Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Quan điểm chủ nghĩa mác lênin và tư tưởng hồ chí minh về thời kỳ quá độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.24 KB, 30 trang )

Mục lục

Phần mở đầu…………………………………………………..1
Nội dung………………………………………………………2
I. Tư tưởng của Mác - ăng ghen về thời kỳ quá độ lên CNXH trong
tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh GÔ - TA”…………………...2
II - Quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
TKQĐ lên CNXH……………………………………………..4
1.Quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về TKQĐ lên CNXH……4
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội……..8
3. Tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH:………………………..11
III. Phương thức sản xuất CSCN………………………………14
1. Giai đoạn thấp………………………………………………14
2. Giai đoạn cao của XHCS…………………………………...16
IV.nhận thức và vận dụng tư tưởng về thời kỳ quá độ vào thực tiễn ở
việt nam trong thời gian qua…………………………………..18
Kết luận……………………………………………………….28

0


PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam hơn 70 năm qua với sự lựa chọn con đường giải
phóng dân tộc đi vào quý đạo cách mạng vô sản, đã đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc
kháng chiến chống thực dân, đế quốc nhằm giải phóng và thống nhất Tổ
quốc Việt Nam, đặc biệt là thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước là thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng cộng sản Việt Nam. Cách mạng Việt Nam, vừa thể hiện, vừa góp phần
thúc đẩy trào lưu chính của thời đại ngày nay – thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới.


Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho
sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới bị kéo dài thêm, song
không thể đảo ngược được xu thế ấy của thời đại. Con đường của thời đại,
con đường mà nhân loại đi tới chính là con đường thắng lợi của hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức đúng và làm rõ nội dung, tính chất của thời đại ngày nay
là cơ sở quan trọng để chúng ta hoạch định đúng đắn đường lối và sách lược
của chúng ta và “ chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của
một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước
này hoặc nước nọ” như Lênin đã từng khẳng định.

1


NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG CỦA MÁC - ĂNG GHEN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CNXH TRONG TÁC PHẨM “ PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔ - TA”.
Tháng 5 / 1875 Đại hội đảng thông nhất giữa hai đẩng được họp tại
Gô - Ta, thông qua cương lĩnh gọi là cương lĩnh Gô - Ta. Tinh thần cơ bản
của cương lĩnh này mang tính chất cải lương, cơ hội, bởi phần lơn của cương
lĩnh theo quan điểm của phái Lat – Xan. Khi cương lĩnh này ra đời Mac Ăng ghen vô cùng thất vọng. Các ông đã đấu tranh chống lại để vạch ra cái
cơ hội, cải lương để tiến tơi xây dựng một cương lĩnh thống nhất và triệt để
hơn. Cho nên, đưa tới tác phẩm này ra đời. Cuộc đấu tranh này hết sức gay
go, mãi đến năm 1891 tác phẩm này mới được công bố. Đấy là thắng lợi to
lớn, vạch trần được bộ mặt của chủ nghĩa cơ hội.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” Mác viết: “Giữa xã hội
tư sản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳcải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ
chính trị, Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” .

Trích (C. Mác và Ph. Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương
lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 50).
Một số người căn cứ vào sự phân tích của Mác trong “Phê phán cương
lĩnh Gô-ta” xem TKQĐ được bắt đầu khi giai cấp vô sản giành được chính
quyền, kết thúc khi xây dựng xong CNXH trong quan niệm đó TKQĐ được
hiểu là: TKQĐ từ CNTB lên CNXH.
Từ luận điểm trên chúng ta rút ra những vấn đề sau:
+ Quá độ từ CNTB lên CNCS, thời kỳ quá độ này kéo dài trong giai
đoạn thấp.
2


+ Quá độ từ những nước TBCN đến đại công nghiệp cơ khí.
+ Đây là một thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện và sâu sắc trên tất
cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị đến xã hội …
+ Trong thời kỳ quá độ là thời kỳ tiếp tục đấu tranh giai cấp giữa nội
dung và hình thức mới.
+ Trong thời kỳ quá độ nhà nước chính là nhà nước chuyên chính vô
sản. Chuyên chính vô sản ,trước hết thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, giai
cấp công nhân, vai trò quản lý của nhà nước của giai cấp vô sản và quyền
làm chủ của quần chúng lao động.
Thông qua vấn đề quá đọ này, Mác phê phán vấn đề cải lương, theo
họ thì muốn có CNCS không hề có cải biến cách mạng, không có đấu tranh
giai cấp, mà theo họ chỉ cần sự giúp đỡ của giai cấp tư sản đeer tạo điều kiện
cho hợp tác xã để đi lên CNCS. Họ tin rằng, với sự giúp đỡ của chủ nghĩa tư
sản họ sẽ dễ dàng đi lên CNCS. Đây là vấn đề ảo tưởng.
Mác viết: “…Người ta “dọn đường” cho “việc giải quyết” vấn đề xã
hội ấy. Đáng lẽ là do quá trình cải biến cách mạng của xã hội mà ra, thì “tổ
chức xã hội chủ nghĩa của toàn bộ lao động” lại là kết quả của “sự giúp đỡ
của nhà nước”, sự giúp đõ mà nhà nước đem lại cho những hợp tác xã sản

