả. Thật ra, những thách thức
đó là chung đối với tất cả các nước và chúng có khá nhiều, chúng thể hiện trên


tất cả các mặt, từ những thách thức về chính trị đến những thách thức về kinh tế,

từ những thách thức về văn hoá - xã hội đến những thách thức về môi trường
sống... Dĩ nhiên, cần phải thấy rằng, các nước đang phát triển và các nước chậm
phát triển phải chịu thách thức nhiều hơn rất nhiều do các vấn đề toàn cầu hoá
đặt ra so với các nước phát triển. Do vậy, nếu các nước này coi nhẹ hoặc không
thấy hết mặt tiêu cực do các vấn đề toàn cầu hoá đặt ra thì sẽ là sai lầm, sẽ dẫn
đến nguy cơ mất chủ quyền quốc gia dân tộc, đến nền kinh tế của đất nước đến
những khó khăn ngày một lớn hơn, đe dọa hủy hoại các giá trị truyền thống,
thậm chí hủy hoại cả cơ sở tồn tại của chính dân tộc mình là thiên nhiên, là môi
trường sống. Trái lại, nếu coi nhẹ mặt tích cực của nó cũng là sai lầm, sẽ làm
cho đất nước càng lún sâu hơn vào trạng thái kém phát triển. Có thể thấy điều
này qua việc nhiều quốc gia nhờ tham gia vào quá trình toàn cầu hoá mà đã vượt
qua được thách thức và đang trên con đường phát triển với tốc độ khá nhanh.
Thách thức do toàn cầu hoá mang lại cho các nước, như đã nói ở trên, có
nhiều loại trong đó thách thức trong lĩnh vực văn hóa là vô cùng quan trọng.
Việc toàn cầu hoá đang và sẽ thách thức sự độc lập, tự chủ của các dân tộc và
chủ quyền quốc gia là một hiện thực. Bất chấp việc có người tán thành, có người
phản đối hay thậm chí phủ nhận toàn cầu hoá văn hoá, thì toàn cầu hoá vẫn đang
tác động mạnh đến văn hoá. Có một thời người ta đã dự đoán rằng, trong tương
lai sẽ hình thành một thứ ngôn ngữ chung cho từng khu vực và từ đó sẽ hình
thành ngôn ngữ chung cho toàn thể thế giới. Cũng có thời, người ta đặt ra quốc
tế ngữ để làm công cụ giao tiếp cho che dân tộc trên thế giới. Không thể không
thấy một thực tế là ngày nay, hiện tượng hay đấu hiệu toàn cầu hoá về ngôn ngữ
bộc lộ khá rõ trong việc tiếng Anh ngày càng được sử dụng rộng rãi. Những sản
phẩm văn hoá Mỹ, như phim ảnh, nhạc, thức uống, các món ăn nhanh của Mỹ
hoặc y phục thời trang, nước hoa và mỹ phẩm Pháp… đã trở thành món ăn tinh
thần và vật chất của nhiều người thuộc các châu lục khác nhau, nhất là của lớp
trẻ. Vì vậy, đã xuất hiện những khái niệm như chủ nghĩa đa nguyên văn hoá, chủ
nghĩa liên văn hoá, chủ nghĩa xuyên văn hoá. Một hiện tượng khác cũng hết sức



