BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG
THÁNH TÔNG DI THẢO CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Thuộc nhóm ngành: XH2a
Sơn La, tháng 5 năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG
THÁNH TÔNG DI THẢO CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Thuộc nhóm ngành: XH2a
Sinh viên thực hiện: Lường Thị Thơm
Nam, Nữ: Nữ
Dân tộc: Thái
Lò Văn Quý
Nam, Nữ: Nam
Dân tộc: Thái
Trần Văn Hòa
Nam, Nữ: Nam
Dân tộc: Kinh
Lớp: K56 ĐHSP Ngữ văn
Khoa: Ngữ văn
Năm thứ : 3/ Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Lường Thị Thơm
Người hướng dẫn: TS. Ngô Thị Phượng
Sơn La, tháng 5 năm 2018
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, chúng em xin chân thành cảm ơn sự
giúp đỡ nhiệt tình và chu đáo của cô giáo - Tiến sĩ Ngô Thị Phượng đã giúp đỡ để
chúng em hoàn thiện đề tài này.
Chúng em xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô Phòng Quản lí
Khoa học và Quan hệ Quốc tế, thư viện và các phòng ban liên quan của trường Đại
học Tây Bắc đã tạo điều kiện cho chúng em tham gia học tập, nghiên cứu. Đồng thời,
chúng em vô cùng biết ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn, cảm ơn tập thể lớp
K56 - Đại học Sư phạm Ngữ văn đã cổ vũ động viên chúng em trong suốt quá trình
làm đề tài.
Là công trình mang tính tập dượt nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và
những mặt hạn chế, chúng em kính mong các thầy cô và các bạn sinh viên đóng góp ý
kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên thực hiện đề tài
Lƣờng Thị Thơm
Lò Văn Qúy
Trần Văn Hòa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài ..........................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................................4
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ..............................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................7
5. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................8
6. Cấu trúc của đề tài .......................................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG ...................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..................................................................9
1.1. Thể truyền kì và thành tựu thể loại ở văn học Việt Nam .........................................9
1.1.1. Thể truyền kì ..........................................................................................................9
1.1.2. Thành tựu thể loại ................................................................................................10
1.2. Lê Thánh Tông .......................................................................................................13
1.2.1. Cuộc đời và con người.........................................................................................13
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác ...............................................................................................15
1.3. Khái quát về Thánh Tông di thảo ...........................................................................17
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG THÁNH TÔNG DI THẢO ..............................................20
2.1. Ca ngợi công đức triều Lê ......................................................................................20
2.2. Chân dung tự hoạ của chính mình ..........................................................................22
2.3. Ca ngợi người phụ nữ .............................................................................................23
2.4. Tư tưởng tôn giáo và triết lí nhân sinh ...................................................................26
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT THÁNH TÔNG DI THẢO .......................................39
3.1. Cốt truyện ...............................................................................................................39
3.2. Nhân vật ..................................................................................................................43
3.3. Bút pháp kì ảo .........................................................................................................47
3.4. Ngôn ngữ ................................................................................................................51
PHẦN KẾT LUẬN .....................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................58
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Nội dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di
thảo của Lê Thánh Tông vì những lí do chính sau đây:
Truyện truyền kì là một thể loại tự sự ngắn bắt nguồn từ Trung Hoa, khi du
nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng được tiếp thu và phát triển rực rỡ. Các thành tựu
tiêu biểu của thể truyền kì gồm: Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp, Việt điện
u linh tập của Lý Tế Xuyên, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ, Thiên Nam vân lục liệt truyện của Nguyễn Hãng, Nam ông mộng
lục của Hồ Nguyên Trừng... Những tác phẩm kể trên đã đánh dấu sự phát triển rực rỡ
của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam cả về chất lượng và số lượng. Trong số sáng tác
kể trên, Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện được viết theo thể truyền kì được coi là tác
phẩm tiên phong, có phóng tác, có tái tạo, khẳng định sự chủ động của người cầm bút,
khẳng định bước tiến dài trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của thể loại
truyền kì. Nghiên cứu Nội dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo của Lê Thánh
Tông, chúng tôi mong muốn nâng cao một phần hiểu biết của mình về thể loại truyền
kì nằm trong hệ thống văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam.
1.2. Lí do thực tiễn
Thứ nhất, là một sinh viên chuyên ngành Ngữ văn, chúng tôi thấy rõ được tầm
quan trọng của học phần Văn học trung đại nói chung và đóng góp của Thánh Tông di
thảo nói riêng trong nền văn học mười thế kỉ của nước nhà. Vì vậy, nghiên cứu Nội
dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, chúng tôi mong
muốn được góp một phần hiểu biết của mình về Thánh Tông di thảo và từ đó trau dồi
cho bản thân vốn hiểu biết về thể loại truyền kì.
Thứ hai, là giáo viên dạy môn Ngữ văn THPT trong tương lai, việc nghiên cứu
Nội dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo là một công việc vô cùng quan trọng
và cần thiết. Bởi nó giúp chúng tôi phân tích tốt hơn, hiểu sâu sắc toàn bộ tác phẩm.
Đồng thời, đó còn là cơ sở để chúng tôi tiếp cận các tác phẩm trong kho tàng truyện
truyền kì Việt Nam, đặc biệt là những tác phẩm có trong chương trình giảng dạy ở
trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
4
Thánh Tông di thảo, chữ Hán: 聖宗遺草, dịch theo tiếng Việt có nghĩa là Bản
thảo để lại của Thánh Tông Hoàng Đế. Đây là tác phẩm viết bằng chữ Hán, nhưng lấy
đề tài ở Việt Nam, tương truyền là của vua Lê Thánh Tông, ông vua trị vì từ năm
1460 đến 1497 trong lịch sử Việt Nam.
Mặc dù ra đời sớm (từ thế kỉ XV) nhưng Thánh Tông di thảo đến với người đọc hiện
đại muộn hơn so với các tác phẩm truyền kì khác. Hơn thế, vấn đề tác giả của Thánh
Tông di thảo còn nhiều phức tạp nên các nhà nghiên cứu luôn khá thận trọng trong
việc nghiên cứu và đánh giá tác phẩm.
Thánh Tông di thảo là cái tên do người đời sau đặt cho một tác phẩm gồm 19 truyện
được viết theo loại hình truyền kì, tạp kí và ngụ ngôn (kể từ đây gọi chung là truyện).
Không như Lĩnh Nam chích quái, Truyền kì mạn lục, Thiên Nam vân lục...
thường ghi lại những tích có sẵn, ở đây người viết hoặc dựa vào truyện dân gian, hoặc
dựa vào những sự kiện lịch sử (có liên quan đến thời kháng chiến chống Minh và thời
của vua Lê Thánh Tông), hoặc dựa vào văn liệu hay thực tế cuộc sống mà cấu tạo nên
truyện mới. Vì vậy có thể nói Thánh Tông di thảo là một sáng tác, trong đó có phóng
tác, có tái tạo và có cả hư cấu.
Năm 1958, nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn
học - quyển 2 đã đánh giá rất cao về giá trị nội dung và nghệ thuật của Thánh tông di
thảo. Ông cho rằng: “Thánh Tông di thảo đã mở đầu cho lối văn tiểu thuyết trong văn
học Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam nói riêng” [03; tr.165].
Năm 1979, trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII do
Đinh Gia Khánh chủ biên, khi nghiên cứu về phần văn tự sự, truyện kí thế kỉ XV, các
tác giả cuốn này đã rất chú trọng nghiên cứu về Thánh Tông di thảo. Tuy nhiên, họ chỉ
dừng lại ở việc chỉ ra sự phức tạp về nội dung của tác phẩm mà chưa đi sâu vào thành
công về nghệ thuật. Và các tác giả đã đi đến nhận định: “Những truyện trong Thánh
Tông di thảo... có thể được coi như một bước tiến từ Lĩnh Nam chích quái sang Truyền
kì mạn lục, nếu xem xét sự phát triển của thể loại tự sự từ những sự tích cũ phóng tác
ra những truyện mới” [14; tr.352].
