Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 125 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để hướng
tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao động có
thu nhập, vừa tạo điều kiện để phát triển nhân cách và lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam, với đặc điểm dân số đông, trẻ, nên có nguồn lao động
phong phú, dồi dào. Đặc điểm đó là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội
của chúng ta, song đồng thời nó cũng luôn tạo ra sức ép về việc làm cho toàn
xã hội. Vì vậy, quan tâm giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người lao
động luôn là một trong những giải pháp về phát triển xã hội và là chỉ tiêu định
hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã đề ra.
Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu
thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, lao động Việt Nam có
nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm. Người lao động có thể vươn lên nắm bắt
tri thức và tự do làm giàu bằng tri thức của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó
cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động Việt Nam: đó là yêu cầu
về chất lượng nguồn lao động. Người lao động không biết nghề, hoặc biết
không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, kinh nghiệm
các nước cho thấy, khi hội nhập WTO, ngành dễ bị tổn thương nhất là nông
nghiệp, nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nông dân. Chính vì vậy, quan
tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn vẫn luôn
là vấn đề mang tính cấp bách.
Ở Hà Tĩnh hiện nay, số người thất nghiệp còn đông, nhất là ở khu vực
nông thôn. Năm 2004, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng


2
lao động ở khu vực nông thôn là 76,33%. Năm 2005, Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà


Tĩnh khóa XVI đã nhận định: "tỷ lệ người lao động thiếu việc làm còn cao so
với mức bình quân chung của cả nước". Do vậy, vấn đề tạo việc làm và ổn
định việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Chính vì vậy, vấn đề "Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà
Tĩnh" được lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, với hy vọng
đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
Hà Tĩnh, đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của địa phương và trên phạm vi cả
nước.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho lao động nông thôn nói
riêng từ trước đến nay đã được nhiều người quan tâm dưới nhiều góc độ khác
nhau. Ở nước ta, từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay có nhiều tác giả
đã có những công trình bài viết xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như:
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở
Việt Nam, GS.TS Đỗ Thế Tùng,Tạp chí Lao động và công đoàn số 6, 2002.
- Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, TS. Nguyễn Hữu Dũng TS. Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, Vũ Đình Thắng, Tạp chí
Kinh tế phát triển, số 13, 2002.
- Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn phát triển 2001-2005, Bùi Văn Quán, Tạp chí Lao động và xã hội,
số CĐ3, 2001.
- Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay, Đỗ Minh Cương, Nông
thôn mới, số 91, 2003.


3
- Làm thế nào để đẩy mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông
thôn, Đặng Đình Hải - Nguyễn Ngọc Thụy, Tạp chí Lao động và xã hội, số
259, tháng 3-2005.

- Giải quyết việc làm sử dụng hợp lý nguồn nhân lực ở nông thôn hiện
nay, Vũ Văn Phúc, Châu Á - Thái Bình Dương, số 42, 2005.
- Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Lê Văn Bảnh,
Tạp chí Lao động và xã hội, số 218, 2003.
Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm
ở các tỉnh như Lạng Sơn, Kiên Giang, Bắc Ninh và việc làm cho lao động nữ
ở Hà Tĩnh… Song cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ vấn đề việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn ở Hà Tĩnh; phân tích thực trạng và trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
Hà Tĩnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ vấn đề việc làm; việc làm của người lao động nông thôn; sự
cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn để làm cơ sở đưa ra những giải pháp nhằm
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn Hà Tĩnh từ 2001 - 2005.
- Nêu những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết có hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giải quyết việc làm cho

người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm và giải quyết việc làm
cho người lao động ở nông thôn ở Hà Tĩnh từ 2001-2005; đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà
Tĩnh từ nay đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong các văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khóa
và các văn kiện Đại hội tỉnh đảng bộ Hà Tĩnh các khóa xung quanh vấn đề này.
Ngoài ra, luận văn có kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và số liệu
thống kê của một số công trình có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình nghiên cứu; đồng thời luận văn
còn sử dụng các phương pháp khác như: hệ thống, tổng hợp, thống kê, so
sánh, phân tích, khái quát để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Làm rõ vấn đề việc làm nói chung và việc làm của người lao động
nông thôn nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh từ 2001 đến nay.


5
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy môn Kinh tế chính trị.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 7 tiết.


6
Chương 1
VIỆC LÀM VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
1.1. VẤN ĐỀ VIỆC LÀM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA

1.1.1. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.1. Khái niệm về việc làm
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã
hội loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới
xung quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi xã
hội phát triển, những hoạt động lao động sản xuất nói chung ấy, được phân
chia thành những ngành nghề cụ thể khác nhau và người lao động được làm
việc trong những lĩnh vực phù hợp với khả năng của mình. Mỗi người tham
gia lao động sản xuất với một việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống
bản thân và đóng góp cho xã hội.
Việc làm trước hết là biểu hiện của hoạt động lao động sản xuất ở mỗi
người lao động. Nếu lao động là hoạt động của xã hội nói chung, phản ánh
bản chất của con người nói chung thì việc làm là hoạt động lao động cụ thể
của mỗi người lao động tham gia vào quá trình lao động xã hội chung đó.
Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối quan hệ giữa người
lao động với giới tự nhiên. Bởi vì để làm việc người lao động cũng phải sử
dụng sức thần kinh cơ bắp của mình cùng với công cụ lao động, tác động một
cách có ý thức, có mục đích lên đối tượng lao động, biến những vật thể tự

nhiên thành của cải phục vụ nhu cầu con người. Chính vì vậy, việc làm cũng
chịu tác động bởi những qui luật và điều kiện tự nhiên.


