Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Luận văn thạc sỹ: Phân tích hoạt động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.92 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
Ngoài hai hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư, công ty bảo
hiểm còn thực hiện các dịch vụ đại lý như giám định tổn thất, xét giải quyết
bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%.. 18

Không hạn chế.................................................................41
Tối đa 35%..........................................................................41


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BIC
BIDV
TCTD

Tổng Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Tổ chức tín dụng


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Ngoài hai hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư, công ty bảo
hiểm còn thực hiện các dịch vụ đại lý như giám định tổn thất, xét giải quyết
bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%.. 18

Không hạn chế.................................................................41
Tối đa 35%..........................................................................41

SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức của BIC............................Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.2 Tổ chức hoạt động đầu tư của BIC...........Error: Reference source not found




1

MỞ ĐẦU
Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, con người với tư cách là chủ thể của
hoạt động có ý thức luôn phải đối đầu với các rủi ro, bất trắc. Tác động của rủi ro đã
khiến cho con người không thu hái được kết quả như đã định trước và hậu quả là
tạo ra sự mất cân đối trong quá trình sản xuất của xã hội. Khi xã hội càng phát triển
nhu cầu đảm bảo an toàn cho bản thân, gia đình và bảo toàn thành quả lao động của
mỗi con người trong xã hội càng được đề cao. Đó là tiền đề khách quan cho sự ra
đời và phát triển của quỹ bảo hiểm nói riêng và các quỹ dự trữ nói chung. Bảo hiểm
có vai trò như một công cụ an toàn thực hiện chức năng cơ bản của mình là : bảo vệ
con người, bảo vệ tài sản của cải vật chất xã hội.
Công ty bảo hiểm với chức năng huy động số lượng tiền nhỏ từ nhiều cá nhân,
tổ chức từ việc thu phí bảo hiểm. Theo đó phí bảo hiểm được thanh toán trước,
những cam kết thanh toán sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian hoặc cũng có
thể không thực hiện nếu không có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Như vậy, từ việc thu
được phí bảo hiểm, công ty bảo hiểm có trong tay một quỹ tài chính rất lớn. Quỹ
này không dùng để chi trả hết ngay nên công ty bảo hiểm có thể sử dụng phần nhàn
rỗi này để đầu tư trở lại nền kinh tế như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng,
cho vay hay đầu tư bất động sản…. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn có các nguồn
vốn khác như vốn chủ sở hữu, khấu hao tài sản cố định... chưa sử dụng đến cũng là
nguồn vốn lớn mà công ty bảo hiểm có thể đem đầu tư sinh lợi. Trong một thời kỳ
dài trên thế giới, hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm chỉ như là một hoạt
động bổ trợ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận ngoài phần lợi nhuận từ hoạt động bảo
hiểm. Tuy nhiên ngày nay, đầu tư đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng,
không thể tách rời trong hoạt động của công ty bảo hiểm. Trên cơ sở hiệu quả của
hoạt động đầu tư, công ty có thể giảm phí bảo hiểm nhằm thu hút nhiều hơn các
khách hàng tham gia bảo hiểm và đó là một trong những giải pháp hữu hiệu để

tranh giành thị phần trên thị trưởng bảo hiểm cạnh tranh hết sức khốc liệt.


2
Tổng công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành lập và
hoạt động chưa lâu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam nhưng quá trình phát triển
của nó đã thu được những kết quả khả quan và từng bước khẳng định vị thế của
mình trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Bên cạnh hoạt động chính là hoạt động
bảo hiểm thì hoạt động đầu tư là một hoạt động thu được kết quả khá tốt trong thời
gian qua, góp phần không nhỏ vào kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty
trong thời gian qua. Chính vì vậy để tìm hiểu hoạt động này tại Tổng Công ty bảo
hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam diễn ra như thế nào, hiệu quả của nó
ra sao, những ưu điểm và nhược điểm của nó trong thới gian vừa qua, qua đó nâng
cao hơn nữa hoạt động đầu tư tại đây, vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Phân tích hoạt
động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương như sau:
CHƯƠNG 1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
CHƯƠNG 2. Thực trạng hoạt động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
CHƯƠNG 3. Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư của Tổng Công ty bảo
hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm phi nhân thọ.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Các giải pháp phát triển hoạt động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động đầu tư của công ty Bảo hiểm trong lĩnh

vực phi nhân thọ.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn 2008-2010.


3
2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn cùng
các phương pháp toán học trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Những phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp thống kê,phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh số liệu, hệ thống hoá…trên cơ sở tài liệu, số liệu
thống kê kinh tế và số liệu thống kê của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học:
- Hệ thống hoá lý luận về hoạt động đầu tư trong công ty bảo hiểm, làm rõ các
đặc trưng về nguồn vốn, về hạn mức và lĩnh vực đầu tư của công ty bảo hiểm cũng
như các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm phát triển hoạt động
đầu tư của Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trên
cả hai phương diện quy mô và hiệu quả.


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ

CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
công ty bảo hiểm.
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, loài người luôn phải đối mặt với
vô vàn các rủi ro như thiên tai, địch họa, tai nạn, bệnh tật… và đặc biệt là với những
biến động về kinh tế, chính trị, xã hội… gây khó khăn, thậm chí đe doạ tới tính
mạng và tài sản của mình. Với sức sống mãnh liệt của mình, con người luôn tìm
cách hạn chế những tác động không mong muốn đó.
Cách nay gần 4,500 năm, đế quốc Babylon cổ, các thương nhân thường phải
du thương (buôn bán ở những nơi xa) khá nhiều, và họ đã đối phó với các rủi ro
bằng cách đem tiền cho người khác vay. Khi việc vận chuyển hàng hóa đã hoàn tất
một cách an toàn, các thương nhân này sẽ bắt người vay tiền hoàn trả khoản vay,
kèm theo đó là tiền lời. Vào năm 2100 trước Công Nguyên, đạo luật Hammurabi ra
đời đã đặt hoạt động cho vay của các doanh nhân vào khuôn khổ pháp luật. Đạo luật
này đã chính thể hóa các khái niệm “bottomry” (chỉ việc mượn tiền trên cơ sở lấy
tàu làm bảo đảm) và “respondentia” (chỉ hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy).
Các khái niệm này đã đặt nền móng cho thực hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
Các hợp đồng loại này gồm 3 yếu tố: khoản vay căn cứ vào giá trị tàu, hàng hóa hay
cước vận chuyển; lãi suất; khoản phụ thu cho các trường hợp mất mát có thể xảy ra.
Trên thực tế, khi tham gia hợp đồng bảo hiểm, chủ tàu là người được bảo hiểm còn
chủ cho vay là người đánh giá rủi ro.
Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại không lâu sau đó. Tại
đây người ta đã lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên,
ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau
Công Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của bảo