Năm 1984, nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân trong cuốn Từ điển văn học, tập 2
đánh giá: “Thánh Tông di thảo là tập truyện kí văn học không phải nhằm ghi lại những
sự tích có sẵn như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác trong
đó có phóng tác, có tái tạo và có hư cấu. Nhiều truyện kí được viết với bút pháp vững
5
vàng, hình tượng sinh động, lời văn trau chuốt, súc tích... có nhiều truyện kí viết hay,
đọc rất hấp dẫn” [29; tr.353].
Năm 1989, nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên trong cuốn Văn học Việt Nam thế
kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII cho rằng những nhận định trong Thánh Tông di thảo đã
“mở đầu cho lối viết truyện, lời văn nhiều đoạn khá nhuần nhuyễn, dáng dấp văn
truyền kì” [14; tr.173].
Năm 1997, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt
Nam thời trung đại, tập 1 đánh giá cao về Thánh Tông di thảo bên cạnh Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ. Ông cho rằng: “Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã phóng thành
công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người làm đối
tượng và trung tâm phản ánh” [22; tr.24]. Đồng thời ông còn khẳng định nét tiến bộ
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Thánh Tông di thảo là lấy con người làm trung
tâm và đề cao con người.
Năm 2005, trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử khi viết về đặc trưng của thể loại truyền kì đã nhận xét:
“Truyện truyền kì Việt Nam như: Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kì
mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm đánh dấu sự chín muồi
của nghệ thuật tự sự Việt Nam” [28; tr.294]. Khác với các tập truyện thần linh, ma
quái, anh tú nêu trên, nhân vật ở đây chủ yếu là nhân vật lịch sử, nhân vật của Thánh
Tông di thảo và Truyền kì mạn lục đều là những người rất đỗi bình thường. Tác giả đã
đi vào nghiên cứu cốt truyện, nhân vật của Thánh Tông di thảo trên cơ sở của sự so
sánh với Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả về Thánh Tông di thảo
đều đưa ra được những nhận định đúng đắn về giá trị và đặc biệt là vị trí của tác phẩm
và nếu có bàn đến nội dung và nghệ thuật thì đều cho rằng Lê Thánh Tông rất thành
công cả về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm. Tuy nhiên, họ chỉ dừng lại ở mức
độ khái quát nhất, chưa thành hệ thống, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể về từng
phần nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Bởi vậy, chúng tôi tiếp tục kế thừa, tiếp thu
những thành tựu đã có ở trên để hoàn thiện đề tài Nội dung và nghệ thuật trong Thánh
Tông di thảo.
Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên chưa đi sâu vào tìm hiểu về nội
dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo. Dựa vào cơ sở những gợi ý trên,
6
chúng tôi tiến hành nghiên cứu Thánh Tông di thảo để làm rõ nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Chúng tôi đi sâu nghiên cứu Nội dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo.
Đây là các phương diện chưa được nghiên cứu cụ thể trong tất cả các công trình trước
đó.
3.2. Phạm vi
Ở đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về Nội dung và nghệ thuật trong
Thánh Tông di thảo, gồm 19 truyện. Ngoài ra chúng tôi chỉ so sánh với các tác phẩm
cùng thời mà không nghiên cứu cụ thể chúng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ chính của đề tài là nghiên cứu tổng thể, toàn diện hệ thống phương
diện nội dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông nhằm làm
rõ về thể loại truyền kì và tư tưởng của Lê Thánh Tông gửi gắm thông qua tác phẩm.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi trình bày các vấn đề:
- Nghiên cứu về những vấn đề chung liên quan đến thể loại truyền kì.
- Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của tác giả. So sánh để tìm ra sự
tương đồng giữa Thánh Tông di thảo, các tác phẩm cùng thể loại và các tác phẩm cùng
thời.
- Trên cơ sở sử dụng những khái niệm lí luận có tính công cụ để phục vụ cho
việc nghiên cứu vấn đề đặt ra trong chừng mực nhất định, chúng tôi cố gắng mở rộng
thêm các vấn đề khác có liên quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê phân loại
Đây là phương pháp được tiến hành đầu tiên nhằm thống kê, phân loại những
công trình nghiên cứu về Thánh Tông di thảo theo từng vấn đề một cách hệ thống.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phân tích các công trình nghiên cứu về Thánh Tông di thảo từ đó có thể tổng
hợp, khái quát những đóng góp cũng như hạn chế của các công trình, qua đó tìm ra
7
những khoảng trống, các khía cạnh mà Thánh Tông di thảo chưa được nghiên cứu.
Trong đề tài này, chúng tôi chọn cách tổng thuật theo từng vấn đề, sắp xếp để
giới thiệu các công trình theo trình tự thời gian vì cách làm này có thể giúp mọi người
dễ nhận ra tiến trình nghiên cứu Thánh Tông di thảo.
5.3. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp cần thiết để xử lí đề tài. Muốn tìm ra những đặc điểm về
nội dung và nghệ thuật khi xây dựng hình tượng, chúng tôi tìm tới phương pháp này.
Chúng tôi sẽ tiến hành mở rộng so sánh tập truyền kì này với các tập truyền kì
khác như: Lĩnh Nam chích quái, Truyền kì mạn lục, Truyền kì Tân phả... Để thấy được
sự tương đồng, khác biệt và bước phát triển của thể loại.
5.4. Phương pháp liên ngành
Thể loại truyền kì là sự tương tác, mối giao hoà giữa văn học dân gian và văn học
viết. Do đó khi nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp phương pháp phân tích tác
phẩm văn học viết với phương pháp phân tích các yếu tố nghệ thuật trong văn học dân
gian. Các khái niệm như cốt truyện, nhân vật, sự kiện, ngôn ngữ... vốn được áp dụng
trong nghiên cứu tác phẩm văn học viết. Các khái niệm như mô típ, kiểu truyện vốn
được áp dụng trong nghiên cứu văn học dân gian và cả văn học viết. Khi nghiên cứu
những phương diện đó trong cùng một tác phẩm, đề tài cần đặt trong mối tương quan
giữa đặc điểm tác phẩm văn học dân gian với đặc điểm tác phẩm văn học viết.
Các phạm vi văn học có mối quan hệ với văn hóa và lịch sử để từng bước chỉ ra
sự giao lưu giữa chúng, đề tài cũng sử dụng thêm phương pháp liên ngành văn hóa văn học - lịch sử - triết học…
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài làm nổi bật những giá trị nội dung và nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo.
Những nội dung trên sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho học sinh và sinh viên khi học
học phần văn học Việt Nam và những tác phẩm có liên quan.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nội dung Thánh Tông di thảo
Chương 3: Nghệ thuật Thánh Tông di thảo
8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thể truyền kì và thành tựu thể loại ở văn học Việt Nam
1.1.1. Thể truyền kì
Thể truyền kì có hai cách gọi: truyện truyền kì và tiểu thuyết truyền kì. Truyện
truyền kì vốn có nguồn gốc từ Trung Hoa xuất hiện ở cuối đời Đường, Tống, đánh dấu
sự chín muồi của tự sự nghệ thuật. Hai chữ “Truyền kì” bao hàm mấy ý nghĩa sau:
“Một là: có ý chuộng lạ (hiếu kỳ) như Hồ Ứng Lân đời Minh nói, kể những việc khác
thường, kế thừa truyền thống truyện chí quái từ đời Ngụy Tấn. Hai là, như tác giả đời
Tống là Triệu Ngạn Vệ nói: đặc điểm của truyền kì là chứa đựng nhiều thể, có thể
nhận thấy có yếu tố sử, yếu tố thơ, yếu tố nghị luận. Các kiểu câu nghị luận thường ở
dạng: “Thái sử công viết”, “Quân tử viết”. Trong truyện truyền kì cũng xuất hiện tài kể
chuyện với ngòi bút thi nhân” [28; tr.349].