đáng chú ý là, các Công ty xuyên quốc gia nào mà muốn đầu tư sản xuất và
thành công ở các nước khác thì trước tiên phải tìm hiểu sự khác biệt về cách
thức ứng xử, về tâm lý và phong tục tập quán của nước mình so với các nước
đó, đồng thời còn phải tìm hiểu về ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, và
nói chung về văn hoá của dân tộc ở các quốc gia mà mình sẽ đầu tư sản xuất.
Toàn cầu hoá, đặc biệt là sự lan tràn ồ ạt của văn hoá phương Tây, không
những thách thức văn hoá dân tộc, mà còn thách thức cả sự ổn định xã hội của
các nước mà nó xâm nhập. Cùng với toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng thúc đẩy
toàn cầu hoá về ngôn ngữ, về văn hoá, về lối sống và quan niệm giá trị của các
cường quốc. Đây là đòn tiến công mạnh mẽ của văn hoá phương Tây đối với văn
hoá dân tộc của các nước chậm phát triển. Sự rối loạn văn hoá tinh thần và sự
rạn nứt quan niệm giá trị toàn cầu nổ ra cùng một lúc với hàng loạt các hiện
tượng phạm tội xã hội, như nghiện hút, buôn bán ma tuý, buôn lậu, tham nhũng,
cướp giật, án mạng, kết hợp với sự lan tràn của các loại tà giáo và thế lực xã hội
đen, càng làm tảng thêm sự rối ren, đe dọa sự ổn định và an ninh xã hôi.
Trong toàn cầu hoá, văn hoá dân tộc, văn hoá truyền thống có nguy cơ bị
xói mòn dữ dội, mà nghiêm trọng nhất là xói mòn về văn hoá chính trị, ý thức hệ
phương Tây du nhập ngày càng nhiều, thách thức an ninh chính trị đối với nhiều
quốc gia ngày càng lớn. Các nước phương Tây lấy toàn cầu hoá làm công cụ, ra
sức truyền bá quan điểm về giá trị, về văn hoá và tư tưởng của họ cho các nước
và các dân tộc khác, thực hiện chính sách “thực dân văn hoá", gây ảnh hưởng
đối với nhân dân các nước, can thiệp vào công việc chính trị, ngoại giao của các
nước này, làm suy yếu ý chí dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và cơ sở
tồn tại của các nước đó, biến họ thành những nước lệ thuộc. Làm theo cách đó,
họ hy vọng sẽ giành được thắng lợi dễ đàng hơn so với việc dùng sức mạnh
quân sự và sự khống chế về kinh tế. Du nhập ý thức hệ tư sản đã trở thành một
trong những biện pháp cơ bản để một số nước lớn phương Tây thực hiện “diễn
biến hoà bình" đối với các nước khác, thậm chí trở thành mối hiểm hoạ gây nên
những biến động xã hội ở các nước khác. Quá trình toàn cầu hoá hiện nay, và



hơn thế nữa trong tương lai, sẽ tạo ra cơ hội cực kỳ thuận lợi cho các nước
phương Tây sử dụng hệ thống truyền thông hiện đại của họ nhằm thực hiện đa
nguyên hoá về chính trị, phi chính trị hoá quân đội, phương Tây hoá lối sống.
Trước nguy cơ toàn cầu hoá tác động mạnh đến văn hoá, chúng ta bất gặp 3 cách
ứng xử:
Một là, cự tuyệt hoàn toàn để tránh phương Tây hoá và Mỹ hoá nền văn
hoá truyền thung của dân tộc, nhằm bảo vệ văn hoá dân tộc. chủ quyền quốc gia
về văn hoá. Đây là cách ứng xử cực đoan có thể sẽ dán đốn chủ nghĩa bảo thủ
văn hoá: đến sự trì trệ.
Hai là, mở toang cửa cho văn hoá toàn cầu, văn hoá phương Tây, văn hoá
Mỹ tràn vào. Hậu quả tất yếu là văn hoá truyền thống bị đồng hoá, hoà tan vào
văn hoá toàn cầu. Một khi văn hoá tàn lụi thì chủ nhân của nó là dân tộc tất yếu
sẽ biến khỏi vũ đài lịch sử. Đây là cách ứng xử cực đoan dẫn đến tự sát.
Ba là, kết hợp hài hoà truyền thống với hiện đại. Trên cơ sở bảo tồn bản
sắc văn hoá dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa của văn hoá dân tộc, loại trừ
dần các yếu tố lỗi thời. tăng cường giao lưu văn hoá với bên ngoài, tiếp thu
những gì là tinh hoa của văn hoá thế giới, đồng thời tiến hành bản địa hoá, dân
tộc hoá chúng để làm giàu cho văn hoá dân tộc, lấy văn hoá làm động lực cho sự
phát triển của dân tộc. Theo chúng tôi, đây là cách ứng xử khôn ngoan nhất,
đúng đắn nhất mà chúng ta cần thực hiện.
Như vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá đang đặt ra hàng loạt những thách
thức hết sức khó khăn cho tất cả các nước. Đó chính là những vấn đề toàn cầu
mà nhân loại đang và sẽ phải đối mặt.