5
hiểm nhân thọ bị lãng quên. Tuy nhiên các mặt, tính chất của nó thì vẫn không hề

thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và
thương nghiệp. Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên
để bù đắp thiệt hại các vụ hỏa hoạn, lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm
thương tật, tử vong và thậm chí là bảo hiểm tù ngục (bảo hiểm cho trường hợp
người mua bảo hiểm phải vào tù).
Trong suốt thời phong kiến, các ngành du lịch và mậu dịch ngày càng suy yếu
và không còn thịnh đạt như trước, do vậy các hình thức bảo hiểm sơ khai cũng bị
mai một. Tuy nhiên trong khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 các ngành
giao thông, thương nghiệp và cả dịch vụ bảo hiểm đã phát triển trở lại.
Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Đơn cử
là trường hợp của tập đoàn bảo hiểm nhân thọ Yogakshema, một Công ty trực thuộc
tổng hội liên hiệp bảo hiểm Ấn Độ. Tên của Công ty này được lấy từ trong kinh Rig
Veda. Cụm từ Yogakshema cho thấy ở Ấn Độ vào khoảng năm 1000 trước Công
Nguyên, hình thức “bảo hiểm cộng đồng” đã phát triển rất thịnh hành và người
Aryan khi đó cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này.
Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật người
Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà cửa
đồng thời che chở, đùm bọc các góa phụ và trẻ nhỏ.
Sau Cách Mạng ánh sáng (Glorious Revolution) năm 1688, ở Châu Âu chỉ có
Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Nhờ vậy mà trong
suốt 3 thập kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh
mẽ. Hình thức bảo hiểm mà chúng ta thấy ngày nay có nguồn gốc từ thế kỷ 17. Khi
đó ở Anh từng có một nơi gọi là Lloyd’s of London, nơi mà về sau người ta biết tới
với cái tên Nhà hàng Cà phê Lloyd’s (Lloyd’s Coffee House). Các thương nhân, chủ
tàu và các nhà thầu bảo hiểm khi đó hay tụ tập ở nhà hàng này để bàn công chuyện
làm ăn và tiến hành các hợp đồng buôn bán.
Mặc dù được sử dụng như một công cụ hạn chế rủi ro, dịch vụ bảo hiểm nhân
thọ vẫn bị cuốn vào trò đỏ đen vốn được xem là bản năng của tầng lớp tiểu tư sản



6
Anh đang phát triển rất mạnh mẽ lúc bấy giờ. Khi đó nạn cá cược lan tràn khắp nơi.
Thậm chí nếu đọc báo thấy tin có một nhân vật tiếng tăm nào đấy đang bị bệnh
nặng sắp chết, người ta liền phỏng đoán ngày chết của nhân vật này, sau đó đổ về
Nhà hàng Cà phê Lloyd’s để đặt cược cho ngày chết ấy. Để thể hiện sự phản đối đối
với trò cá cược này, vào năm 1679 đã có 79 nhà thầu bảo hiểm quyết định ly khai ra
khỏi Nhà hàng Cà phê Lloyd’s. Hai năm sau họ chung tay lập nên “Nhà hàng Cà
phê Lloyd’s mới”, nơi được công chúng biết đến với cái tên “Lloyd’s chân chính”.
Đến năm 1774, Quốc hội Anh ra sắc lệnh cấm tổ chức, tham gia cá cược trên ngày
chết của con người, từ đó vấn nạn này mới chấm dứt
Ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo
hiểm Anh. Vào năm 1735, Công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở
Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm 1759, Hội nghị Giáo hội Trưởng
lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của
Hoa Kỳ. Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ. Ngày
22/5/1761, tập đoàn này đã ký kết được hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên với
công chúng Mỹ.
Mặc dầu vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ bảo hiểm
nhân thọ Mỹ mới thật sự cất cánh. Chìa khóa dẫn đến thành công chính là nhờ các
Công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Năm 1835, ở New York đã xảy ra một vụ hỏa hoạn đầy tai tiếng. Vụ hỏa hoạn
này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để
bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước. Hai năm sau,
Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các Công ty
phải tự tích lũy nguồn dự trữ này. Vụ cháy lớn ở Chicago vào năm 1871 càng nhấn
mạnh sâu sắc một thực tế: nếu hỏa hoạn bùng lên ở những thành phố đông dân, mức
độ thiệt hại sẽ vô cùng to lớn.
Hình thức bảo hiểm trách nhiệm công cộng xuất hiện trong những năm 1880
và cùng với phát minh ra xe ô tô, hình thức bảo hiểm này đã được công chúng đón
nhận và ngày càng thể hiện được tầm quan trọng.