Tên gọi “truyền kì” không chỉ để gọi tên một thể loại tự sự có từ cuối đời
Đường mà đến đời Minh Thanh nó lại chuyên dùng để chỉ thể loại hý khúc. Theo nhà
văn, nhà nghiên cứu Lỗ Tấn về nội dung thì truyện truyền kì khó phân biệt với truyện
chí quái đời Lục triều, song về nghệ thuật kể chuyện thì đã có nhiều đổi khác. Lời kể
uyển chuyển, lời văn hoa mĩ. “Kì” nghĩa là không có thật, nhấn mạnh tính hư cấu. Cái
gọi là truyền kì, chủ yếu là truyền cái kì trong tình yêu nam nữ và truyền cái kì trong
thế giới thần kinh ma quỷ.
Về mặt thể loại, truyền kì thực sự là truyện vì có kết cấu cốt truyện hoàn chỉnh
như những tác phẩm nghệ thuật, có thắt nút, phát triển và có mở nút. Điểm khác biệt
cơ bản so với thể sử (chí truyện) - viết theo hệ thống gia phả, không có cốt truyện thì
truyền kì lại có cốt truyện riêng mà không nhất thiết phải kể trọn vẹn cuộc đời của một
hay dòng họ của nhân vật. Rất nhiều câu chuyện chỉ đóng khung trong một giấc mơ
hay một khúc đoạn cuộc đời, chẳng hạn như lúc đi học, đi thi hay lúc nghỉ trọ của một
nho sinh… Mô típ đối thoại, biện bác được sử dụng khá nhiều. Về kết thúc, truyện có
hai loại, có hậu và bi kịch. Nhà văn gần như đã khước từ lối kết thúc trong truyện dân
gian, cụ thể là cổ tích. Ngay cả trong những truyện tưởng như kết thúc có hậu thì cuối
cùng lại là kết thúc bi kịch. Kiểu kết thúc có hậu chỉ là dư ba, phảng phất nỗi niềm vô
phương cứu chữa của hiện thực xã hội. Điều đó tạo nên tính chất thẩm mĩ và tư tưởng
hiện thực ở nhiều dạng vẻ.
9
Về văn tự: Tất cả các tác phẩm viết theo thể truyền kỳ ở Việt Nam đều viết
bằng chữ Hán.
Thể truyền kì có một số đặc điểm cụ thể sau:
Một là: luôn viết về những truyện lạ, có thể lấy cốt truyện từ những câu chuyện
đã có sẵn trong dân gian hoặc ở ngoài đời sống xã hội được ghi chép lại dưới cái gốc li
kì, kì ảo. Thông qua mộng ảo, truyện truyền kì thường tả thực cuộc đời.
Hai là: thông qua yếu tố kì ảo, truyện truyền kì phản ánh nhiều mặt của đời
sống: số phận của người kĩ nữ, thư sinh đi thi, dân kẻ chợ… là những nhân vật trung
tâm. Chống chế độ phong kiến, chế độ môn phiệt, đòi hỏi tự do hôn nhân, đồng thời
vạch mặt bọn trí thức phong kiến ham mê công danh, lợi lộc mà chìm đắm trong khoa
hoạn… đã trở thành chủ đề quan trọng của truyện.
Ba là: bố cục của truyện truyền kì thường mở đầu bằng lời giới thiệu nhân vật,
quê quán, tính tình, phẩm hạnh… Kế đó, phần trung tâm của truyện kể những truyện
kì ngộ lạ lùng. Phần kết, kể lại lý do kể chuyện, dưới dạng “ban ngày yến tiệc, đêm
nghe kể chuyện, thu thập các chuyện lạ, cảm thấy kinh hãi… ghi lại chuyện lạ”. Người
kể chuyện thường nhân danh một nhân vật trong tác phẩm hay một người cụ thể để kể
lại, mục đích là để đảm bảo tính khách quan, dễ phân tích tâm lí nhân vật. Một số sáng
tác có thêm phần lời bình. Thể truyền kì cũng thường xuất hiện những mô típ người
lấy tiên, lấy ma, người hóa phép, biến hóa…
Bốn là: về phong cách, truyện truyền kỳ thường dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả
cảnh, tả người thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ
mang màu sắc lãng mạn.
Nói tóm lại, truyền kỳ là một thể văn ra đời ở Trung Quốc. Thể văn này thường
có nội dung li kì hấp dẫn nhằm phản ánh nhiều mặt của đời sống, ngôn ngữ uyển
chuyển, bút pháp lãng mạn, tinh tế…
1.1.2. Thành tựu thể loại
Kết thúc thời kỳ trung đại, truyện truyền kỳ Việt Nam có được một số thành tựu
cơ bản sau: Lĩnh Nam chính quái (Vũ Quỳnh), Việt điện u linh (Lí Tế Xuyên), Thánh
Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kỳ tân phả
(Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Vũ trung tuỳ bút (Phạm Đình Hổ),
Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án)…
10
Trong số các sáng tác kể trên, các truyện Thánh Tông di thảo của Lê Thánh
Tông, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm đánh
dấu sự chín muồi của nghệ thuật truyền kì Việt Nam. Cách gọi truyền kỳ chứng tỏ các
tác giả đã đi theo truyền thống truyền kì Trung Hoa. Tuy nhiên, về thể thức thì thay
đổi, chẳng hạn như, hệ thống thơ ca thù tạc của nhân vật rất nhiều. Nhà văn đã tăng
yếu tố này nhằm biểu hiện tốt hơn thế giới nội tâm của nhân vật.
Ở kiểu truyện thần linh ma quái, anh tú của Trung Hoa, nhân vật chủ yếu là
nhân vật lịch sử xã hội. Nhân vật của truyền kì Việt Nam chủ yếu là những con người
đời thường, có cung bậc cảm xúc rất người như yêu, ghét, ghen tuông, chơi bời, đa
tình, ham mê sắc dục… Các nhân vật là quan tướng, thần ma đều bị soi chiếu bởi
những khía cạch đời thường. Trong hệ thống nhân vật, các nữ nhân vật thường là
người thiệt thòi và chịu nhiều oan khuất. Có thể nói, lần đầu tiên trong văn học viết,
chính thể truyền kì đã đưa nữ giới trở thành nhân vật trung tâm của văn học.
Về không gian phản ánh truyện, một đặc sắc đáng lưu ý là các thể loại khác khi
sử dụng nhân vật và điển cố điển tích thì thường mượn danh nhân Trung Hoa, nhân vật
truyện truyền kì lại xuất thân hoàn toàn Việt Nam. Từ nhân vật lịch sử Việt Nam, nhà
văn hư cấu, biểu tượng hóa thêm khiến cho câu chuyện biến thành dạng ngụ ngôn.
Ngay cả những địa danh, triều đại… cũng không vay mượn mà hoàn toàn nội bản.