Chương III: Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của văn hóa
trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay
Nhận thức cho được các vấn đề này và tìm ra đối sách để giải quyết chúng
là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng đó lại là việc không thế không làm một cách
tích cực, từng bước và làm một cách khoa học. Có vượt qua được những thách

thức đó, chúng ta mới có cơ hội phát triển nhanh hơn trong tương lai. Vì vậy,


"nắm bắt cơ hội: vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó
cũng là vấn đề có ý nghĩa sông còn đối với Đảng và nhân dân ta”.
Vì thế, có thể tiên đoán rằng trong thế kỉ 21, những khác biệt, tương tác
và xung đột giữa các nền văn hóa sẽ là những màn diễn chính trên sân khấu
chính trị thế giới. Ngày nay, các nhà chính trị học, kinh tế học, và giới quân sự
đang tập trung năng lực vào nghiên cứu văn hóa, và dùng nó như là một yếu tố
để giải thích các hành vi xã hội cũng như kinh tế. Nói một cách ngắn gọn, văn
hóa có giá trị chính trị, kinh tế, và xã hội, và hậu quả của văn hóa có thể tốt mà
cũng có thể xấu. Nhưng để phát huy các giá trị đáng kể đó của văn hóaủtong thế
giới toàn cầu cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
3.1. Phát huy tính độc lập tương đối về văn hóa của mỗi quốc gia
Nói đến tính độc lập văn hóa của mỗi quốc gia là muốn nhấn mạnh đến
khía cạnh chính trị hay sự trọn vẹn về mặt cấu trúc văn hóa của mỗi quốc gia.
Quan niệm này hiện nay đã trở nên lỗi thời do sự xói mòn của các đường biên
giới quốc gia và sự hình thành hệ giá trị phổ quát của toàn nhân loại. Giao lưu
văn hóa vốn từ xa xưa đã là một quy luật phát triển của mọi dân tộc, trong mấy
thập kỷ gần đây càng diễn ra trên một quy mô chưa từng có. Trong bối cảnh hiện
nay, dân tộc nào đứng ngoài cuộc giao lưu văn hóa và không chủ động trong
giao lưu văn hóa thì sẽ khó tránh khỏi suy thoái. Tuy nhiên, nhiều người cùng
chia xẻ quan điểm cho rằng giao lưu văn hóa không chỉ tạo điều kiện cho sự
hiểu biết và học hỏi lẫn nhau mà còn góp phần làm mất đi những khác biệt về
văn hóa và tạo ra những tiêu chuẩn văn hóa chung để nhân loại cùng chung sống
hòa bình. Chính sự khác biệt về văn hóa đã hạn chế rất nhiều khả năng hợp tác
giữa các dân tộc, do đó giao lưu văn hóa - một hoạt động tự nhiên của cuộc sống
- sẽ đào thải những gì cản trở sự giao lưu và gắn bó giữa các quốc gia về mặt
văn hoá. Nhưng giao lưu văn hóa không đồng nghĩa với việc xói mòn tính độc
lập văn hóa của mỗi quốc gia. Thế giới luôn luôn tồn tại nhờ sự đa dạng bản sắc

của các cộng đồng bên cạnh những giá trị phổ biến. Chừng nào các quốc gia còn
tồn tại thì sự độc lập về văn hóa của mỗi quốc gia cũng sẽ vẫn tồn tại. Tính độc