7
Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến những yếu tố người lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động. Người lao động với kỹ năng chuyên
môn của mình, kết hợp với tư liệu sản xuất, hoạt động trong một lĩnh vực nhất
định của cơ cấu kinh tế xã hội, chính là việc làm của anh ta. Người lao động
có việc làm là người giữ một vị trí trong cơ cấu chung đó. Vì vậy, việc làm
cũng chịu tác động của các qui luật kinh tế, xã hội.
Như vậy, việc làm cũng như lao động của con người nói chung thể hiện
mối quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên, giữa những người lao
động với nhau và với xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý
trong đó lao động diễn ra. Lao động là phạm trù vĩnh viễn của xã hội loài
người, thì việc làm không phải như vậy. Xét trên tổng thể có những nơi,
những lúc có hiện tượng người lao động không có việc làm trong khi hoạt
động lao động sản xuất của con người không bao giờ ngừng lại. Việc làm nói
lên mối quan hệ của con người với chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã
hội cần thiết mà trong đó một quá trình lao động cụ thể được diễn ra. Nói đến
việc làm là nói đến công việc của người lao động với những ngành nghề, công
việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể của người lao động, đáp ứng nhu cầu
xã hội, nhu cầu cá nhân của người lao động.
Tóm lại, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc
làm là phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế xã hội. Trên khía cạnh
xã hội, việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong
những giới hạn nhất định, trong đó quá trình lao động được diễn ra, là cơ sở
để các mối quan hệ xã hội tồn tại trong mối liên hệ đan xen, liên kết với nhau
phát triển theo hướng lành mạnh. Trên khía cạnh kinh tế việc làm thể hiện

mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người
và yếu tố vật chất trong lao động sản xuất.


8
Vấn đề việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Đó là công việc
của mỗi cá nhân nhưng lại gắn liền với xã hội. Có việc làm, không những
người lao động có thu nhập nuôi sống bản thân mà còn tạo ra một lượng của
cải cho xã hội. Mác đã nói: “Với những điều kiện khác không thay đổi thì
khối lượng và giá trị của sản phẩm tăng lên theo tỷ lệ thuận với số lượng lao
động được sử dụng” [32, tr.75].
Việc làm là một vần đề có ý nghĩa kinh tế xã hội và chính trị quan trọng
của một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong những yếu
tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và xu thế
chủ động hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta hiện nay đang tạo ra những cơ
hội và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động. Chính vì vậy
nhận thức đúng đắn về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý luận để đưa
ra những giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn lực lao động
của xã hội.
Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm của người lao động thường do nhà
nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc làm
được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp của nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với
quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hội
không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không
đầy đủ. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao động khi
họ cần việc làm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, quan niệm trên
về việc làm đã thay đổi. Quan điểm mới về việc làm được thể hiện ở Luật lao
động của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2002. Điều 13,

chương 2 (việc làm) của Luật qui định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ”.


9
Từ qui định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về việc làm: Việc làm
là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không vi phạm
pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm
trên đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở ra một thị
trường việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện mục
tiêu giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, địa
phương và trong một thời kỳ nhất định người ta còn quan tâm đến các vấn đề
việc làm đầy đủ và thiếu việc làm.
Việc làm đầy đủ có thể hiểu là sự thỏa mãn nhu cầu về việc làm của
người lao động. Mọi người lao động có nhu cầu việc làm đều có thể tìm được
việc làm một cách nhanh chóng. Tuy nhiên mức độ đảm bảo việc làm cho
người lao động còn tùy thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể
của mỗi nước.
Ví dụ: ở Đan Mạch thời gian trung bình mà một người phải đổi để được
giới thiệu một việc làm mới là 14 tuần, ở Đức là 15 tuần.
Đối với nước ta, đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động đang là
một khó khăn và khả năng tạo mở việc làm của nền kinh tế chưa lớn. Chúng
ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ kỹ thuật, tay
nghề của công nghiệp hóa. Chình vì vậy thiếu việc làm đầy đủ cả vô hình và

hữu hình là hiện tượng phổ biến trong xã hội.