Trong hệ thống các sáng tác trung đại, tập Thánh Tông di thảo (Bản thảo để lại
của Thánh Tông - tên gọi do người đời sau biên soạn) có giá trị gần với Truyền kì mạn
lục hơn cả. Tập truyện có 19 truyện kí và 01 truyện phụ lục, cuối mỗi truyện đều có lời
bàn của Sơn Nam Thúc (hiện chưa rõ là ai). Các truyện tiêu biểu gồm Duyên lạ xứ
Hoa, Hai Phật cãi nhau, Chuyện lạ nhà thuyền chài… Về nguồn gốc, truyện thường
dựa vào cốt truyện có sẵn trong dân gian hoặc dựa vào những sự kiện lịch sử có liên
quan tới thời kháng chiến chống Minh của nhà Lê. Về tính chất, truyện viết dưới dạng
truyền kì, ngụ ngôn, tạp kí. Hiện chưa rõ ai là người tập hợp biên soạn sách, cũng chưa
thể giải đáp được dứt khoát tác phẩm có phải đúng là sáng tác hoàn toàn do Lê Thánh
Tông chắp bút. Thánh Tông di thảo nay không còn bản gốc. Về kết cấu, có có cốt
truyện không đồng đều, có truyện ly kỳ, lắt léo, có truyện sơ sài. Rất có thể nguyên do
đến từ công tác sưu tầm, ghi chép lại bản thảo sau khi Thánh Tông mất. Tính chất
mộng ảo, hư huyễn vô thường thấm đẫm trong hầu hết các sáng tác. Mỗi truyện
thường có kết cấu ngắn. Mỗi truyện thường xoay quanh hai đến ba nhân vật chính, sự
11
kiện tập trung. Xét về mặt hệ thống thì tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm là tư tưởng
Nho giáo. Tác giả đề cao quân quyền, khẳng định uy lực tuyệt đối của hoàng đế, ca
ngợi tài trị nước an dân. Nó phù hợp với hệ tư tưởng chính thống thời kì Hồng Đức
(1470 - 1497), để củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, đã đề cao địa vị của Hoàng đế
và Nho giáo. Nhưng tập truyện cũng có những truyện kí phê phán tính chất viển vông,
vô dụng của giáo điều Khổng Mạnh, đề cao Đạo giáo. Thánh Tông di thảo còn đả kích
rất mạnh bọn sư sãi vô dụng, núp áo cà sa ăn bám và bẻm mép. Ở một số truyện, tác
giả cũng tỏ ra bao dung, độ lượng và phần nào thông cảm với nhu cầu tình cảm của
con người, nhất là người phụ nữ nết na, đức hạnh, thủy chung.
Ở thế kỉ XV, Thánh Tông di thảo “đánh dấu một bước tiến rõ rệt của văn tự sự
truyện kí từ chỗ nặng về ghi chép sự tích cũ đến chỗ hư cấu phỏng tác những truyện
mới” [09; tr.1636].
Tập truyện Truyền kì tân phả (Cuốn phả mới về truyền kì) của nhà văn Đoàn
Thị Điểm, viết theo lối truyện kể, có nhiều bài thơ xen kẽ, còn có tên gọi khác là Tục
truyền kì lục (Viết nối truyện truyền kỳ). Tác phẩm có tính chất mở đầu cho trào lưu
nhân đạo chủ nghĩa trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII. Tập văn có 06 truyện nhưng
giới nghiên cứu văn học cho rằng chỉ có 03 truyện Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa
bể), Vân Cát thần nữ (Thần nữ Vân Cát) và An Ấp liệt nữ (Liệt nữ ở An Ấp) là do
Đoàn Thị Điểm sáng tác, số còn lại chưa rõ là của ai. Nhìn chung, cả sáu truyện đều là
những câu chuyện cuộc đời, về con người trong buổi xế chiều của xã hội phong kiến
Việt Nam được biểu hiện dưới màu sắc hoang đường, quái đản. Mượn yếu tố hoang
đường nhưng Truyền kì tân phả có nhiều ưu điểm trong việc phản ánh thực trạng xã
hội đương thời. Tuy nhiên, tác giả cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn quen thuộc
của nhà văn thời đó trong lập trường phê phán của mình cũng như trong cách quan
niệm về một xã hội lí tưởng. Nhiều truyện tác giả một mặt chỉ trích giới quan trường
cao thấp nhằm phơi bày mặt trái của xã hội phong kiến, mặt khác ra sức đề cao đạo
đức, trật tự phong kiến, ca ngợi vai trò của minh quân, vẽ lên hình tượng lí tưởng về
những ông vua công minh vì dân vì nước. Tác giả chủ trương đề cao đến mức cực
đoan những người phụ nữ tiết nghĩa vẹn toàn bằng cách cho người đàn bà - nhân vật
chính của truyện, vì một tình yêu mãnh liệt tự nguyện chết theo chồng.
Điểm nổi bật nhất của Truyền kì tân phả là người viết có ý thức ủng hộ lối sống
phóng khoáng vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến và đề cao vai trò của người phụ
12
nữ trong xã hội. Phần lớn các truyện đều được xây dựng từ những nhân vật có thật,
hoặc những truyền thuyết lịch sử. Tác giả khéo léo dẫn dắt và xây dựng tính cách nhân
vật làm cho câu chuyện có sức truyền cảm sâu sắc và thấp thoáng xuất hiện tâm lí
nhân vật, điều mà văn học trung đại chưa đạt tới. Điểm hạn chế của tác phẩm là cốt
truyện còn tản mạn, rườm rà, kết cấu lỏng lẻo, chú ý nhiều đến câu chữ hơn nội dung.
Vì vậy, nhà nghiên cứu Phan Huy Chú đã nhận xét: Lời văn thì hoa lệ nhưng khí cách
yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ.
1.2. Lê Thánh Tông
1.2.1. Cuộc đời và con người
Lê Thánh Tông tên thật là Tư Thành, còn có tên nữa là Hạo, hiệu là Thiên Nam
động chủ, hiệu khác là Đạo Am chủ nhân, là con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông.
Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Bảo Đại thứ 3 (1442), là em
cùng cha khác mẹ với hoàng thái tử Bang Cơ (sau này là vua Lê Nhân Tông), Lạng
Sơn Vương Nghi Dân và Cung Vương Khắc Xương.
Tiểu sử Lê Tư Thành có nhiều trắc trở. Chuyện xảy ra ở đời Lê Thái Tông. Bà
Ngô Thị Ngọc Dao (Mẫu thân của Lê Tư Thành) có thai Lê Tư Thành, bà đã bị bà phi
Nguyễn Thị Anh mưu hại. Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu
giúp Tiệp dư Ngọc Dao và đưa đi lánh nạn tại chùa Huy Văn, Lê Tư Thành được sinh
ra tại đây.
Năm 1459, người anh cả cùng cha khác mẹ của Lê Nhân Tông là Lê Nghi Dân
tiến hành đảo chính và sát hại Lê Nhân Tông. Nghi Dân lên ngôi. Lê Thánh Tông
không bị vua sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Gia Vương. Chín tháng sau
một cuộc đảo chính do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân và
đề nghị Lê Tư Thành lên làm vua.
Tháng 6 năm Canh Thìn (1460), các đại thần nhà Lê đã lập Tư Thành lên làm
vua, qua hai niên hiệu: Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng Đức (1470 -1497). Hoàng
đế Lê Thánh Tông đã để lại một sự nghiệp phục hưng đất nước mà ít có ông vua nào
làm được trên mọi phương diện: Chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hóa…
Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân
sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên
hiệu Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có
nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ
13
cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chiêm Thành (1471), sát
nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt, đồng thời có cuộc hành quân về
phía Tây đất nước (1479).
Lê Thánh Tông mất ngày 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497, người kế vị ông là Lê
Hiến Tông truy tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công
Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.
Cuộc đời 55 năm, ông đã cố gắng cả đời mình vì nước vì dân, cả đời làm việc
không mệt mỏi để giữ nước yên dân. Trải qua biết bao thăng trầm, lòng người thay đổi
nhưng vị trí của Lê Thánh Tông hoàng đế trong lòng người dân Việt sẽ không bao giờ
thay đổi.
Lê Thánh Tông là người thông minh, đĩnh ngộ hơn người. Nhìn lại thành tựu
của ông đã đạt được suốt 38 năm làm vua, có thể thấy rõ sự đánh giá đó. Tuy ông sống
trong một thời kì biên giới nước nhà không còn bị giặc ngoại xâm uy hiếp nữa, nhưng
nội bộ triều đình lại nảy sinh những mâu thuẫn, những âm mưu vu oan, giáng họa,
hãm hại lẫn nhau. Nên việc trị vì không phải là đơn giản, nhưng ông đã dùng trí tuệ
của mình để ổn định, cai trị nó làm cho đất nước phát triển và vững mạnh.