lập văn hóa của mỗi dân tộc không chỉ được duy trì bởi ý muốn chính trị của các
nhà lãnh đạo mà còn bởi tính địa phương của nó.
Tuy nhiên trong mối quan hệ với tính độc lập văn hoá, giao lưu văn hóa
đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có bản lĩnh, phải biết chủ động tiếp thu
những giá trị văn hóa mới, đồng thời loại bỏ những giá trị văn hóa không còn
phù hợp, trên cơ sở đó lựa chọn các loại hình văn hóa cho phù hợp. Trong thời
đại ngày nay, phương tiện thông tin đại chúng phát triển đang không ngừng đem
lại cho con người những lượng thông tin ngày một nhiều hơn về thế giới bên
ngoài. Sự hấp thụ, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc, các khu vực, các nền
văn hóa đã khiến cho những tinh hoa văn hóa từ các miền khác nhau trên hành
tinh đươợc kết tụ lại thành những yếu tố cấu thành nền văn hóa chung của nhân
loại. Điều này có nghĩa là nền văn hóa chung sẽ tiếp nhận những nhân tố tốt đẹp
của mọi nền văn hoá, phản ánh những thành tựu mà loài ngươời đã đạt được từ
các lĩnh vực khác nhau. Nền văn hóa chung ấy chỉ có thể phát triển trên cơ sở
của sự phát triển ngày một tốt đẹp và phong phú của mỗi nền văn hóa dân tộc.
3.2. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc khi tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa
Nếu tính độc lập văn hóa nhấn mạnh đến khía cạnh chính trị của văn hóa
thì bản sắc văn hóa nhấn mạnh đến khía cạnh truyền thống của nó. Bản sắc văn
hóa là những đặc điểm để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác và nó được
hình thành tự nhiên bởi sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau như địa lý, lịch
sử và cả những yếu tố ngẫu nhiên. Bản sắc văn hóa dân tộc đóng vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần cũng như vật chất của con người. Văn hóa hay là
bản sắc chính là dấu hiệu để phân biệt người này với người kia, cộng đồng này
với cộng đồng kia, quốc gia này với quốc gia kia và là kết quả của cộng đồng đó
hay con người đó tương tác với chính mình và tương tác với các cộng đồng

khác. Văn hóa thể hiện nhân cách xét về mặt cá nhân và bản sắc dân tộc xét về
mặt cộng đồng. Chính bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc làm cho con người khác
nhau chứ không làm cho con người đối lập với nhau vì bản thân văn hóa được


hình thành nên bởi một cộng đồng chứ không phải một cá nhân. Văn hóa chính
là thông điệp chung sống vì vậy nó có giá trị chung sống.
Chúng ta không thể phủ nhận sự bành trướng của văn hóa phương Tây
trên thế giới trong vòng hơn một thế kỷ qua cũng như sự tất yếu của giao lưu
giữa văn hóa phương Đông và phương Tây. Trong quá trình toàn cầu hóa về văn
hóa như hiện nay không ít người lo ngại về sự mất mát bản sắc dân tộc. Họ lo sợ
sự bành trướng và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Thật ra đó là những mối
lo ngại không có cơ sở vì nếu chúng ta cường điệu nhiệm vụ bảo vệ bản sắc dân
tộc một cách chủ quan thì sẽ làm cho chúng ta tự trở thành dị biệt với nhân loại
trong khi thế giới đang đi theo xu hướng tất yếu của sự hòa hợp. Sớm hay muộn,
các dân tộc cũng hội tụ đến một tiêu chuẩn chung sống giữa con người. Vì thế
một bản sắc tốt là một bản sắc tự nó phải có khả năng hòa hợp với các bản sắc
khác. Trong sự nghiệp phát triển, một chính phủ khôn ngoan phải biết phát huy
những thế mạnh của văn hóa dân tộc, đồng thời, biết học hỏi những cái hay, cái
tốt của các dân tộc khác để dân tộc mình có thể tương tác với nhiều cộng đồng
văn hóa khác. Hội nhập vào thế giới, đó chính là con đường tiến bộ.
3.3. Phát huy vai trò của văn hóa đối với đời sống kinh tế, chính trị khi
tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
Về kinh tế: Tác động của toàn cầu hóa về văn hóa đối với các hoạt động
kinh tế là rất rõ ràng. Trước hết, trong thời đại hiện nay, sự phân biệt giữa những
giá trị kinh tế và giá trị văn hóa ngày càng trở nên mập mờ vì những giá trị này
đan xen với nhau làm cho việc phân biệt chúng trở nên khó khăn. Bất kỳ một
sản phẩm nào đều chứa trong nó những giá trị kinh tế và cả những giá trị văn
hoá. Do đó chúng ta cần phải ý thức về sự phân biệt mang tính tương đối này.
Thứ hai, giao lưu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay do ở mức độ