10
Thiếu việc làm vô hình là sự phân bổ không hợp lý giữa sức lao động
và các yếu tố khác của sản xuất. Công việc chưa phát huy hết khả năng của
người lao động. Trong trường hợp này, người lao động vẫn có việc làm nhưng
anh ta phải làm những việc ở những nơi mà năng suất lao động thấp hơn mức
trung bình, thu nhập từ việc làm mang lại thấp hơn mức trung bình.
Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng người lao động không có đủ khối
lượng việc làm trong ngày công lao động và phải đi tìm việc khác hay nhận
việc làm bổ sung. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở nông thôn nhất là trong
những ngày tháng nông nhàn.
Như vậy, thiếu việc làm là tình trạng người lao động không có đủ việc
làm theo thời gian qui định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công
việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu làm việc
thêm để tăng thu nhập.
Mục tiêu giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đủ cho người
lao động và cao hơn nữa, phải tạo ra việc làm được tự do lựa chọn để thực
hiện giải phóng triệt để sức lao động.
Việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc
làm cho người lao động. Nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao
động mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do
lựa chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất.
Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển
phong phú đời sống tinh thần.
Tóm lại, giải quyết việc làm không chỉ dừng lại việc làm đầy đủ cho
mọi người lao động mà phải không ngừng nâng cao chất lượng việc làm, việc
làm có giá trị cao, việc làm được tự do lựa chọn và việc làm mang tính nhân



11
văn để lao động không chỉ là phương tiện để sinh sống mà còn là nhu cầu đầu
tiên của mỗi người.
1.1.1.2. Khái quát về thất nghiệp
Thực hiện việc làm đầy đủ, tiến tới việc làm được lựa chọn cho người
lao động là một quá trình phát triển lâu dài. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN tất yếu tồn tại vấn đề thất nghiệp.
Thất nghiệp là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tách rời sức lao động
với tư liệu sản xuất. Trong đó người lao động có khả năng lao động nhưng
không có việc làm nên không có thu nhập. Thất nghiệp phản ánh trạng thái
căng thẳng của người lao động và gia đình anh ta trước nguy cơ mất nguồn
nuôi dưỡng chủ yếu.
Thất nghiệp có nhiều loại. Có thể thất nghiệp là do người lao động tự
nguyện bỏ việc, có thời gian tìm việc làm mới, phù hợp với khả năng và sở
thích của mình. Trong nền kinh tế có đầy đủ việc làm vẫn luôn có sự di
chuyển đó của lao động cho nên đó là sự thất nghiệp tạm thời.
Loại thứ hai là thất nghiệp do cơ cấu. Đây là tình trạng không phù hợp
giữa ngành nghề chuyên môn và nghiệp vụ của dân cư lao động với qui trình
công nghệ sản xuất, với công cụ và phương tiện lao động cũng như các
phương pháp và đối tượng gia công, dẫn đến mức cầu đối với một loại lao
động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác giảm
đi trong khi mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. Mác nói:
…Trong tất cả các lĩnh vực sự tăng lên của bộ phận khả biến
của tư bản do đó sự tăng thêm số công nhân đã có việc làm, bao giờ
cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra
số nhân khẩu thừa tạm thời, không kể là việc này mang hình thức
nổi bật là gạt bỏ những công nhân đã có việc làm hay là mang hình
thức ít rõ rệt hơn nhưng không kém phần hiệu lực là thu nạp một



12
cách khó khăn số nhân khẩu công nhân phụ thêm vào những rãnh
thoát thông thường của nó [30, tr.159].
Đó là sự mất cân đối trong các nghề nghiệp hoặc trong những vùng do
một số lĩnh vực phát triển hơn so với một số lĩnh vực khác.
Thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp gắn với sự suy giảm theo từng thời
kỳ của nền kinh tế. Thông thường khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ thu hút nhiều
lao động nhưng khi nền kinh tế suy yếu, khủng hoảng thì đội quân thất nghiệp
sẽ tăng lên và tăng với qui mô lớn hơn trước. Tuy nhiên điều đó còn phụ
thuộc vào sự đóng góp của các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có sức lao động
chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Vấn đề thất nghiệp không chỉ là mối quan tâm của các thành viên trong
xã hội mà còn là mối quan tâm của mọi chính phủ. Tỷ lệ thất nghiệp là một
trong các chỉ tiêu đánh giá tình trạng của một nền kinh tế. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan. Người ta chỉ
có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên chứ không xóa bỏ
được nó.
1.1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động
Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi con người vừa
là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Chính vì vậy,
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những chỉ
tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đề ra.
Mục tiêu của chính sách lao động việc làm của Đảng là hướng vào giải
phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao động, khơi
dậy tiềm năng của mỗi người và của cả cộng đồng dân tộc, coi trọng giá trị
sức lao động, mở rộng cơ hội cho mọi người cùng phát triển.