Lê Thánh Tông có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, củng cố tăng cường sức mạnh của dân tộc ta vào nửa sau thế kỉ XV. Bờ cõi
nước ta bây giờ được mở mang và yên bình, ông có ý thức rất cao đối với nhiệm vụ
giữ gìn, bảo vệ đất đai, lãnh thổ của tổ quốc. Lê Thánh Tông luôn ý thức được rằng,
muốn giữ gìn, bảo vệ được độc lập, tự do chỉ có con đường là phát triển tốt nhất sức
mạnh của dân tộc, dân giàu thì nước mới mạnh, đồng thời cũng sẵn sang biện bạch rõ
lẽ phải trái đối với những kẻ có âm mưu vi phạm đất đai nước Việt.
Lê Thánh Tông không chỉ là một vị vua anh minh, tài ba mà còn là người có tư
chất văn chương. Nhà sử học Vũ Quỳnh đã nhận xét: “Vua võ giỏi, văn hay mà thánh
học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách lịch toán, các việc thánh
hiền, cái gì cũng không; văn thơ hay hơn cả các quan văn học” [16; tr.319].
Hoàng tử Tư Thành là người giàu tình cảm, chuộng điều thiện. Sử sách chép về
ông đều nói: “Ngài ưa điều thiện, thích người hiền chăm chăm không mỏi”. Đối với
mẹ ông rất chí hiếu, đi đánh giặc ở phương xa ông thường nhớ về người mẹ của mình.
Ông sống rất có tình, có nghĩa. Nhân cách đó cho thấy ông là con người của văn học
biết đối nhân xử thế.
14
Lê Thánh Tông vừa là vị vua anh minh, đứng đầu một triều đình, một quốc gia
mà công việc hàng ngày là giải quyết công việc đối nội, đối ngoại có quan hệ tới vận
mệnh của cả một đất nước. Do đó đòi hỏi phải có một ý chí kiên định, vững vàng mà
đã nghiêng về ý chí thì dễ mất chất thơ, hồn thơ bởi thơ là lĩnh vực thuộc về tình cảm,
cảm hứng, tâm hồn. Ấy vậy mà đối với Lê Thánh Tông ngoài công việc chính sự nữa.
Ông vẫn giữ được một tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động, chính vì vậy việc gì đối với
ông cũng có thể thành thơ được. Đi vào thiên nhiên ông làm thơ đã đành, trông công
việc học tập ông cũng làm thơ. Ông làm thơ nhiều hơn cả những vị quan văn, những
ông tiến sĩ, trạng nguyên do khoa cử đào tạo ra. Lê Thánh Tông thật là một nhà thơ lớn
ở giai đoạn nửa sau của thế kỉ XV.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Trong giai đoạn văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XV, có thể nói Lê Thánh
Tông là một tác giả có số lượng sáng tác đồ sộ, phong phú nhất, ông sáng tác bằng văn
tự Hán và Nôm, sáng tác cả văn xuôi và thơ.
Về văn xuôi, hiện nay phần lớn di sản về văn xuôi của ông được chép rải rác
trong bộ Thiên Nam dư hạ.
Thiên Nam dư hạ là một bộ sách về pháp luật thời Lê Sơ, do Đỗ Nhuận và
Thân Nhân Trung biên soạn vào thời vua Lê Thánh Tông. Thiên Nam dư hạ có 100
quyển, chủ yếu chép về luật lệ, chế độ, điển lễ, cáo sắc, văn thư từ đầu thời Lê Thái
Tổ đến năm Hồng Đức. Bộ sách được đánh giá là một bộ bách khoa thư dưới thời
Lê Thánh Tông.
Ngoài những phần khảo cứu chép trong Thiên Nam dư hạ, ông còn là tác giả
của nhiều bài chiếu, chế về nhiều lĩnh vực hoạt động chính trị, xã hội chép rải rác
trong các sách như Đại Việt sử kí toàn thư, Thịnh Liệt Đông ấp, Bùi thị hành trạng...
như bài Chiến khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Dụ khuyến học, Chiếu cầu di thư
trong thiên hạ, Chiếu định quan chế, Chiếu đi đánh Chiêm Thành... mà về nội dung
đều có giá trị nhất định trong việc nghiên cứu những vấn đề có liên quan trong lịch sử.
Tất cả những phần trên với khối lượng phong phú, tính chất đa dạng, cũng có những
giá trị nhất định về tìm hiểu Lê Thánh Tông về các phương diện nghiên cứu triết học,
tư tưởng, lịch sử, kinh tế, văn học, nghệ thuật...
Lê Thánh Tông còn là tác giả của bài phú nổi tiếng, bài Lam Sơn Lương thủy
phú. Hiện nay chúng ta chỉ thấy bài phú này được chép trong bộ Thiên Nam dư hạ,
15
nhưng được chép ở cả ba tập mà mỗi tập đều có những nhầm lẫn sai sót và khác nhau
cơ cấu, nét chữ. Khi dịch, rất cần thiết phải đối chiếu cả 3 bản đề tựa chọ những từ cho
thích hợp và bổ sung những chỗ khiếm khuyết.
Ngoài ra, nói đến văn xuôi của Lê Thánh Tông, ta không thể không nhắc tới
tác phẩm Thánh Tông di thảo. Theo các nhà nghiên cứu, có lẽ tên sách là do người
sau đặt cho, là một tập sách gồm 19 truyện vừa có tính chất truyền kì, quái đản, vừa
có tính chất ngụ ngôn, tạp ký, có ít nhiều nội dung xã hội, được viết bằng một bút
pháp già dặn.
Về thơ, theo thống kê sơ bộ, thơ chữ Hán của ông còn lại khoảng 350 bài, chép
rải rác trong vài chục tập sách Hán Nôm và trên bia, trên vách núi…Trong số 9 tập thơ
còn tên để lại, chỉ 6 tập: Châu cơ thắng thưởng, Chinh Tây kỉ hành, Minh lương cẩm
tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh là có thơ để lại. Ba tập:
Anh hoa hiếu trị, Cổ kim cung từ thi, Xuân vân thi không thấy có thơ, có lẽ mất hoặc
còn nhưng lẫn lộn vào trong nhiều tập sách có chép thơ ông. Những bài thơ chưa rõ
thuộc tập nào, chiếm đến non nửa số thơ còn lại.
Trong số các tập thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông, Quỳnh uyển cửu ca là tác
phẩm của Lê Thánh Tông chỉ có 9 bài thơ, còn lại mấy trăm bài là của các từ thần
trong Tao Đàn. Theo sử sách và truyện kí thì nhân hai năm Sửu (1493) và Dần (1494)
được mùa liền, nhà vua đã tập hợp 28 từ thần, ứng với 28 vì sao ở bốn phương trời gọi
là Nhị thập bát tú để xướng họa mừng điềm tốt trời cho, xoay quanh chín đề tài gọi là
Quỳnh uyển cửu ca. Nhà vua tự xưng là Tao đàn nguyên súy, viết chín bài xướng, hai
mươi tám từ thần ở Viện hàn lâm. Tổng cộng có 261 bài thơ, nhưng hiện chỉ còn
khoảng 250 bài, với tên chung của tập thơ là Quỳnh uyển cửu ca. Sự xuất hiện của hội
Tao đàn đánh dấu bước phát triển mới của phong trào văn học cung đình. Tác phẩm
của hội chỉ có một tập thơ chữ Hán Quỳnh uyển cửu ca và hai bài Tựa, một của Lê
Thánh Tông, một của Đào Cử, không có tập thơ nào khác nữa. Hội Tao đàn là một Hội
nhà văn chính thống đầu tiên của lịch sử văn học.