cao hơn, sâu sắc hơn đã có những tác động mạnh mẽ đến giao lưu về kinh tế,
ảnh hưởng đến tất cả các mặt của kinh tế.
Nhận thức được những tác động của toàn cầu hóa về văn hóa đối với kinh
tế đòi hỏi những người có trách nhiệm không được phép bỏ qua những giá trị


văn hóa trong quá trình tổ chức lao động, sản xuất và lưu thông hàng hoá. Từ
lâu, các công ty đa quốc gia được coi là các tác nhân chính của sự trao đổi và
hợp tác kinh tế quốc tế thông qua đầu tư, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu
khoa học và cả giao lưu văn hoá. Chúng ta phải khẳng định rằng, chính giao lưu
văn hóa đã thúc đẩy hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn thế giới và đến lượt hội
nhập kinh tế kéo con người xích lại gần nhau trên cơ sở tuân theo những tiêu
chuẩn chung được quy định làm nền tảng cấu thành nên những giá trị văn hóa
chung của toàn nhân loại.
Về chính trị: ảnh hưởng của toàn cầu hóa về văn hóa đến chính trị cũng
rất rõ ràng. Toàn cầu hóa về văn hóa đang làm lan truyền trên khắp thế giới
những giá trị phổ biến như nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do… đồng thời
làm thay đổi tính chất của các quan hệ xã hội. Trong thế giới hiện nay, dân chủ
không chỉ mang tính chính trị xã hội mà còn là điều kiện tiên quyết cho phát
triển. Khi con người ràng buộc với nhau trên quy mô toàn cầu, việc giải phóng
năng lực sáng tạo của mỗi con người là điều kiện cốt yếu để một quốc gia có khả
năng cạnh tranh. Khi tất cả các khả năng sáng tạo của mỗi dân tộc được giải
phóng thì mỗi dân tộc càng có tiềm lực lớn hơn. Do đó, phổ biến các giá trị dân
chủ là xu thế tất yếu và toàn cầu hóa buộc các dân tộc, các tôn giáo khác nhau
phải ngồi lại cùng nhau tìm ra các tiêu chuẩn chung sống của toàn nhân loại.
Trong những thập kỷ gần đây, UNESCO và các tổ chức tiến bộ đã cùng
đặt lại vấn đề văn hóa và giao lưu văn hoá, khẳng định lại vị trí của văn hóa so
với kinh tế và chính trị trong sự phát triển chung của nhân loại và của mỗi dân
tộc. Những năm quốc tế khoan dung, về người già, về trẻ em đều phản ánh
nguyện vọng chính đáng của nhân loại. Cùng với xu thế tự do thương mại, xu

thế toàn cầu hóa về văn hóa đang góp phần làm cho các nước trên thế giới xích
lại gần nhau. Do đó, các nhà chính trị phải chấp nhận những nguyên tắc đối
thoại chung trên phạm vi toàn cầu. Đó là những tiêu chuẩn trong sản xuất về sử
dụng lao động trẻ em, lao động tù nhân hay những tiêu chuẩn về môi trường vấn đề hiện nay đã trở thành vấn đề đạo đức… Như vậy toàn cầu hóa nói chung