13
Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI (năm 1986) Đánh dấu bước
chuyển biến trong nhận thức và quan niệm về vấn đề việc làm của Đảng. Đại
hội xác định: “Nhà nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người
lao động tự tạo ra việc làm” [19, tr.87-88]. Đây là khâu đột phá có tính cách
mạng trong lĩnh vực việc làm ở nước ta: Nhà nước không bao cấp toàn bộ về
việc làm mà chuyển dần sang Nhà nước kết hợp với người lao động, gia đình
và xã hội tạo việc làm cho người lao động.
Để quán triệt quan điểm đó, Đảng và nhà nước ta đã ban hành hệ thống
các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần; Tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và
phát triển đời sống của người lao động. Quyết định số 136/HĐBT ngày
9/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là mốc có tính lịch sử
nhằm giải quyết việc làm cho gần 1 triệu lao động dôi dư do sắp xếp lại tổ
chức sản xuất khu vực nhà nước, chuyển ra ngoài làm việc.
Đến đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, lần đầu tiên Đảng ta đã
đưa ra phương hướng cơ bản và toàn diện về giải quyết việc làm phù hợp với
thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường:
Coi trọng cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giải quyết việc làm tại
chỗ với phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới,
hình thành các cụm kinh tế - kỹ thuật, dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ
đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động, đa dạng hóa việc làm có thu nhập để thu hút
lao động [20, tr.76].
Đặc biệt Đảng ta đã chỉ rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm,
coi đó là “Trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi thành
phần kinh tế, của từng gia đình, từng người ” [20, tr.77]. Quan điểm trên của
Đảng đã góp phần xã hội hóa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động thực
hiện quyền lao động và quyền có việc làm của người lao động theo qui định của

hiến pháp năm 1992.


14
Nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc
làm đã thể chế hóa những quan điểm đổi mới cơ bản đó của Đảng về việc làm
trong cơ chế thị trường như: Đa dạng hóa việc làm và đa dạng hóa thu nhập,
giải phòng sức lao động trên cơ sở tự do hóa trong lao động; Thực hiện các
chương trình quốc gia về việc làm và lập quĩ quốc gia về giải quyết việc làm.
Đặc biệt từ ngày 1/1/1995, Bộ luật lao động đầu tiên của nước ta bắt đầu có
hiệu lực, quan điểm, chủ trương, chính sách và cơ chế vê vấn đề việc làm của
Đảng được thể chế hóa một cách có hệ thống, đồng bộ tạo ra hành lang pháp lý
để phát triển việc làm trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) Vấn đề việc làm
trong cơ chế thị trường đã được nhận thức rõ hơn và phát triển lên như một tầm
cao mới. Đại hội xác định: “Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều
kiện cho mọi người tự mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm” [21, tr.114]. Lần
đầu tiên, những phác thảo quan trọng của thị trường lao động định hướng
XHCN đã được vạch rõ: “Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê
mướn nhân công theo pháp luật,phát triển dịch vụ việc làm” [21, tr.15]. Ngày
1/7/1998 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 126/1998/QĐ-TTg
về việc quyết định chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000.
Mục tiêu cơ bản của chương trình là:
Tạo việc làm mới, đảm bảo việc làm cho người có khả năng lao động, có
yêu cầu việc làm thực hiện các biện pháp trợ giúp người thất nghiệp nhanh
chóng có được việc làm, người thiếu việc làm, có đủ việc làm đặc biệt có
chính sách hỗ trợ giúp cụ thể các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động
[4, tr.57].



15
Chương trình đưa ra những chỉ tiêu cụ thể đến năm 2000 là mỗi năm
thu hút từ 1,3 đến 1,4 triệu chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
xuống còn 5% nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%.
Đặc biệt đến đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đảng và nhà nước
xác định rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm và thấy rõ mối quan
hệ giữa giải quyết việc làm và phát huy nhân tố con người. Đại hội khẳng định:
“Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia Bằng nhiều biện pháp, hàng năm tạo ra hàng triệu việc làm mới, tận dụng số
ngày công lao động chưa được sử dụng đến nhất là trên địa bàn nông nghiệp,
nông thôn ” [22, tr.201] và đưa ra những giải pháp cơ bản giải quyết việc làm
cho người lao động như: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh tạo
nhiều việc làm, phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động...
Như vậy, đến đại hội IX của Đảng vấn đề việc làm đã được nhận thức sâu sắc và
toàn diện trong mối quan hệ với các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Chính
sách việc làm phải nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người Việt Nam, với trí
tuệ và truyền thống của dân tộc đó là nguồn lực chính của sự phát triển đất
nước.
Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:
Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội
để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động
tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều
lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những
nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Phát
triển các dịch vụ phục vụ đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp.
Tiếp tục thực hiện chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỷ lệ lao động xuất