Thơ chữ Nôm của Lê Thánh Tông còn lại năm mươi sáu bài thơ và có thể là bài
văn biền ngẫu: Thập giới cô hồn quốc Ngữ văn (Mười điều răn dạy cô hồn viết bằng
chữ quốc ngữ). Tác phẩm gồm 11 bài, một bài mở đầu và mười bài răn giới mười loại
cô hồn. Kết thúc mỗi bài là một bài thi kệ thất ngôn bát cú hoặc xen lục ngôn, tổng
cộng hơn 300 câu biền văn và 80 câu thơ Nôm. Tác phẩm được viết với mục đích giáo
16
huấn, mượn việc răn đe cô hồn để khen chê, đề cao hoặc phê phán mười hạng người
trong xã hội, dựa vào đạo lí và lợi ích của nhà nước phong kiến.
Thơ Nôm Lê Thánh Tông gồm nhiều bài trong Hồng Đức quốc âm thi tập và
trong một số sách khác. Hồng Đức quốc âm thi tập là tuyển tập thơ Nôm của các tác
giả thời Hồng Đức (1470 - 1497) chứ không phải là tác phẩm của hội Tao đàn, mãi
đến năm 1494 mới ra đời. Hồng Đức quốc âm thi tập không ghi tên tác giả của tập thơ
và ở mỗi bài thơ, nhưng dựa vào nội dung tư tưởng, lối ngâm vịnh, xướng họa giữa
vua tôi, quan hệ giữa thi phẩm với một số tập thơ Nôm khác có thơ Nôm Lê Thánh
Tông, các nhà nghiên cứu có thể trích xuất ra được khoảng năm sáu chục bài thơ là của
Lê Thánh Tông. Ở một thời chữ Hán và văn thơ chữ Hán phát triển thịnh đạt như thế,
chữ Nôm và văn học Nôm còn đang ở vị thế thấp, việc nhà vua cổ vũ, khuyến khích
phong trào sáng tác thơ Nôm, nắm vững luật thơ Nôm… đã biểu hiện thái độ tin yêu
và quý trọng ngôn ngữ văn học dân tộc.
Là tác giả lớn của văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XV, Lê Thánh Tông có
những đóng góp tích cực đối với sự phát triển của văn học dân tộc. Thơ văn Lê Thánh
Tông mang đặc trưng cơ bản, cảm hứng, âm hưởng chủ đạo là khẳng định chính quyền
phong kiến dân tộc tự chủ, thống nhất theo mô hình Nho giáo. Có thể nói Lê Thánh
Tông là tác giả thứ hai, sau Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong
sáng tác thơ Nôm. Cùng với thành tựu thơ văn chữ Hán, Lê Thánh Tông xứng đáng là
tác giả kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam.
1.3. Khái quát về Thánh Tông di thảo
Thánh Tông di thảo là tác phẩm quan trọng đánh dấu mốc trưởng thành của
truyện truyền kì. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán. Thánh Tông di thảo là tên do
người đời sau đặt, được hiểu là những bản thảo của Lê Thánh Tông truyền lại. Tác
phẩm gồm 19 truyện. Đến nay, bản gốc đã thất lạc hiện chỉ còn lưu giữ hai bản chép
tay do người thời Nguyễn sửa chữa và viết thêm mang kí hiệu A.202 tại thư viện khoa
học xã hội (Hà Nội). Quyển thượng gồm 13 truyện: Yêu nữ Châu Mai, Bài kí dòng dõi
con thiềm thừ, Hai Phật cãi nhau, Người hành khất giàu, Hai gái thần, Phả kí Sơn
Quân, Bức thư của con muỗi, Duyên lại nước Hoa, Lời phán xử cho anh điếc và anh
mù, Ngọc nữ về tay chân chủ, Hai thần hiếu đễ. Quyển hạ gồm 6 truyện: Chồng dê,
Người trần ở thủy phủ, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, Bài kí một giấc mộng, Truyện tinh
chuột, Một dòng chữ lấy được gái thần.
17
Năm 1958, Nguyễn Đổng Chi khi đặt ra vấn đề tác giả của Thánh Tông di thảo
đã cho rằng: “Sách phần nào là ngụy thư vì từ trước chưa có tài liệu gì nói về nó cả.
Thế nhưng hiện nay chưa có chứng cớ đích xác nào để cho là không phải của Lê
Thánh Tông” [03; tr.153]. Năm 1963, trong lời giới thiệu văn bản Thánh Tông di thảo
do Nguyễn Bích Ngô dịch lại, hai nhà nghiên cứu Lê Sỹ Thống và Hà Thúc Minh đã
nhấn mạnh Thánh Tông di thảo là của Lê Thánh Tông dựa trên căn cứ văn phong của
một số truyện mang khẩu khí thiên tử, nội dung phản ánh hiện thực thời Lê Sơ.
Như vậy, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông được sáng tác trong những
năm ông trị vì đất nước.
Lời tựa ở đầu tác phẩm đã định hướng những nội dung được phản ánh trong
Thánh Tông di thảo: “Khổng Tử không bao giờ nói chuyện quái dị, thần kì vì những
chuyện ấy mắt không trông thấy, mọi người sinh ngờ vực. Nhưng thử nghĩ xem: trong
bốn bể, chín châu, biết bao núi thẳm, đầm to, thì những chuyện quái dị, thần kì kể sao
hết được? Kìa như những chuyện Bá Hữu nước Trịnh, khi chết hoá thành quỷ dữ,
Hoàn Công nước Tề, trông thấy yêu quái trên núi, ông bạc đầu ăn thịt con trai, con gái,
không phải là chuyện quái lạ hay sao? Lại như khách chơi bể theo chim âu, Đinh Lệnh
Uy cưỡi hạc, gió của Liệt Tử, bè của Trương Khiên, không là chuyện dị thường hay
sao? Nào nuốt trứng chim huyền điểu rồi sinh ra ông tổ nhà Thương, nào ướm chân
vào vết lớn rồi sinh ra ông tổ nhà Chu, nào nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi sinh
ra ông tổ nhà Hán, những chuyện ấy không phải là thần kì hay sao? Những chuyện ta
chép ra đây như Duyên lạ nước Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài... Đều là những
chuyện có kê cứu, không giống những loại chuyện Tề Hài. Những nơi ấy chấp nhất
cho những chuyện ấy là có việc mà không có lí hoặc có lí mà không có việc. Đó chỉ là
kiến thức của bọn ngồi đáy giếng, không đủ bàn đến những sự vật trong bầu trời rộng
lớn. Nay tựa” [25; tr.17]. Lời tựa tác phẩm là của một người với tư cách là tác giả
nhưng không xưng danh, không đề năm biên soạn, tuy vậy qua đó người ta thấy rằng:
Việc chép lại những việc kì quái trong tác phẩm là có căn cứ, có sự kê cứu đó là cơ sở
để tác giả khẳng định độ tin cậy cũng như giá trị của tác phẩm.
* Tiểu kết
Truyện truyền kì là một trong những thể loại tiêu biểu của nền văn học trung
đại Việt Nam. Về nội dung, truyện truyền kì phản ánh xã hội một cách chân thực, rộng
lớn. Một mặt, truyện truyền kì ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Mặt
18
khác, truyện truyền kì phản ánh xã hội. Về nghệ thuật, truyện truyền kì thường sử
dụng yếu tố kì ảo để biểu đạt nội dung. Lê Thánh Tông là tác giả của tập truyện Thánh
Tông di thảo đã làm tăng thêm giá trị của tác phẩm bằng sự đa tài, bằng sự quan sát
tinh tế của một vị vua anh minh, một con người của nghệ thuật văn chương. Tập
Thánh Tông di thảo là sáng tác thể nghiệm đầu tiên của thể loại truyền kì và đưa
truyện truyền kì phát triển. Thánh Tông di thảo với những đóng góp về nội dung và
nghệ thuật xứng đáng ở một vị trí quan trọng trong nền văn học viết.