7
Trong suốt quá trình công nghiệp hóa, dịch vụ bảo hiểm đã có rất nhiều bước
phát triển. Năm 1897, chính phủ Anh thông qua “Đạo luật bồi thường cho người lao
động” (Workmen’s Compensation Act). Đạo luật này buộc các Công ty phải đóng
bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên.
Trong thế kỷ 19, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm
nhân mạng và sức khỏe cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung
cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội
kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm cho hội viên; điều này diễn ra tương tự ở hầu hết
các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc
nhiều hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe cho nhân viên. Các hợp đồng này
không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên
khi họ bị bệnh, bị tai nạn hay về hưu. Trong các hợp đồng này thường nhân viên chỉ
phải trả một phần phí bảo hiểm.
Mặc dù ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi
Vương Quốc Anh, thị trường bảo hiểm của nước này lại phát triển theo chiều
hướng có phần khác với Anh. Lãnh thổ đất nước rộng lớn, sự phân bố đa dạng về
mặt địa lý cùng khát vọng độc lập mãnh liệt của người Mỹ chính là những nguyên
nhân góp phần tạo nên sự khác biệt này. Khi Mỹ chuyển mình từ một thuộc địa xa
bờ của Anh trở thành một thế lực độc lập và từ một nước nông nghiệp thành nước
công nghiệp phát triển, ngành kinh doanh bảo hiểm của nước này cũng phát triển
mạnh theo hướng từ một vài Công ty ban đầu trở thành một ngành công nghiệp
quy mô lớn.
Như vậy ngay từ xa xưa, bảo hiểm đã hình thành và phát triển có lúc thăng,
lúc trầm nhưng nó ra đời trên cơ sở nhu cầu bức thiết của xã hội. Chính vì vậy mà
nó ngày càng được cũng cố và phát triển.Qua thời gian, cuộc sống của con người
ngày càng phát triển về mọi mặt như: kinh tế - xã hội, chính trị, ...Nhưng cũng vì
vậy các rủi ro tiềm ẩn mà loài người phải đối mặt càng phức tạp, khó lường, vì thế

mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày càng cao. Ngành bảo
hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng đó của con người. Vậy bảo


8
hiểm là gì?
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân
phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến
cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn
ra bình thường. Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một
ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách
mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ
chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do
rủi ro đó gây ra.Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện
pháp tài trợ rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là
tổn thất về tài chính, nhân mạng,..Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển
giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua
phí bảo hiểm.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng
góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ...


Định nghĩa 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít



Định nghĩa 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được

bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để
cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được

một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm.
Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo
các phương pháp của thống kê


Định nghĩa 3: Bảo hiểm là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết

hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất
cộng đồng và có thể dự tính được
Các định nghĩa trên thường thiên về một góc độ nghiên cứu nào đó (hoặc thiên
về xã hội - định nghĩa 1, hoặc thiên về kinh tế, luật pháp - định nghĩa 2, hoặc thiên
về kỹ thuật tính - định nghĩa 3).
Theo các chuyên gia Pháp, một định nghĩa vừa đáp ứng được khía cạnh xã hội


9
(dùng cho bảo hiểm xã hội) vừa đáp ứng được khía cạnh kinh tế (dùng cho bảo
hiểm thương mại) và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý có thể phát biểu
như sau: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ
cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp
xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối
với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê
Tuy nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất và được sử dụng khá
rộng rãi đó là: “Bảo hiểm là một sự thoả thuận hợp pháp thông qua đó, một cá nhân
hay một tổ chức (người được bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất
định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác (công ty bảo hiểm) để đổi lấy những cam
kết về khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong văn bản thoả
thuận (hợp đồng bảo hiểm) xảy ra”. Ta có thể thấy bản chất của hoạt động bảo hiểm
là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội giữa những người tham gia nhằm
đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người tham

gia bảo hiểm.
Từ hàng trăm năm trước công nguyên con người đã nhận thức được vai trò của
hoạt động bảo hiểm, nhưng phải đến năm 1347 tại Italia, người ta mới ghi nhận
được hợp đồng bảo hiểm chính thức đầu tiên, một hợp đồng về bảo hiểm hàng
hải.Hợp đồng bảo hiểm hảng hải ra đời đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình
phát triển của hoạt động bảo hiểm cũng như thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tài chính sau này.Rõ rệt nhất là bảo hiểm hàng hải đã thể hiện vai trò to lớn trong
cuộc cách mạng thương mại vào thế kỉ 15 khi châu Âu xâm lấn châu Á và châu
Mỹ.Tiếp theo đó, tại Anh vào năm 1666 đã xảy ra một vụ cháy lớn ở thủ đô London
gây ra thiệt hại nghiêm trọng khi phá hủy trên 13.000 tòa nhà cùng vô số tài sản giá
trị.Từ đây đã nảy sinh nhu cầu bảo hiểm hỏa hoạn, và đầu năm 1667, ở nước Anh đã
xuất thành lập công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên.
Từ một loại bảo hiểm ban đầu là bảo hiểm Hàng hải sau đó là bảo hiểm hỏa
hoạn, dần dần, theo nhu cầu của con người đã hình thành thêm rất nhiều hình thúc
bảo hiểm khác như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con người,


10
bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm nông nghiệp…
Bảo hiểm xuất hiện theo nhu cầu của xã hội loài người và do sự tồn tại khách
quan của các rủi ro. Đó là một hình thức phân tán rủi ro áp dụng theo nguyên lý
cộng đồng. Bản chất của bảo hiểm chính là việc cộng đồng người tham gia bảo
hiểm đóng góp để hình thành nên một quỹ chung, từ đó thực hiện chi trả cho những
trường hợp rủi ro xảy ra đối với các thành viên.
Như vậy bảo hiểm ra đời một cách khách quan và do yêu cầu của cuộc sống.
Ban đầu do một nhóm người đứng ra thu phí và nhận trách nhiệm thanh toán bồi
thường cho những người tham gia bảo hiểm trong trường hợp rủi ro, quy mô bảo
hiểm nhỏ và cũng chỉ ở một số lĩnh vực hạn hẹp. Cùng với quá trình phát triển kinh
tế xã hội, để đáp ứng các yêu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng, với độ phức tạp
ngày càng cao, Công ty bảo hiểm ra đời có tổ chức khoa học, chặt chẽ và hoạt động

ngày càng chuyên nghiệp.
Ngày nay, Công ty bảo hiểm được hiểu là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực bảo hiểm, được thành lập, tổ chức, hoạt động theo quy định của pháp
luật và các quy định khác có liên quan đến loại hình kinh doanh bảo hiểm, tái bảo
hiểm, môi giới bảo hiểm...