16

khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người lao động [22, tr. 213, 216].
1.1.2. Lực lượng lao động và việc làm của người lao động ở nông thôn
1.1.2.1. Đặc điểm cơ bản của lực lượng lao động ở nông thôn
Lực lượng lao động ở nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động
cả nước sinh sống và làm việc tại khu vực nông thôn. Cũng như lực lượng lao
động chung của cả nước, lực lượng lao động ở nông thôn (hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế) ở nông thôn là bộ phận dân số có độ tuổi từ 15 tuổi trở
lên có việc làm hay không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động ở nông thôn của nước ta có những đặc điểm sau:
Một là, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta hiện nay đang chiếm tỷ
trọng lớn trong lực lượng lao động cả nước và tăng với qui mô lớn so với lực
lượng lao động ở thành thị. Từ năm 2001 - 2005, lực lượng lao động ở nông
thôn tăng với qui mô 587 nghìn người / năm với tốc độ tăng 1,9%. Năm 2005
tổng lực lượng lao động ở nông thôn là 33.313,9 nghìn người, chiếm 75,1%
lực lượng lao động cả nước. Như vậy lực lượng lao động hiện nay ở nước ta
phần lớn là ở nông thôn và hàng năm khu vực này lại được tiếp nhận một lực
lượng lao động trẻ, có sức khỏe và trình độ văn hóa, rất dễ dàng trong việc
tiếp thu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, góp phần phát
triển kinh tế khu vực nông thôn, là nguồn lực to lớn cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên lực lượng lao
động ở nông thôn gia tăng sẽ tạo sức ép việc làm ở khu vực nông thôn. Bởi vì
lực lượng lao động tăng lên trong khi đất canh tác lại giảm dần do quá trình
đô thị hóa, dẫn đến diện tích canh tác trên đầu người giảm, thời gian sử dụng
ngày công trong nông nghiệp thấp, người lao động phải làm những công việc
có thu nhập thấp gây ra hiện tượng thiếu việc làm ở nông thôn.


17
Hai là, lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay đang chuyển dịch theo

hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng tỷ trọng trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Trên phạm vi cả nước từ 2001 đến 2005, tỉ
trọng lao động làm việc trong khu vực I (Nông, Lâm, Thủy sản) giảm từ
62,6% năm 2000 xuống còn 56,8% năm 2005, bình quân hàng năm giảm gần
1,2%. Tỉ trọng lao động làm việc trong khu vực II (công nghiệp) tăng từ
13,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005, bình quân hàng năm tăng gần 1%. Tỉ
trọng lao động làm việc trong khu vực III (dịch vụ) tăng từ 24,3% năm 2000
lên 25,3% năm 2005, bình quân hàng năm tăng 0,2% [9, tr.3]. Lao động ở
nông thôn cũng không nằm ngoài xu hướng vận động chung đó. Đặc biệt từ
khi thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng, người lao động ở nông thôn đã
có sự độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nền sản xuất nông thôn đã có
sự chuyển hướng từ thuần nông, tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, ai giỏi
nghề gì làm nghề ấy, đa dạng nhiều ngành nghề. Ngoài trồng trọt, chăn nuôi
người lao động có thể làm việc trong các ngành nghề khác tại các xí nghiệp
vừa và nhỏ tại địa phương.
Dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình
chuyển dịch về cơ cấu lao động trên càng được thúc đẩy nhanh chóng. Việc
ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, một mặt đã tạo ra nhiều ngành
nghề ở địa phương, kéo theo sự xuất hiện của nhiều loại hình dịch vụ có khả
năng thu hút lao động lớn. Mặt khác, do ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất, năng suất lao động của nông nghiệp sẽ không ngừng tăng lên, vai trò
quan trọng của nông thôn là cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn dân,
cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp ngày càng được đảm bảo cho phép
giải phóng lao động nông nghiệp sang làm các ngành nghề khác. Như vậy,
song song với quá trình rút lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp cũng đồng
thời diễn ra quá trình thu hút lực lượng lao động ở nông thôn vào các ngành


18
công nghiệp và dịch vụ. Đó là xu hướng vận động phù hợp với xu hướng phát

triển tiến bộ nhưng yêu cầu đặt ra là phải chuẩn bị lực lượng lao động ở nông
thôn đáp ứng được yêu cầu của lao động ngành nghề, tạo ra sự đồng bộ giữa
kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm.
Ba là, lực lượng lao động ở nông thôn có nhiều đặc tính phù hợp với sự
phát triển nhưng còn nhiều hạn chế.
Nông thôn là nơi sinh sống và làm việc của đại đa số dân cư Việt nam.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông thôn Việt nam đã tạo nên những truyền
thống, bản sắc văn hóa quí báu làm nên những phẩm chất tốt đẹp của con
người nơi đây. Đó là tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lòng yêu nước,
trung thành với Đảng với cách mạng, sự cần cù sáng tạo trong lao động sản
xuất v.v... đó là những lợi thế to lớn của lực lượng lao động trong phát triển
kinh tế, xã hội ở nông thôn và tham gia phân công lao động quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh đó lực lượng lao động nông thôn còn có nhiều
điểm hạn chế, đó là:
- Lực lượng lao động ở nông thôn có sự phân bố không đều giữa các
vùng các ngành. Do ngành nông nghiệp của chúng ta chủ yếu thiên về trồng
trọt nên phần lớn lực lượng lao động tập trung ở những nơi có điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho việc cấy trồng làm cho vùng đồng bằng đất chật người
đông thiếu việc làm trong khi đó vùng rừng núi có diện tích đất đai rộng lớn
nhưng dân cư thưa thớt, không đủ lao động để phát triển nghề rừng.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường hạn chế về sức khỏe, thể lực.
Do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên có năng suất thấp bấp
bênh nên thu nhập của người lao động thấp hơn thu nhập của người lao động
ở thành thị. Hơn nữa, do hạn chế nhiều mặt về thông tin, thiếu hiểu biết về
chế độ dinh dưỡng cho cuộc sống cho nên người lao động ở nông thôn không
có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống. Cho nên thể lực, tầm vóc và
tuổi thọ trung bình của người lao động ở nông thôn thường thấp hơn người