19
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG THÁNH TÔNG DI THẢO
Nội dung của tác phẩm là toàn bộ những hiện tượng thẩm mĩ độc đáo được phản
ánh bằng hình tượng thông qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ, tức
là tiếng nói riêng của nhà văn bao gồm những cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng, khát vọng
của tác giả về hiện thực dó. Nội dung của tập Thánh Tông di thảo, Lê Thánh Tông tập
trung phản ánh về thời đại của mình, chân dung của mình và những vấn đề xã hội.
2.1. Ca ngợi công đức triều Lê
Công đức là những đóng góp, cống hiến sức lực và trí tuệ của người cho người,
của tập thể với xã hội nhằm vào mục tiêu phát triển chung. Những việc làm đó để lại
những thành quả có ích cho cộng đồng và cho toàn thể dân tộc.
Trong tổng số 19 truyện thì trong tập Thánh Tông di thảo có 03 truyện đề cập
đến vấn đề này, bao gồm những truyện: Hai gái thần, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Hai
Phật cãi nhau chiếm tỉ lệ 15,8%. Như vậy có thể nói Lê Thánh Tông đã phần nào đề
cập đến công đức của triều Lê.
Lê Thánh Tông ca ngợi công đức nhà Lê bởi vì ông là con dân dòng tộc này,
không những thế ông còn là vua của một nước nên việc đề cao, ca ngợi sẽ là minh
chứng xác thực cho những công lao, đóng góp của triều nhà Lê cũng như của chính
bản thân Lê Thánh Tông trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Nhà Lê Sơ hay còn gọi là Lê Sơ triều là giai đoạn đầu tiên của nhà Hậu Lê, một
triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi Lê Lợi
phát động khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại nhà Minh. Lê Lợi đổi tên nước là Giao Chỉ
vốn tồn tại trong thời gian nội thuộc nhà Minh trở về Đại Việt, quốc hiệu có từ thời Lý
Thánh Tông. Thời đại nhà Lê có 10 vị hoàng đế thuộc 06 thế hệ, đây là thời kì nhà Lê
nắm trọn quyền hành, cũng là thời kì vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt
Nam.
Để đề cao công ơn triều Lê, Lê Thánh Tông tập trung ca ngợi trên các phương
diện như: Chính trị, kinh tế.
Thứ nhất, tác giả khái quát về tình hình chính trị nhà Lê:
Trong tập Thánh Tông di thảo, tác giả đã ngợi ca công lao vô cùng to lớn của
triều nhà Lê trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập cho dân tộc.
Truyện Hai gái thần phản ánh tâm lí căm ghét giặc Minh mà tội ác đã để lại ấn
tượng sâu sắc và lâu dài trong nhân dân đồng thời tái hiện cuộc chiến oanh liệt, ngoan
20
cường của quân Lam Sơn với chi tiết miêu tả, tiên đoán Lê Lợi giành thắng lợi thông
qua việc tra sổ sách của Tinh quan: “Tinh quan đem sách Thái Ất ra tính và nói: Rồi
đây Hoàng Phúc về triều, Vương Thông ra trấn, nhưng sau hơn mười năm nữa sẽ có
người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Phúc sẽ cầm quân sang cứu viện, đến ải
Lê Quan thì bị Lê Lợi bắt sống. Từ đấy thiên hạ đại định” [25; tr.44]. Lòng căm thù,
chống giặc ngoại xâm từ bao đời nay đã được triều nhà Lê tiếp nối để bảo vệ chủ
quyền, xây dựng nền hòa bình cho đất nước. Có thể thấy được sức mạnh đoàn kết,
tình yêu thương của toàn dân tộc, sự hi sinh của những anh hùng không phải là vô
nghĩa mà nó đã viết nên thiên sử vàng đến tận ngày nay bao đời con cháu luôn biết
ơn và noi theo.
Thứ hai, sau cuộc chiến đánh đuổi quân Minh tác giả còn tái hiện đời sống kinh
tế nhà Hậu Lê:
Triều Lê đã bắt tay xây dựng lại nền kinh tế nước Đại Việt bị tàn phá. Nông
nghiệp được phục hồi, riêng công việc trị thủy và làm thủy lợi trong thời kì này cũng
được chú trọng và phát triển.
Ở lĩnh vực nông nghiệp, Trong Thánh Tông di thảo tác giả đã nhắc đến vấn đề
nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Trong truyện Chuyện lạ nhà thuyền chài: “Có một
vợ chồng, không rõ họ tên, cũng không biết quê quán ở đâu đến trú ngụ ở miền biển
Đông, làm nghề đánh cá” [25; tr.85]. Nhờ làm ăn chăm chỉ, biết cách dành dụm và tiết
kiệm gia đình ông trở nên dư giả. Có thể thấy rằng trong triều đại nhà Lê ngoài nghề
trồng trọt và chăn nuôi thì thời đại này cũng đã chú trọng đến nghề đánh bắt nuôi trồng
thủy hải sản để phát triển kinh tế.
Cùng song hành với nông nghiệp thì vấn đề trị thủy và làm thủy lợi cũng được
quan tâm: Lê Thánh Tông đã nhận thức rõ vai trò của công việc trị thủy, để làm tốt
công việc này người đứng đầu đất nước phải có trách nhiệm điều hành xây dựng đê
điều. Trong truyện Hai phật cãi nhau tác giả có thái độ chê trách những người đứng
đầu thông qua lời nói của Phật Thích Ca: “Chao ôi! Hai ngươi đều có lỗi cả! Trong khi
nước lớn mênh mông, các ngươi đã không biết vận ngũ thông, dùng lục trí, thét lui
muôn dòng nước về biển Đông, mà chỉ biết giữ cái hình hài bằng gỗ, bằng đất, ngồi
hưởng rượu thịt của dân chúng, như thế đã không biết xấu hổ, lại còn đấu khẩu với
nhau, không sợ “vách có tai” ư?” [25; tr.32]. Qua việc vì lũ mà hai Phật xảy ra mâu
thuẫn, tranh cãi, bản thân bị nước lũ cuốn trôi, tác giả đã gián tiếp cho ta thấy hậu quả
21
của lũ để lại. Lũ khiến cuộc sống của vạn vật đều bị đảo lộn và gây ra nhiều mất mát.
Nên trong lúc trị vì triều Lê, cũng như Lê Thánh Tông đã dốc sức vào việc xây dựng
đê điều. Trong truyện Chuyện lạ nhà thuyền chài tác giả có viết: “... Ngọa Vân thấy
tình thế nguy bách quá, vội giơ tay bắt quyết, hô to một tiếng: Biến! Tức nàng hóa ra
một con cá to, dài ngàn thước, mình lớn ước tới ba mươi quầng, nằm chắn chỗ ngọn
nước tràn vào” [25; tr.91]. Tuy nội dung của truyện Chuyện lạ nhà thuyền chài không
trực tiếp nói về vấn đề trị thuỷ nhưng qua chi tiết nước lũ dâng làm dân làng thiệt
mạng, tác giả gián tiếp nêu lên ước mơ chinh phục nạn hồng thuỷ của các vị vua thời
Lê. Từ đó ta có thể thấy rằng tầm quan trọng của việc trị thủy là rất lớn để phục vụ
người dân trong việc tưới tiêu, bồi đắp.
Thánh Tông di thảo đề cao công ơn triều Lê trên nhiều phương diện. Triều đại
này có nhiều chính sách cải cách trong nhiều lĩnh vực. Đưa nước Đại Việt bước vào
một thời hùng cường thịnh trị, đỉnh cao trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
2.2. Chân dung tự hoạ
Lê Thánh Tông đã tự hào về công trạng của mình thông qua 05 truyện trên tổng
19 của tập Thánh Tông di thảo, chiếm 26,3% bao gồm các truyện: Yêu nữ ở Châu Mai,
Tinh chuột, Bài kí một giấc mộng, Phả kí Sơn Quân, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc. Như
vậy, tác giả đã viết khá nhiều truyện về tài đức của riêng bản thân mình.