1.1.2 Phân loại bảo hiểm.
Có rất nhiều cách để phân chia bảo hiểm theo các loại khác nhau.
Phân loại theo đối tượng bảo hiểm.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì các loại hình bảo hiểm được chia làm ba
nhóm: Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
1. Bảo hiểm tài sản là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm, hủy
hoại về vật chất. Khi rủi ro về tài sản xẩy ra như hư hỏng, mất mát, người bảo hiểm
có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào thiệt hại thực tế và
mức độ thỏa thuận bồi thường của hợp đồng bảo hiểm.
2. Bảo hiểm con người: Đối tượng bảo hiểm của loại hình bảo hiểm này là sức
khỏe, tính mạng và thân thể của con người. Người ký hợp đồng bảo hiểm, đóng phí
để khi có sự kiện bảo hiểm xẩy ra với tính mạng, sức khỏe và thân thể của người


11
được bảo hiểm thì người được bảo hiểm hoặc người thân –người thụ hưởng hợp
pháp của người được bảo hiểm được nhận một khoản tiền từ nhà bảo hiểm. Bảo
hiểm con người có thể là bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm bệnh tật.
3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự
là các phát sinh do ràng buộc trong các quy định trong pháp luật dân sự, theo đó
người bảo hiểm phải bồi thường một khoản tiền cho người thứ 3 do hành vi của
mình hoạc do các tài sản của mình do trong quá trình vận hành gây ra. Bảo hiểm
trách nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách
nhiệm công cộng.

Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm:
Theo cách phân loại này các loại hình bảo hiểm được chia làm hai loại: Loại
dựa trên kỷ thuật; phân bổ và loại dựa trên kỷ thuật; tồn tích vốn.
1. Các loại dựa trên kỷ thuật phân bổ: Là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các
rủi ro có tính chất ổn định tương đối theo thời gian và thường độc lập với tuổi thọ
con người nên gọi là bảo hiểm phi nhân thọ. Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là
ngắn hạn dưới 1 năm.
2. Các loại bảo hiểm dựa trên kỷ thuật dồn tích: Là các loại bảo hiểm cho các
rủi ro xẩy ra có tính chất thay đổi thời thời gian và đối tượng và thường gắn liền với
tuổi thọ con người nên thường gọi là bảo hiểm nhân thọ. Các loại bảo hiểm này
thường là trung và dài hạn thường 10, 20 năm hoặc trọn đời.
Phân loại theo tính chất của tiền bảo hiểm trả:
1. Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường: Theo
nguyên tắc bảo hiểm này số tiền bồi thường không bao giờ vượt quá số tiền thiệt hại
thực tế mà người được bảo hiểm phải gánh chịu. Các loại bảo hiểm này gồm; Bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Với loại bảo hiểm này, về nguyên tắc
người mua bảo hiểm không được ký hợp đồng trên giá hoặc bảo hiểm trùng.
2. Các loại bảo hiểm được trả theo nguyên tắc khoán: Người được bảo hiểm sẽ
nhận được số tiền bảo hiểm theo đúng số tiền khoán đã được thỏa thuận trước trên
hợp đồng bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với khả năng đóng phí. Đây chính là bảo


12
hiểm nhân thọ hoặc một số là bảo hiểm tai nạn, bênh tật. Với loại hình bảo hiểm này
về nguyên tắc người mua bảo hiểm có thể cùng lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho
một đối tượng và không bị khống chế số tiền bảo hiểm.
Phân loại theo phương thức quản lý:
Với cách phân loại này các loại bảo hiểm thương mại được chia làm hai loại là
bắt buộc và tự nguyện:
1. Bảo hiểm tự nguyện: là loại bảo hiểm được lập dựa hoàn toàn trên sự cân

nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm
thương mại khi nó đóng vai trò như một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và hoạt
động con người.
2. Bảo hiểm bắt buộc: Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi
ích của các nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích toàn bộ nền kinh tế - xã
hội. Các hoạt dộng nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất tính mạng con người và tài
chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng
của loại hình bảo hiểm bắt buộc này.

1.1.3

Công ty bảo hiểm.

1.1.3.1 Khái niệm Công ty bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm là tổ chức kinh tế độc lập cơ bản của nền kinh tế, có tư cách
pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối đa hóa lợi
nhuận và sự phát triển xã hội.
Theo đó “ Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt
động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp
luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm” (Trích Giáo trình Quản trị kinh doanh
Bảo hiểm Trường ĐH Kinh tế Quốc dân).
Công ty bảo hiểm là loại doanh nghiệp dịch vụ; hoạt động của nó cũng nhằm
mục đích sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa công ty bảo hiểm với các công ty
khác ở chỗ: Công ty bảo hiểm là công ty chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm;
nó có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện bảo hiểm nếu người mua bảo hiêm đóng


13
phí cho công ty.


1.1.3.2 Đặc điểm.
Công ty bảo hiểm có các đặc điểm cơ bản sau:
a. Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành
Cũng như những doanh nghiệp khác, công ty bảo hiểm hoạt động kinh doanh
bình đẳng trong nền kinh tế quốc dân, vì vậy cũng mang đặc trưng của một doanh
nghiệp, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình và trong khuôn khổ
pháp luật. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm là một ngành đặc thù,có những nét đặc trưng
trong nền kinh tế, là một tổ chức kinh doanh đặc biệt, gắn bó mật thiết với quốc kế
dân sinh, giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế nên được nhà nước kiểm soát
hết sức chặt chẽ. Do đó, ngoài việc tuân thủ những quy định của Luật doanh nghiệp
và hệ thống pháp lý chung thì công ty bảo hiểm còn hoạt động dưới sự điều chỉnh
của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này.
Có sự khác nhau giữa công ty bảo hiểm với những doanh nghiệp thuộc loại
hình và ngành nghề kinh doanh khác Nội dung kinh doanh của công ty bảo hiểm là
những nghiệp vụ bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm là một hoạt động kinh doanh có
tính chất giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau dưới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo hiểm
được lập ra bằng cách thu phí bảo hiểm từ những người có nhu cầu tham gia bảo
hiểm để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Sự khác nhau về bản
chất giữa nghiệp vụ bảo hiểm với các nghiệp vụ khác là yếu tố then chốt quyết định
sự khác nhau giữa các công ty bảo hiểm với các doanh nghiệp thuộc loại hình ngành
nghề khác.
b. Công ty bảo hiểm là trung gian tài chính
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có đặc thù riêng đó là sự đảo ngược chu kỳ
kinh doanh. Theo đó phí bảo hiểm được thanh toán trước, những cam kết thanh
toán sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian hoặc cũng có thể không thực hiện
nếu không có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Như vậy, từ việc thu được phí bảo hiểm,
công ty bảo hiểm có trong tay một quỹ tài chính rất lớn. Quỹ này không dùng để