19

lao động ở thành thị. Khu vực nông thôn cũng chưa được tạo điều kiện để
nâng cao các yếu tố khác của chất lượng nguồn lao động như văn hóa, chuyên
môn nghiệp vụ cũng như nhận thức về công ăn việc làm, tinh thần ý thức
trách nhiệm để có việc làm và làm việc có năng suất chất lượng hiệu quả. Hạn
chế này của lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay đang được khắc phục
cùng với sự phát triển của nông thôn và quá trình rút ngắn khoảng cách giữa
nông thôn và thành thị.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường có trình độ học vấn và trình
độ tay nghề chưa cao. Nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận: ở nông thôn
dân trí thấp hơn hai lần so với thành thị; nhân tài thấp hơn 8,6 lần, đào tạo
nghề thấp hơn 10 lần, lao động trí óc ở nông thôn cũng chỉ chiếm 4,4% trong
khi đó ở thành thị là 30%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề ở nông thôn mới
chỉ 10% trong khi đó chung cả nước là 25%. Do điều kiện sản xuất ở nông
thôn còn ở trình độ thấp thô sơ lạc hậu, người lao động thường làm theo kinh
nghiệm nên không có điều kiện nâng cao tay nghề. Mặt khác, người lao động có
trình độ cao thường muốn tìm cho mình một chỗ làm việc ở thường ngoài nông
thôn, có thu nhập cao, có điều kiện hưởng thụ nhiều kết quả của sự phát triển xã
hội. Họ thường tìm việc làm ở thành phố chứ ít khi làm việc ở nông thôn. Lực
lượng lao động còn lại ở nông thôn thường là những người không có điều kiện đi
làm ở nơi khác, mới ở lại nông thôn làm việc. Vì vậy, cần phải đào tạo và tập
huấn tay nghề cho họ để nâng cao chất lượng nguồn lao động ở khu vực này.
Tóm lại, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta chiếm phần lớn trong
lực lượng lao động cả nước. Đó là nguồn lực to lớn có vai trò quan trọng
trong phát triến kinh tế xã hội ở nông thôn nói riêng và trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung. Tiềm năng của lực lượng lao
động ở nông thôn là hết sức to lớn. Tuy nhiên tiềm năng đó chưa được khai
thác và phát huy đầy đủ. Lực lao động ở nông thôn đông nhưng chưa mạnh.


20

Chính vì vậy cần phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm sử dụng nguồn lao
động ở nông thôn một cách đầy đủ, sát hợp với trình độ người lao động để
khai thác phát huy nguồn nhân lực ở nông thôn đồng thời phải có chiến lược
bồi dưỡng phát triển lực lượng lao động cho khu vực này.
1.1.2.2. Việc làm của người lao động ở nông thôn
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Có nhiều loại việc làm diễn ra ở nông thôn, phản
ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Nhưng việc
làm của người lao động ở nông thôn lại gắn với đặc điểm của lực lượng lao
động ở đây, với điều kiện tự nhiên nơi họ sinh sống.
Việc làm của người lao động ở nông thôn là những hoạt động lao động
trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội của một bộ phận lực lượng lao động sinh sống ở nông thôn để mang lại
thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Việc làm của người lao động ở nông thôn gắn liền với môi trường, điều
kiện sinh sống và làm việc của người lao động. Và chính môi trường điều
kiện đó đã ảnh hưởng đến việc làm của họ, thậm chí quyết định việc làm của
họ. Người lao động ở nông thôn thường làm việc trong những ngành nông,
lâm, thủy sản - những loại việc làm có thể khai thác tài nguyên tự nhiên
chính nơi họ sinh sống. Ví dụ người sống ở rừng núi hay làm nghề rừng,
người sống ở vùng duyên hải hay làm nghề biển... Việc làm của họ phần
nhiều phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và sức lao động của chính mình.
Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu việc làm của người lao động
ở nông thôn càng mang tính thủ công, nặng nhọc và có thu nhập thấp. Khi
kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là nông nghiệp, ở đó ẩn chứa nhiều nguy cơ
thiếu việc làm hữu hình. Vì vậy, đa dạng hóa ngành nghề, mở nhiều loại hình