Thứ nhất, trong khá nhiều truyện tác giả đã tự hào tài trị quốc của bản thân bằng
cách tự thuật, hóa thân - nhập vai vào các nhân vật:
Truyện Yêu nữ Châu Mai, truyện Tinh chuột những con quỷ hại người đều bị đức
thánh Phù Đổng khu trừ. Ở nhiều truyện khác, trong đó nhà vua đóng một vai, mà vai
trò của nhà vua rất mực công minh, dù án khó đến đâu cũng xét được, cuối cùng đưa
yên vui lại cho khổ chủ, đưa lạc nghiệp cho mọi người. Câu nói của nhà vua trong
truyện Tinh chuột là cả một sự tự hào về nhiệm vụ to lớn, khó khăn của người cầm
quyền trị nước: “Mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét cho ra cái án ma
này, thì bố mẹ người thêm một đứa con ma, vợ thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là
ma, không khỏi gây ra tai nạn” [25; tr.190]. Qua lời nói của tác giả ta có thể thấy được
gánh nặng trong công cuộc tề gia - trị quốc - bình thiên hạ của ông cũng như các bậc
đế vương thời đại phong kiến. Đó là những nhiệm vụ to lớn và đầy gian nan vất vả,
nhưng đồng thời nó cũng thể hiện cho ta thấy những tài trí thông minh, sắc sảo, mưu
lược của người cầm quyền.
22
Ở truyện Bài ký một giấc mộng, nhà vua thể hiện lòng biết ơn với tiền nhân:
“Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng,
phạt đều nằm ở trong tay. Ai uất ức, đau khổ ta có thể giải đi được. Ai có công đức
ngầm kín ta có thể lên được. Khấn với các thần địa phương, nếu có u hồn nào còn uất
ức thì bảo chúng cứ thực tâu bày” [25; tr.169]. Cho dù là những việc khó khăn nhất thì
ông cũng có thể phân giải được. Một con người tài hoa ít ai có thể sánh bằng. Một tấm
gương, một người cao thượng xứng đáng với tư cách minh quân.
Thứ hai, Lê Thánh Tông có con mắt nhìn thấu sáu cõi trong lựa chọn nhân tài
thân tín:
Trong truyện Phả kí Sơn Quân ông viết: “Thượng đế ngẫm nghĩ hồi lâu, gọi thần
gió đến truyền rằng: -Sắc cho ngươi làm bầy tôi Quân Sơn. Những tính nết của y khi
mừng thì em con rồng, mà giận thì anh con sói. Bởi vậy, khi y mừng thì ngươi nên
lượn vòng quanh mà dỗ dành ve vuốt, khi giận thì ngươi chớ làm sừng làm cánh cho y,
chớ có ở chung với y. Phải đợi khi y cất tiếng gầm hãy đến” [25; tr.48]. Cách chọn
người của tác giả cho thấy sự tài tình của vua tôi, những người ông chọn để phò tá
trước hết phải hiểu tính cách của mình, luôn trung thành làm theo lệnh của bề trên,
người phò tá không được làm sừng làm cánh trước chủ nhân của mình. Không chỉ vì
một chức quan nhỏ, qua lời nói Thánh Tông còn thể hiện cho ta thấy việc dùng hiền tài
của mình một cách đúng người đúng việc.
Thứ ba, Lê Thánh Tông - một ông vua khiêm tốn:
Trong truyện Ngọc nữ về tay chân chủ, có câu: “Tài trí trong thiên hạ đều là tài
trí của một người” [25; tr.104]. Cũng như lời nói của tiên ông ở đoạn cuối truyện Gặp
tiên ở hồ Lãng Bạc cho ta thấy lòng tự tôn, tự phụ đồng thời là điều mong mỏi làm cho
dân giàu nước mạnh của Lê Thánh Tông: “Hổ quấn vạc, đao khuê vào miệng, giữa ban
ngày mọc cánh bay cao, tuy quên lời và tự cao, nhưng đối với thời thì vô dụng. Huống
chi lúc bẩm sinh vốn đã sẵn thanh cốt...” [25; tr.161].
Tập Thánh Tông di thảo đã khắc họa rõ nét chân dung một quân vương tài trí hơn
người, một con người thập toàn yêu nước thương dân. Công lao của Lê Thánh Tông vô
cùng to lớn trong công cuộc trị nước, vì lợi ích thái bình mà không ngại khó khăn gian
khổ xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.3. Ca ngợi ngƣời phụ nữ
Tác phẩm đề cập đến quan niệm trọng nam khinh nữ bắt nguồn từ Nho giáo.
23
Người phụ nữ qua một số truyện trong Thánh Tông di thảo tuy không được tác giả đề
cao cho lắm nhưng nói chung ít nhiều có phần mạnh dạn, chủ động và tương đối có
quyền lợi không kém nam giới. Trong truyện Yêu nữ Châu Mai, nhân vật chính là một
cô gái tuy là yêu tinh nhưng đã hoá thành người, vào ở nhà hát, kiếm tìm một người tri
kỉ. Nàng chủ động giữ mình, bảo vệ danh tiết, không chịu ra tiếp khách, làm cho chủ
rất khổ tâm: “Nhưng, hễ khách làng chơi vừa bước chân vào cửa thì gót sen đã quay
ngoắt, chỉ để lại hương ngát sau lưng; phòng lan vội trở vào, chỉ còn thấy phất phơ
dải yếm” [25; tr.22]. Bà dụ dỗ, doạ nạt nàng mãi không được: “Chủ nhà hát ngán
quá, thường ngon ngọt dỗ dành, hoặc xẵng lời doạ dẫm, hết ân lại uy, chung quy vô
bổ. Muốn đuổi đi, sợ phí công từ trước, muốn giữ lại, e không lợi về sau” [25;
tr.22]. Cho đến khi gặp người khách lạ, nàng mới ra tiếp và hai người cùng đi biệt.
Câu nói của cô ta đại khái là hơn một năm thiếp ở đây không biết bao nhiêu mà kể,
mỗi lần trong vách nhìn ra chỉ thấy vàng ngọc bề ngoài, bông nát bên trong đều
không được như ý.
Truyện Duyên lạ nước Hoa kể về một nàng công chúa cai trị một phần đất nước
của thái hậu để lại, còn phần kia là của thái tử, dưới quyền của công chúa, dân giàu
nước thịnh: “Nước sẽ chia làm hai: từ bên tả ra phía đông thuộc phần nguyên tử làm
chủ; từ bên hữu ra phía tây thuộc phần công chúa làm chủ. Kể từ khi dời đô đến đây,
số dân, số của tăng gấp mấy lần khi trước” [25; tr.75]. Như vậy, có thể thấy rằng công
chúa Mộng Trang phận là nữ nhi nhưng có khả năng cai trị một đất nước, làm cho đất
nước hưng thịnh, nhân dân no ấm. Trong những truyện Chồng dê, Một dòng chữ lấy
được gái thần, Hai thần nữ... đều có những cô gái đóng vai trò tích cực và chủ động.
Như vậy, Lê Thánh Tông đã có cái nhìn mới mẻ về quan niệm người phụ nữ. Lê
Thánh Tông ca ngợi người phụ nữ về vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
Điểm tiến bộ mà ông nhận thấy ở người phụ nữ là người phụ nữ cũng có thể làm được
những việc mà trước đó theo quan niệm của lễ giáo phong kiến chỉ có nam giới mới
làm được.
Sự tiến bộ còn thể hiện qua việc ca ngợi tình yêu tự do. Trong Thánh Tông di
thảo, Lê Thánh Tông cổ xuý cho tình yêu nam nữ mà bấy lâu bị Nho giáo cấm kị. Tác
giả tả tình yêu thương nhớ nhung của trai gái khá phóng túng. Truyện Chồng dê là một
ví dụ. Cô gái trong truyện cũng như anh chàng bí mật khi là dê, khi là người ấy, sống
với nhau tuy lén lút nhưng rất nồng đượm: “Hai người gối nhau mà nằm. Trời gần
24