14
chi trả hết ngay nên công ty bảo hiểm có thể sử dụng phần nhàn rỗi này để đầu tư
trở lại nền kinh tế như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng, cho vay hay đầu
tư bất động sản…
Vai trò trung gian tài chính của công ty bảo hiểm còn thể hiện ở việc thông qua
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công ty bảo hiểm có khả năng huy động những
nguồn vốn quy mô nhỏ, đối tượng sở hữu rộng thành những nguồn vốn quy mô lớn,
tập trung; từ những khoản phí bảo hiểm thu định kỳ trong những thời hạn khác nhau
thành những nguồn vốn quy mô lớn được đầu tư theo thời hạn cụ thể thông qua hoạt
động đầu tư.
c. Công ty bảo hiểm thường không vay vốn để kinh doanh bảo hiểm
Không như những doanh nghiệp khác, trước khi tổ chức hoạt động kinh doanh
bao giờ cũng cân đối những nguồn vốn tự có, phần vốn còn thiếu sẽ được huy động
từ những nguồn khác như vay vốn ngân hàng, những tổ chức tín dụng khác… đối
với công ty bảo hiểm, hoạt động vay vốn nhằm mục đích kinh doanh bảo hiểm
thường không xảy ra, trừ một số trường hợp đặc biệt như cần một lượng tiền để
thanh toán bồi thường lớn. Khi mới thành lập, công ty bảo hiểm phải có vốn điều lệ
nhất định không thấp hơn mức vốn pháp định. Thông thường, công ty bảo hiểm
phải ký quỹ một phần vốn điều lệ để đảm bảo khả năng thanh toán. Phần còn lại sẽ
được tích luỹ tại công ty để dùng cho những hoạt động ban đầu và làm cơ sở đảm
bảo cho những hợp đồng bảo hiểm mới. Sau khi những hợp đồng bảo hiểm được
cung cấp, số phí bảo hiểm thu được sẽ trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ theo
quy định và một phần chuyển tái bảo hiểm. Như vậy, khi bắt đầu hoạt động, công ty
bảo hiểm đã có khoản thu từ phí bảo hiểm, là cơ sở để trích lập các quỹ và chi phí
cho hoạt động kinh doanh. Các quỹ này cùng với vốn chủ sở hữu sẽ được phép đầu
tư theo quy định nhằm thu lợi nhuận. Nguồn lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ lợi nhuận của công ty bảo hiểm. Theo thời gian hoạt động, quỹ này sẽ ngày
càng lớn và công ty bảo hiểm trở thành những nhà đầu tư hùng mạnh. Trừ trường
hợp đặc biệt, khi có những tổn thất xảy ra trên diện rộng, hậu quả nghiêm trọng,

toàn bộ quỹ dự phòng của công ty bảo hiểm không gánh vác nổi chi phí bồi thường


15
thì công ty bảo hiểm mới phải vay vốn để bù đắp nhằm đảm bảo những cam kết với
khách hàng. Trường hợp này hầu như không xảy ra trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trên toàn thế giới.
d. Công ty bảo hiểm là pháp nhân có tính chất xã hội và liên hiệp
Công ty bảo hiểm tiếp nhận rủi ro, trách nhiệm với khách hàng rất lớn, vì vậy
trên thế giới không có công ty bảo hiểm của một cá nhân. Bởi vì nếu cá nhân đó gặp
tai nạn, rủi ro thì không có người giải quyết tiếp các trách nhiệm đã nhận. Vì vậy,
công ty bảo hiểm phải là một pháp nhân liên hiệp một số cá nhân để luôn có người
gánh vác trách nhiệm của doanh nghiệp với các khách hàng của họ.
e. Hoạt động của công ty bảo hiểm được nhà nước kiểm soát chặt chẽ
Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm, tới thị trường tài chính và tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân nên
được nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm, định hướng lưu chuyển các quỹ đầu tư và giảm nguy cơ tập trung quyền
lực trong lĩnh vực tài chính.

1.1.3.3. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Công ty bảo hiểm thực hiện các hoạt động chủ yếu sau:
a. Hoạt động bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm gốc và kinh doanh tái bảo hiểm đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động của công ty bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm gốc là hoạt động chính
của công ty bảo hiểm gốc. Đó là việc công ty bảo hiểm chấp nhận thanh toán các
khoản tiền bảo hiểm cho khách hàng khi khách hàng gặp rủi ro trên cơ sở khách
hàng đó thanh toán đầy đủ phí bảo hiểm. Dựa trên cơ sở những điều khoản, điều
kiện hay điều khoản bổ sung trong hợp đồng hai bên sẽ thỏa thuận tỷ lệ phí bảo
hiểm. Đối với bảo hiểm nhân thọ, công ty bảo hiểm sẽ thanh toán cho người được

bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm khi hết hạn hoặc theo những thoả thuận trong
hợp đồng bảo hiểm. Đối với hình thức bảo hiểm phi nhân thọ, khi có rủi ro xảy ra
thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm tương
ứng với tỷ lệ tổn thất trên số tiền bảo hiểm nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm.