21
việc làm, phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn là phương hướng chủ yếu giải

quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn.
1.1.2.3. Các loại việc làm của người lao động ở nông thôn
Các loại việc làm của người dân là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thành
thị với nông thôn. Nếu như ở thành thị, dân cư tập trung làm việc trong các
ngành thủ công, công nghiệp và buôn bán là chính, thì ở nông thôn dân cư
chủ yếu sản xuất nông nghiệp và những ngành gắn với nông nghiệp, kinh tế
nông thôn. Các loại việc làm ở nông thôn rất phong phú và đa dạng với hàng
trăm ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên có thể phân chúng thành các loại việc
làm thuần nông và việc làm phi nông nghiệp.
Việc làm thuần nông là những hoạt động lao động trong lĩnh vực trồng
trọt và chăn nuôi. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay chăn nuôi và trồng
trọt vẫn là công việc chính của nhà nông ở nước ta. Trong đó trồng trọt chiếm
73%; chăn nuôi chiếm 27%. Trong trồng trọt cây lương thực vẫn chiếm
78,2% diện tích cơ cấu cây trồng, cây rau màu và cây công nghiệp chỉ chiếm
21,8%... Còn chăn nuôi ở nông thôn phần lớn chỉ để tận dụng thức ăn dư thừa
và cung cấp phần nào nhu cầu thực phẩm ở nông thôn.
Như vậy, có thể nói lao động trong trồng trọt và chăn nuôi là việc làm
chính của người lao động ở nông thôn. Thế mạnh của lĩnh vực này là người lao
động được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha để lại. Người lao động ở
nông thôn lớn lên đã theo cha mẹ ra đồng làm việc nên họ thường quan niệm
rằng không cần phải qua trường lớp đào tạo. Kiến thức nghề nông được tích lũy
dần trong quá trình người lao động tham gia sản xuất từ nhỏ với tư cách là người
lao động phụ của gia đình. Bên cạnh đó, loại công việc này còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, sản xuất theo mùa vụ, năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại
nên người lao động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít có cải tiến, sáng tạo...
dẫn đến năng suất và hiệu quả công việc không được nâng cao. Quá trình đó


22
cứ diễn ra như thế từ ngàn năm làm cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở

nông thôn diễn ra một cách chậm chạm.
Thứ hai, loại công việc này có tính chất mùa vụ nên lao động ở nông
thôn sẽ thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác, cùng với quá
trình đô thị hóa, đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho
người nông dân bị mất tư liệu sản xuất và với trình độ học vấn, tay nghề thấp
họ sẽ gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc
nặng nhọc với mức lương rẻ mạt... Như vậy, trong quá trình CNH, HĐH,
người lao động làm việc trong lĩnh vực thuần nông là những người có nguy
cơ bị thiếu việc làm và bị thất nghiệp cao nhất.
Việc làm phi nông nghiệp là lĩnh vực rộng lớn, gồm tất cả các ngành
nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Cùng với sự hình thành và phát triển
của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước các loại ngành nghề ở nông
thôn phát triển đã tạo nên sự phong phú, đa dạng về việc làm cho người lao động
ở đây. Hiện nay đã có nhiều loại hình công việc ngoài nông nghiệp ra đời và phát
triển mạnh. Bên cạnh sự phát triển của các làng nghề truyền thống như sản xuất
đồ gỗ, gốm sứ, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ... nhiều ngành nghề chế biến
nông, lâm, thủy sản mới xuất hiện, như: sấy thóc, sơ chế và chế biến cà phê, chế
biến hạt điều, vải, chế biến rau quả, thủy sản, súc sản. Hoạt động gia công cơ khí
xuất hiện phục vụ sửa chữa đồ gia dụng, nông cụ, sửa chữa máy móc nông
nghiệp. Đặc biệt cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, dịch vụ ở nông
thôn cũng phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đời sống trước
đây chỉ có ở thành thị thì nay đã có ở nông thôn như: dịch vụ vệ sinh nông thôn,
dịch vụ cung cấp nước sạch... Nhiều việc làm trước đây bị xã hội coi rẻ và cấm
đoán như: giúp việc gia đình, chạy chợ... thì nay đã được công nhận như một
nghề. Tất cả những biến đổi đó đã tạo ra nhiều loại hình công việc làm phong
phú, đa dạng thị trường việc làm cho người lao động ở nông thôn.