xuất do chính nhà nước(chứ không phải do lao động) đã “tạo laap”. Tin rằng
người ta có thể xây dựng một xã hội mới bằng trợ cấp của Nhà nước, cũng
dễ dàng như xây dựng một con đường sắt mới, tin như thể thật là một ảo
tưởng xứng đáng với ảo tưởng của Lat-Xan”.
Trích (C. Mác và Ph. Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương
lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 46).
II - QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ TKQĐ LÊN CNXH.
1.Quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về TKQĐ lên CNXH.
3


Bản thân vấn đề TKQĐ rất phức tạp, nó bao hàm nhiều nội dung rất
phong phú. Lênin đã có lần đặt vấn đề: “Vậy bản thân từ quá độ có nghĩa là
gì? ” Và Người nói: “Khi vận dụng vào vấn đề kinh tế, có phải nó có nghĩa
là trong chế độ hiện nay có cả thành phần, bộ phận và từng mảnh CNTB lẫn
CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người
thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu xã hội- kinh
tế hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả mấu chốt của vấn đề lại
chính là ở chỗ đó”.
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tập 27, NXB Sự thật Hà Nội 1971, tr
422).
Thực vậy, gọi là TKQĐ, vì nó vừa không phải là chính nó, lại vừa
không phải là cái khác, vừa không phải là chính bản thân xã hội XHCN, lại
vừa không phải là xã hội cũ đã đẻ ra nó. TKQĐ mới chỉ là thời kỳ xây dựng
những tiền đề cơ sở của CNXH, chứ chưa phải là CNXH hoàn chỉnh, là thời
kỳ hình thành CNXH, hình thành hình thái kinh tế- xã hội cộng sản, chứ
không phải là thời kỳ xây dựng CNXH trên cơ sở của chính nó. Lênin còn
cho rằng: “Bước quá độ từ CNTB lên CNXH có thể có những hình thức
khác nhau, tuỳ thuộc ở chỗ quan hệ đại tư bản hay nền kinh tế nhỏ chiếm ưu

thế trong nước”.
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tập 32, NXB Sự thật Hà Nội 1970, tr
298).
Theo Lênin, chỉ trong những nước mà giai cấp vô sản đã phát triển
đầy đủ, thì mới có thể chuyển trực tiếp từ CNTB lên CNXH mà không cần
đến TKQĐ đặc biệt có tính chất toàn quốc. Hoặc ở một nước nếu trong đó
nền đại công nghiệp chiếm ưu thế, hay thậm chí cứ cho là không chiếm ưu
thế nhưng rất phát triển, và có cả nền sản xuất nông nghiệp cũng với quy mô
rất phát triển, thì có thể quá độ thẳng lên CNCS được. Và Lênin khẳng định
4


rằng nếu không có điều kiện đó thì bước quá độ lên CNCS không thể có
được, xét về phương diện kinh tế.
Ở đây, nói đến việc chuyển trực tiếp lên CNXH, nói đến “Quá độ
thẳng CNCS” không có nghĩa là Lênin phủ nhận TKQĐ từ CNTB lên
CNXH, mà chính là Người muốn luận chứng rằng, những nhiệm vụ trong
lĩnh vực cải tạo cách mạng về mặt kinh tế- xã hội, những con đường và
phương pháp giải quyết các nhiệm vụ ấy, những hình thức đấu tranh giai cấp
để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, đều phụ thuộc vào những điều kiện lịch
sử- cụ thể của những nước khác nhau. Nhưng TKQĐ là vấn đề có tính quy
luật chung cho tất cả những nước thực hiện việc quáđộ lên CNXH. Tính quy
luật ấy được quy định bởi tính chất đặc thù của chế độ sở hữu XHCN, là cơ
sơ của xã hội XHCN.
Như vậy, TKQĐ, theo Lênin, là thời kỳ trải qua những “cơn đau đẻ”
kéo dài, thời kỳ đấu tranh gay go, quyết liệt giữa CNTB đã bị lật đổ nhưng
chưa bị đánh bại hẳn, với CNXH mới hình thành nhưng hãy còn non yếu.
Chính trên ý nghĩa ấy, Lênin khẳng định rằng: “ ở một nước trong đó những
người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số nhân khẩu, mà muốn thực
hiện cách mạng XHCN thì phải trải qua một loạt biện pháp quá độ đặc biệt,

hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển, trong đó công
nhân làm thuê trong công nghiệp và nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số dân
cư”.
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tập 32, NXB Sự thât Hà Nội 1970, tr
273 – 274).
Chính Lênin đã đặt vấn đề: “Làm thế nào để trên thực tế thực hiện
được bước quá độ từ CNTB cũ, quen thuộc, mà mọi người đã biết sang
CNXH mới, chưa hình thành hẳn, chưa có một cơ sở vững chắc- đó là nhiệm
vụ khó nhất. Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất
5


nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta, lại chia ra
nhiều bước quá độ nhỏ hơn”
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tập 30, NXB Sự thât Hà Nội 1970, tr
418 – 419).
Những lời chỉ dẫn trên đây của Lênin đối với TKQĐ mà chúng ta
đang đi, có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn. Do vậy, vấn đề TKQĐ lên
CNXH rõ ràng là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống lý luận
của CNXH khoa học. Đây là thời kỳ diễn ra quá trình cách mạng vô cùng
sâu sắc, triệt để và toàn diện trên những quy mô chưa từng có trong mọi mặt
của đời sống xã hội, trong toàn bộ những điều kiện vật chất cũng như đời
sống tinh thần của xã hội, trong tồn tại xã hội cũng như trong ý thức xã hội.
Trong những hình thái kinh tế- xã hội trước đây, sự quá độ từ một
hình thái này sang một hình thái khác diễn ra không có TKQĐ, vì chế độ
chiếm hữu tư nhân đã cho phép phương thức sản xuất mới ra đời và phát
triển ở trong lòng xã hội cũ. Điều này có thể giải thích vì sao thành phần
kinh tế TBCN lại có thể nảy sinh và lớn lên trong những điều kiện của chế
độ phong kiến. Còn thành phần kinh tế XHCN thì ngược lại, không thể ra
đời một cách tự phát bằng con đường tiến hoá từ CNTB, cũng như chế độ sở

hữu XHCN không thể hình thành trong lòng chế độ tư bản. Rõ ràng, CNXH
chỉ có thế xây dựng nên do kết quả của cuộc cách mạng XHCN, và được
đánh dấu bằng một TKQĐ đặc biệt- thời kỳ lật đổ toàn bộ chế độ xã hội cũ,
xoá bỏ ngay chính nguồn gốc đẻ ra chế độ người bóc lột người, chế độ
chiếm hữu tư nhân, nhằm xây dựng những tiền đề, cơ sở của CNXH.
Chiều sâu và tầm ảnh hưởng của bước qua độ đặc biệt này không
những biểu hiện ở chỗ chỉ thủ tiêu các giai cấp bóc lột, thủ tiêu mọi quan hệ
xã hội đối kháng, mà đồng thời còn làm một cuộc cách mạng thực sự trên
toàn bộ lĩnh vực tinh thần- tư tưởng, tâm lý, tập quán, lối sống cũ còn để lại
6


tàn dư trong xã hội mới. TKQĐ lên CNXH phải làm biến đổi triệt để tất cả
những cái đó. Nhất là TKQĐ từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa,
nửa phong kiến mà nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến lên CNXH, bỏ
qua giai đoạn phát triển TBCN, thì do tính sâu sắc và phức tạp của nó, do
tầm lớn lao của những nhiệm vụ lịch sử mà nó phải giải quyết, sự biến đổi
còn sâu sắc hơn, triệt để hơn TKQĐ diễn ra ở những cuộc cách mạng XHCN
trong những điều kiện khác. Điều đó có thể giải thích được ý nghĩa đặc biệt
của TKQĐ trong những điều kiện như vậy.
Từ cách đặt vấn đề trên, có thế khẳng định rằng TKQĐ là bước đi tất
yếu, cần thiết cho tất cả các nước tiến lên CNXH. Do vậy, nếu TKQĐ được
xem như quá trình phát triển tự nhiên của xã hội với tính quy luật nghiêm
ngặt của nó thì đúng như Mác đã nói, không thể nào nhảy vọt lên để vượt
qua hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ giai đoạn phát triển tự nhiên ấy. Lênin cũng
đã từng nói: đứng trên ý nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì TKQĐ
mà nước Nga đang đi là “thời kỳ còn chưa đến “ngưỡng cửa” của CNXH, và
nếu không đi qua “ngưỡng cửa” mà chúng ta chưa đạt tới ấy thì chúng ta
không thể tiến lên CNXH được”.
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tập 27, NXB Sự thât Hà Nội 1970, tr