16
Kinh doanh bảo hiểm phải luôn bảo đảm hai nguyên tắc “số đông” và “độ tích
tụ rủi ro”. Theo hai nguyên tắc này thì một mặt công ty phải thu hút nhiều khách
hàng cùng tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm để có thể chia sẻ rủi ro cho nhau, mặt
khác tổng mức giữ lại tại một thời điểm của tất cả các hợp đồng bảo hiểm ứng với
số tiền bảo hiểm tương ứng không được vượt quá quy định so với quỹ dự phòng và
vốn kinh doanh của công ty bảo hiểm.
Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động mà công ty bảo hiểm chuyển một phần
hoặc toàn bộ rủi ro đã chấp nhận cho một hay nhiều công ty bảo hiểm khác (nhượng
tái bảo hiểm) và ngược lại, nhận một phần hoặc toàn bộ rủi ro mà một hoặc nhiều
công ty bảo hiểm khác đã chấp nhận (nhận tái bảo hiểm). Thông qua nhận và
nhượng tái bảo hiểm mà một dịch vụ bảo hiểm có thể được chia sẻ cho nhiều công
ty bảo hiểm. Quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty nhận tái bảo hiểm dựa
trên nguyên tắc tín nhiệm và công ty nhận tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận
mọi sự giải quyết của công ty bảo hiểm gốc.
Hoạt động tái bảo hiểm giúp ngoài việc đảm bảo được sự an toàn tài chính còn
giúp cho công ty bảo hiểm mở rộng được mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Bên
cạnh đó, hoạt động tái bảo hiểm cũng làm tăng khả năng chấp nhận dịch vụ của
công ty bảo hiểm vì công ty bảo hiểm dù lớn đến đâu cũng luôn có giới hạn về tài
chính đối với mức độ rủi ro mà họ có thể chấp nhận. Do vậy, nếu không có tái bảo
hiểm thì nhiều dịch vụ sẽ bị từ chối hoặc chỉ được chấp nhận một phần, từ đó ảnh
hưởng đến khả năng hoạt động và hình ảnh của công ty.
Điều cần lưu ý là công ty nhận tái bảo hiểm không có nghĩa vụ kinh tế trực
tiếp đối với người được bảo hiểm gốc. Do đó, trong trường hợp xảy ra tổn thất hoặc

sự kiện bảo hiểm, nếu nhà nhận tái bảo hiểm không thực hiện được nghĩa vụ đối với
công ty bảo hiểm gốc thì công ty bảo hiểm gốc vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh
toán đầy đủ cho người được bảo hiểm. Vì vậy, để hạn chế rủi ro này, công ty bảo
hiểm gốc cần tìm kiếm những nhà nhận tái bảo hiểm lớn, có uy tín trên thị trường.
Trong hoạt động tái bảo hiểm, công ty nhượng tái bảo hiểm sẽ được nhận một
khoản hoa hồng quản lý từ công ty nhận tái bảo hiểm (thường được tính theo tỷ lệ


17
phần trăm của phí tái bảo hiểm) cũng như được quyền nhận tiền bồi thường tái bảo
hiểm từ công ty nhận tái bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn thất, từ đó làm giảm
chi bồi thường của doanh nghiệp. Còn công ty nhận tái bảo hiểm sẽ được nhận phí tái
bảo hiểm theo tỷ lệ đã nhận tái bảo hiểm và có nghĩa vụ phải chi trả bồi thường theo
tỷ lệ đó khi xảy ra tổn thất hoặc sự kiện bảo hiểm cho công ty nhượng tái bảo hiểm.
Trong một công ty bảo hiểm, hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cũng là một
khoản thu đối với công ty, nhưng ngược lại khi hoa hồng nhượng tái bảo hiểm càng
lớn cũng chứng tỏ lượng phí bảo hiểm chuyển đi cho công ty bảo hiểm khác càng
lớn, phí giữ lại tại công ty càng nhỏ. Mỗi công ty bảo hiểm cần căn cứ vào khả năng
tài chính của mình cũng như điều kiện của từng đơn bảo hiểm mà tính toán tỷ lệ tái
bảo hiểm thích hợp.
b. Hoạt động đầu tư
Đặc điểm kinh doanh bảo hiểm là thu phí bảo hiểm trước và thực hiện trách
nhiệm giao kết trong hợp đồng sau, vì vậy công ty bảo hiểm luôn có một nguồn vốn
nhàn rỗi tạm thời khá lớn trong một khoảng thời gian xác định định từ lúc thu phí
bảo hiểm đến lúc nghĩa vụ thanh toán được thực hiện với khách hàng. Đây chính là
tiền đề cho việc thực hiện hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm.
Nội dung hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm bao gồm : quản lý quỹ đầu tư
hình thành từ vốn chủ sở hữu và các quỹ dự phòng nghiệp vụ sao cho thu chi đúng
nguyên tắc, hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất mà vẫn đảm bảo an toàn tài chính
cũng như khả năng thanh toán của công ty.

Một công ty bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực đa dạng như cổ
phiếu, trái phiếu, bất động sản, cho vay, góp vốn liên doanh… theo quy định của
pháp luật. Việc đầu tư vốn nhàn rỗi vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của các
công ty bảo hiểm. Qua quá trình hoạt động cho thấy, hầu hết lợi nhuận của các công
ty bảo hiểm được hình thành từ hoạt động đầu tư. Do đó có thể nói, hoạt động đầu
tư có tầm quan trọng quyết định đối với hoạt động kinh doanh của bất cứ công ty
bảo hiểm nào.