23
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò tích cực trong phát

triển kinh tế xã hội ở nông thôn:
- Phát triển ngành nghề ngoài việc đem lại việc làm ổn định, thường
xuyên cho người lao động trong lĩnh vực đó, còn có khả năng thu hút thêm
lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ngoài ra sự phát triển của nó lại nảy sinh
những ngành nghề mới, những hoạt động dịch vụ liên quan tạo thêm nhiều
chỗ làm mới cho người lao động.
- Loại việc làm này thường đưa lại thu nhập ổn định và cao hơn cho
người lao động. Hiện nay thu nhập của các hộ chuyên ngành nghề ở nông
thôn thường cao hơn khoảng 4 lần so với thu nhập bình quân của hộ lao động
nông nghiệp thuần. Điều đó giúp tăng tỉ lệ hộ giàu, tăng tích lũy, tạo điều kiện
cho nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống cho người lao
động ở nông thôn.
- Việc làm phi nông nghiệp có vai trò to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Các ngành nghề ở nông thôn sử dụng nông sản hàng hóa làm nguyên
vật liệu đã hình thành nên hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, đưa lại giá trị gia
tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác do yêu cầu của công việc, người
lao động làm việc trong các ngành nghề ít nhiều phải có tay nghề và đòi hỏi
phải có tay nghề ngày càng cao. Điều đó bắt buộc người lao động phải
không ngừng học tập, rèn luyện giúp nâng cao chất lượng nguồn lao động ở
nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hiện nay đang phát triển phong
phú đa dạng. Tuy nhiên sự phát triển của loại việc làm này cũng gặp khó khăn
do hạn chế về trình độ tay nghề của người lao động, về công nghệ cũng như
giới hạn về khả năng quản lý của chủ hộ sản xuất kinh doanh, về nguồn vốn


24
cũng như phong tục tập quán. Người dân có nghề phi nông nghiệp vẫn chưa

mạnh dạn bỏ ruộng để tập trung sản xuất ngành nghề.
Tóm lại, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển ngành nghề ở
nông thôn, nhưng so với việc làm thuần nông thì sự phát triển gia tăng của
việc làm phi nông nghiệp hiện nay đang chiếm ưu thế và đang trong xu thế
phát triển. Bởi vì so với lĩnh vực thuần nông, lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông
thôn ít gặp những giới hạn của tự nhiên, ngược lại nó còn được thúc đẩy mạnh
mẽ bởi sự phát triển của quá trình CNH,HĐH. Nếu như việc làm thuần nông
ngày càng bị thu hẹp thì việc làm phi nông nghiệp đang trong xu thế phát triển
mở rộng do chính sự phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa đưa lại.
Mặt khác nông thôn Việt Nam đang vươn mình phát triển. Điều đó tạo ra thị
trường rộng lớn cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp,
dịch vụ và cơ cấu lao động tiến bộ ở nông thôn.
1.1.3. Cung cầu về lao động ở nông thôn trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
1.1.3.1. Khái quát cung, cầu về lao động
Cung lao động là một bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động, đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân hay có nhu
cầu cung ứng sức lao động cho nền kinh tế để có việc làm.
Cung lao động phụ thuộc vào những nhân tố cơ bản sau:
- Qui mô và tốc độ tăng của dân số.
- Qui mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực.
- Độ dài thời gian làm việc của người lao động.
- Mức sống của các tầng lớp dân cư.
- Trình độ dân trí, phong tục tập quán.
Cầu về sức lao động (gọi tắt là cầu lao động). Cầu lao động là nhu cầu
sức lao động của nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định, thường được xác định
thông qua chỉ tiêu việc làm.


25

Cầu lao động của một nền kinh tế phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Khả năng phát triển kinh tế của đất nước.
- Cơ cấu ngành nghề và sự phân bổ ngành nghề giữa các khu vực.
- Trình độ công nghệ máy móc, thiết bị được sử dụng.
- Tỉ lệ thất nghiệp và lạm phát.
- Các chính sách của nhà nước tác động lên cầu lao động.
- Giới tính, lứa tuổi, dân tộc...
Cung, cầu lao động là hai yếu tố cơ bản của thị trường sức lao động
(thường gọi là thị trường lao động). Sự cân bằng của hai yếu tố này phản ánh
mức độ có việc làm của người lao động trong nền kinh tế.
Trong trường hợp mức cung lao động phù hợp với mức cầu lao động,
hay nói cách khác, mức cầu lao động có khả năng thu hút tất cả những người
có khả năng lao động và mong muốn làm việc thì thị trường lao động vận
hành tốt. Người lao động có việc làm và thu nhập ổn định. Trong trường hợp
nếu cung lao động lớn hơn cầu lao động thì thị trường lao động sẽ lâm vào
trạng thái không ổn định. Người lao động sẽ thiếu việc làm, phải làm những
công việc có thu nhập rẻ mạt, giá cả sức lao động sẽ thấp hơn giá trị sức lao
động, ảnh hưởng đời sống của người lao động. Còn nếu ngược lại cung lao
động nhỏ hơn cầu lao động, nền kinh tế sẽ thiếu nguồn nhân lực để phát triển.
Tuy nhiên sự phù hợp giữa cung và cầu lao động còn phụ thuộc vào sự
phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Vấn đề đặt ra là với trình độ
phát triển nhất định cần bao nhiêu lao động cho qui mô sản xuất hiện tại ? Người
lao động có được khả năng và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp đáp ứng yêu
cầu của cơ hội việc làm hay không ? Ở nước ta hiện nay cung lao động có chiều
hướng tăng do sức ép của mức tăng dân số, cho nên mặc dù cơ cấu việc làm có
sự chuyển biến tích cực nhưng do cung lao động lớn hơn cầu lao động nên nền
kinh tế còn tồn tại lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, trong đó
tình trạng thiếu việc làm là phổ biến, nhất là ở khu vực nông thôn.



×