và toàn cầu hóa về văn hóa nói riêng buộc các quốc gia phải cùng nhau hợp tác,
cùng nhau xây dựng một thế giới chung hòa bình và ổn định, trong đó giá trị cá
nhân không được phép bỏ qua.
Toàn cầu hóa về văn hóa và những phản ứng cực đoan: Giao lưu văn hóa
bên cạnh những mặt tích cực vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn về tư tưởng, quan
điểm, nội dung... Rõ ràng phản ứng của các quốc gia đối với toàn cầu hóa về văn
hóa là không giống nhau. Phải khẳng định rằng, người được hưởng lợi nhiều
nhất từ quá trình toàn cầu hóa về văn hóa chính là nhân loại. Tuy nhiên vẫn có
không ít kẻ bị thua thiệt. Đó là những lực lượng kinh tế, tôn giáo khác nhau, với
những lý do ích kỷ hay lạc hậu nào đó, muốn duy trì quyền lực và lợi ích của
mình bằng phương thức cai trị cũ. Thế giới ngày nay vẫn phải chứng kiến những
xung đột sắc tộc, tôn giáo như các cuộc xung đột kéo dài ở Trung Đông, vùng
Vịnh, nhiều nước châu á, châu Phi, vùng Ban Căng hay ở Đông Timor... Những
phản ứng cực đoan như khủng bố, xung đột sắc tộc hay xung đột về tôn giáo như
vậy phản ánh tình trạng lạc hậu, bảo thủ về văn hóa của một bộ phận nhân loại
và nó tác động trở lại kinh tế và chính trị. Điều đó thực ra cũng là tất yếu. Khi
các nền văn hóa xâm nhập lẫn nhau, những giá trị phổ biến xâm nhập vào những
giá trị cá biệt, những vùng cá biệt sẽ gây ra những phản ứng trong đó có những
phản ứng cực đoan. Do các đặc thù chính trị, đặc thù địa lý mà những phản ứng
luôn luôn khác nhau và nếu thái quá thì trở thành những phản ứng cực đoan.
Nhưng cho dù có những phản ứng cực đoan ấy thì nhân loại vẫn không lùi bước
trên xu thế toàn cầu hóa về văn hoá. Những phản ứng cực đoan ấy dần dần sẽ
phải mất đi cùng với những lợi ích mà họ nhận, trong quá trình nghiên cứu,
trong quá trình hưởng thụ những thành quả văn hóa chung của nhân loại. Hiểu

rằng những phản ứng cực đoan là tất yếu, nhân loại tiến bộ phải cảnh giác và
hợp tác tìm ra các giải pháp cùng chống lại những biểu hiện tiêu cực như vậy.
Giải pháp đó chính là nâng cao dân trí, xây dựng xã hội văn minh, nhà nước
pháp quyền, xây dựng cơ chế kiểm soát toàn cầu mang tính dân chủ, bình đẳng,
hỗ trợ cùng nhau phát triển kinh tế, giảm mâu thuẫn giữa các dân tộc, các khu


vực…
Cần phải khẳng định rằng quá trình toàn cầu hóa về mặt văn hóa là một quá trình
tự nhiên, nó không phụ thuộc vào bất cứ ai cũng như không chịu sự kiểm soát
của bất cứ lực lượng nào. Toàn cầu hóa về văn hóa sẽ làm lan toả toàn cầu
những thước đo mới, những tiêu chuẩn mới trong cuộc sống của nhân loại và do
đó nó không tương thích với một vài cách quản lý cũ, một vài cách cai trị cũ
hoặc cách kinh doanh cũ. Chúng ta không thể đứng ngoài xu thế chung này.
Nhưng chúng ta có thể lựa chọn một chính sách khôn ngoan, làm sao để chúng
ta ít bị thua thiệt và chúng ta có thể tận dụng tối đa những cơ hội từ quá trình
này. Chúng ta cần phải biết chủ động hướng các chính sách của mình sao cho
phù hợp với xu thế toàn cầu hóa về văn hoá, và biện pháp cấp bách nhất, đồng
thời cũng là tốt nhất cho tất cả các dân tộc là dân chủ hóa xã hội và cùng nhau
xây dựng một hệ tiêu chuẩn văn hóa - chính trị chung toàn cầu để vừa cạnh tranh
vừa hợp tác hòa bình vì một thế giới ngày càng ổn định hơn trong tương lai…
Tóm lại, ngày nay, khi người ta ý thức được rằng văn hóa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển thì có thể khẳng định rằng, toàn cầu hóa về văn
hóa là quá trình tất yếu, diễn ra song song với toàn cầu hóa về kinh tế ở giai
đoạn đầu và vượt trước nó ở giai đoạn phát triển sau này.

KẾT LUẬN



×