1.1.3.4 Các hoạt động khác của Công ty bảo hiểm.


18
Ngoài hai hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư, công ty bảo hiểm
còn thực hiện các dịch vụ đại lý như giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường,
yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%.
Trong hoạt động này, công ty bảo hiểm thực hiện các dịch vụ giám định
nguyên nhân và mức độ tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ 3
bồi hoàn, xử lý tài sản bị tổn thất toàn bộ… thay cho các cá nhân, tổ chức khi công
ty nhận được sự uỷ quyền của cá nhân, tổ chức khác. Từ đó, các cá nhân, tổ chức
sẽ trả cho công ty một khoản phí gọi là phí đại lý và làm tăng thu nhập công ty.
Cũng nhờ những hoạt động này mà công ty có thể cải thiện chất lượng dich vụ,
củng cố niềm tin của khách hàng cũng như nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh
của công ty.
Như vậy, các hoạt động của công ty bảo hiểm có mối quan hệ hết sức mật
thiết, tác động thúc đẩy lẫn nhau. Các dịch vụ đại lý giám định tổn thất, xét giải
quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn … giúp cho hoạt động kinh doanh
bảo hiểm diễn ra nhanh chóng, chính xác, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.
Mặt khác, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là kênh chính thu hút vốn cho hoạt động
đầu tư. Đến lượt mình, hoạt động đầu tư tạo ra lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh
cho công ty, giảm phí bảo hiểm, tăng chi phí đề phòng hạn chế tổn thất,... tạo điều

kiện cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển. Để trở thành một công ty bảo
hiểm lớn, có uy tín trên thị trường, các công ty bảo hiểm cần quan tâm đúng mức tới
các hoạt động này để chúng hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau.

1.1.4. Vai trò của công ty bảo hiểm trong nền kinh tế
Với những hoạt động trên, các công ty bảo hiểm đã thể hiện một vai trò hết
sức quan trọng đối với mỗi cá nhân, gia đình cũng như toàn xã hội.
- Đối với mỗi cá nhân và gia đình: Các công ty bảo hiểm góp phần khắc phục
những hậu quả tài chính mà những rủi ro có thể mang lại, qua đó sẽ ổn định cuộc
sống, mang lại cảm giác yên tâm cho các cá nhân tham gia. Khoản tiền bảo hiểm trả
cho mỗi cá nhân sẽ giúp giảm nhẹ gánh nặng tài chính, dễ dàng hơn trong việc xử lý
hậu quả của tai nạn, rủi ro, từ đó làm tăng khả năng gánh chịu rủi ro, kể cả những


19
rủi ro quá lớn vượt quá khả năng chịu đựng của mỗi cá nhân, gia đình.
- Đối với nền kinh tế: Công ty bảo hiểm giúp đỡ các cá nhân, tổ chức tham gia
bảo hiểm khắc phục, giảm thiểu những hậu quả tài chính mà họ có thể gặp phải.
Đầu tiên, công ty bảo hiểm giúp các công ty khắc phục hậu quả khi xảy ra rủi ro,
nhằm ổn định tài chính, không làm gián đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc tham gia bảo hiểm giúp cho chủ công ty chuyển giao được một phần rủi ro
nhất định sang cho công ty bảo hiểm, từ đó công ty sẽ mạnh dạn hơn trong việc đầu
tư vào sản xuất kinh doanh, làm tăng sản lượng hàng hoá, giảm thất nghiệp, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm cũng góp phần vào việc hạn chế rủi ro. Công
tác đề phòng, hạn chế tổn thất là hoạt động quan trọng, không thể thiếu đối với các
công ty bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm yêu cầu các công ty bảo hiểm
phải thực hiện nghiên cứu rủi ro, thống kê tai nạn, tổn thất, xác định nguyên nhân,
từ đó đề xuất các biện pháp kiểm soát, giảm thiểu rủi ro, nhờ vậy làm giảm chi phí
bồi thường của công ty, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đồng

thời mang lại hiệu quả về mặt xã hội.
Chính vì vậy các công ty bảo hiểm luôn sử dụng một phần chi phí đáng kể
nhằm trợ giúp, tư vấn, hướng dẫn cho các khách hàng tham gia bảo hiểm về các biện
pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro, cũng như hỗ trợ xây dựng các công trình nhằm
giảm thiểu rủi ro có thẻ xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm, qua đó góp phần làm hạn
chế các tổn thất có thể xảy ra cho mỗi cá nhân, công ty cũng như toàn xã hội.
Không chỉ các ngân hàng, các công ty bảo hiểm cũng là nhân tố đóng vai trò là
những trung gian tài chính quan trọng. Hoạt động bảo hiểm góp phần thúc đẩy hoạt
động tiết kiệm, nhờ đó tập trung được nguồn vốn, đáp ứng một phần các nhu cầu về
vốn trong xã hội. Đầu tiên, bảo hiểm hình thành nên thói quen tiết kiệm của các cá
nhân, chủ hộ gia đình và chủ công ty nhờ việc giành ra một phần thu nhập để đảm
bảo cho sự an toàn hơn trong tương lai. Từ các nguồn phí bảo hiểm thu được từ
những loại hình bảo hiểm đa dạng, các công ty bảo hiểm có thể tập trung được một
nguồn vốn khá lớn góp phần vào hoạt động đầu tư. Bên cạnh quá trình thực hiện


20
đầu tư, các công ty bảo hiểm có thể cho vay đối với chính phủ, các tổ chức quốc tế,
cung cấp vốn cho các tổ chức tài chính, các công ty,… qua việc cho vay trực tiếp
hoặc mua trái phiếu, cổ phiếu do các tổ chức này phát hành thực hoặc đầu tư trực
tiếp vào tài sản. Qua đó, công ty bảo hiểm không những đưa lại lợi nhuận cho bản
thân mà còn trợ giúp tài chính cho các tổ chức, công ty, góp phần kích thích nền
kinh tế phát triển.
Về phía chính phủ, các công ty bảo hiểm luôn là một nguồn thu lớn cho ngân
sách quốc gia. Mặt khác các công ty bảo hiểm cũng đóng vai trò là đối tác cho vay
quan trọng của chính phủ qua việc mua một lượng lớn trái phiếu chính phủ hằng
năm. Nhờ những nguồn vốn này mà chính phủ có thể triển khai các công trình kinh
tế trọng điểm một cách dễ dàng, nhanh chóng hơn. Qua thời gian, với sự phát triển
không ngừng các công ty bảo hiểm đã thể hiện được vị thế của mình, góp phần tạo
ra một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, bao gồm cả các cán bộ kinh

doanh trực tiếp, các bộ quản lý và các đại lý bảo hiểm. Vào năm 1999, ở Bắc Mỹ,
khoảng hơn 1690 công ty bảo hiểm nhân thọ đã cung cấp việc làm cho gần 2,3 tỷ
người. Không chỉ quan tâm đến hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm cũng
quảng bá, khuếch trương thương hiệu của minh bằng cách trở thành nhà tài trợ lớn
cho các hoạt động văn hoá, thể thao, các hoạt động xã hội từ thiện. Không chỉ phục
vụ cho lợi ích của công ty, những hoạt đông này cũng đóng góp tích cực cho xã hội.
Như vậy, nhìn chung công ty bảo hiểm đã thể hiện vai trò rất to lớn của mình
đối với toàn xã hội. Không chỉ giúp các cá nhân ổn định cuộc sống, yên tâm cho
tương lai, giảm bớt rủi ro cho hoạt động sản xuất của các công ty, giúp các công ty
ổn định sản xuất kinh doanh, mà họ còn đóng góp một phần khá lớn vào nguồn thu
ngân sách nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế,
thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

1.2. Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
1.2.1. Sự cần thiết và vai trò của hoạt động đầu tư trong công ty bảo hiểm
Về bản chất, hoạt động bảo hiểm có tính chất hoàn trả nghĩa là các công ty bảo


21
hiểm thanh toán bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng khi khách hàng
tham gia bảo hiểm. Nhưng thông thường lượng tiền góp của khách hàng không phải
sử dụng để chi trả ngay, vì vậy nó tạo cho công ty một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
từ lúc thu phí bảo hiểm đến khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán với khách hàng.
Nguồn vốn đó tạo cơ hội cho công ty thực hiện các hoạt động đầu tư. Hoạt động
đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với công ty bảo hiểm nói riêng và với
toàn nền kinh tế nói chung.

1.2.1.1 Đối với công ty bảo hiểm
Có thể nói hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm luôn đóng vai trò hết

sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty bảo hiểm cũng như sự
phát triển kinh tế chung. Ngày nay, trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, các công ty
bảo hiểm phải cập nhật một biểu phí cạnh tranh với phạm vi bảo hiểm ngày càng
được mở rộng và thu nhập từ hoạt động đầu tư dần trở thành cơ sở để trang trải các
khoản chi phí và là nguồn gốc chính sản sinh lợi nhuận của công ty. Ở các nước
phát triển, trên 70% tổng lợi nhuận trước thuế của công ty bảo hiểm là lợi nhuận từ
hoạt động đầu tư.
Khả năng cạnh tranh của công ty bảo hiểm phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả hoạt
động đầu tư. Bên cạnh chính sách dịch vụ (thuờng là mối quan tâm hàng đầu ở các
khách hàng truyền thống) thì chính sách phí lại đóng vai trò quan trọng trong việc
thu hút các khách hàng mới. Một trong những điều kiện quan trọng để có khả năng
thực hiện giảm phí nhằm thu hút khách hàng là công ty bảo hiểm phải có những
biện pháp đầu tư hợp lý để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với các công ty bảo hiểm, nếu muốn giảm chi phí, mở rộng phạm vi bảo
hiểm, thanh toán bồi thường, trang trải các chi phí hoạt động đều phải phụ thuộc
vào lợi nhuận của hoạt động đầu tư.
Đầu tư gắn liền với hoạt động của các công ty bảo hiểm nhân thọ từ thiết kế
sản phẩm , tính phí , công bố cổ tức hay các lợi ích khác cho cổ đông và nó đóng
một vai trò nhất định trong quan hệ với khách hàng. Thông qua hoạt động đầu tư,
công ty bảo hiểm cũng có thể xây dựng, thắt chặt thêm các mối quan hệ với các


22
khách hàng, từ đó góp phần mở rộng quy mô hoạt động của công ty. Ví dụ như qua
việc cho một tổ chức nào đó vay tiền, hoặc góp vốn vào một công ty, công ty bảo
hiểm sẽ có thể thực hiện khai thác bảo hiểm tại các công ty, tổ chức đó. Qua đó làm
tăng quy mô phí bảo hiểm cũng như quy mô nguồn vốn có thể đầu tư.
Hoạt động đầu tư cũng giúp các công ty bù đắp sự mất giá của đồng tiền, bảo
toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát.


1.2.1.2 Đối với xã hội
Cũng như ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác…, công ty bảo
hiểm cũng đóng vai trò là trung gian tài chính cung ứng tài chính cho thị trường
vốn. Xuất phát từ đặc điểm của công ty bảo hiểm nhân thọ ở trên ta thấy công ty
bảo hiểm có trong tay một quỹ taì chính rất lớn , nhưng trách nhiệm bồi thường của
các công ty này lại không phát sinh ngay mà thường kéo dài . Do tập trung được
nguồn vốn từ các khách hàng tham gia bảo hiểm, bao gồm cả các khách hàng lớn
quan trọng là những pháp nhân đến những khách hàng nhỏ lẻ là những thể nhân,
công ty bảo hiểm tích cực đầu tư toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế
bao gồm từ đầu tư bất động sản, tham gia các hoạt động mua bán tín phiếu, trái
phiếu, cổ phiếu, gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu tư kinh doanh vào các dự án mang
tính chiến lược của nền kinh tế. Qua hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm, việc
tập trung, huy động, lưu chuyển và sử dụng vốn của nền kinh tế được trở nên linh
hoạt và hiệu quả hơn.

1.2.2 Nguồn vốn đầu tư của công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm được huy động vốn đầu tư chủ yếu từ hai nguồn cơ bản
là vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ tự
nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng
để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại của công ty. Nguồn vốn này không phải chịu
sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật nên công ty có thể sử dụng để đầu tư dài hạn
vào các lĩnh vực có tỷ suất sinh lợi cao. Đây chính là một nguồn quan trọng để thực
hiện các nghĩa vụ thanh toán cho khách hàng trong trường hợp công ty làm ăn


×