431).
Kế thừa và phát triển tư tưởng phân kỳ trên Lênin quan niệm về
TKQĐ “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa CNTB và CNCS,
có một TKQĐ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc
điểm hay những đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế- xã hội ấy. TKQĐ ấy
không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đang giãy
chết và CNCS đang phát triển, hay nói cách khác, giữa CNTB đã bị đánh bại
nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và CNCS đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non
yếu” .
7


Trích (V. I. Lênin toàn tập, tập 39, NXB Tiến bộ Matxcơva, 1997,
tr 309 – 310).
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu văn hóa nhân loại”.
Trích (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện lần thứ IX, NXB
CTQG, Hà Nội 2001, tr 83).
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về quá độ lên CNXH ở Việt Nam
được hình thành, được chín muồi từ khi Người giác ngộ chủ nghĩa MácLênin, trở thành người cộng sản vào những năm 20 của thế kỷ XX đến khi
Người ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, trực tiếp lãnh
đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam. Hồ Chí Minh là người theo đuổi đến cùng lý tưởng và mục tiêu
của CNXH. Người trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời phát
triển sáng tạo học thuyết, chủ nghĩa ấy và thực sự là Người đã có những
đóng góp, những cống hiến làm sống động chủ nghĩa Mác- Lênin trong thực

tiễn. Sáng tạo nổi bật và cống hiến xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh là đã giải
quyết thành công và có thể coi như một mẫu mực kinh điển về quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và nhân loại trên lập trường của giai cấp vô
sản, của cách mạng vô sản, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
xã hội và con người, giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã tìm thấy câu trả lời cho sự lựa chọn con
đường phát triển của đất nước. Quyết định lựa chọn CNXH là quyết định
Người theo đuổi suốt cuộc đời. Đối với Hồ Chí Minh, CNXH là một chân
8


lý, đồng thời là một niềm tin: không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời
mọc. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được CNXH phát triển.
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về hình thái kinh tế- xã hội
vào việc xác định vị trí của CNXH trong lịch sử tiến hoá của loài người, Hồ
Chí Minh khẳng định bằng những lời lẽ trong sáng và giản dị: “xã hội từ chỗ
ăn lông, ở lỗ, tiến đến xã hội nô lệ, tiến đến chế độ phong kiến, tiến đến xã
hội tư bản, rồi tiến đến XHCN”.
Trong bức tranh trên lịch sử loài người phát triển liên tục và CNXH là
nấc thang cao của sự tiến hoá, nó xuất hiện kế tục xã hội tư bản, thay thế xã
hội tư bản sau khi đã tiếp thu những thành quả của xã hội này. ở đầy khái
niệm chế độ XHCN được dùng để chỉ hình thái kinh tế- xã hội CSCN xuất
hiện sau hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế xã hội CSCN có hai giai đoạn, “giai đoạn thấp tức là
CNXH, giai đoạn cao, tức là CNCS”. Khái niệm CNXH được dùng để chỉ
một trong hai giai đoạn của hình thái kinh tế-xã hội CSCN. Bước chuyển từ
CNTB lên CNXH-tức là TKQĐ từ CNTB lên CNXH-Theo Hồ Chí Minh, là
một “quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt,
giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn
và cái đang phát triển”. Nhưng Người luôn luôn thể hiện niềm tin vững chắc

rằng cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng và điều đó có nghĩa là: CNXH
và CNCS nhất định sẽ thắng lợi trên khắp địa cầu.
Với các nước lạc hậu, tiền tư bản lên CNXH, các nhà kinh điển từ
Mác, Ăngghen tới Lênin đều đặc biệt nhấn mạnh phải phát triển lực lượng
sản xuất, chỉ như vậy mới có thể dần dần xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, xoá bỏ triệt để tình trạng bóc lột, áp bức, bất bình đẳng, xác lập chế
độ công hữu đảm bảo cho sự phát triển của con người, xã hội tới dân chủ, tự
do, công bằng, bình đẳng thực sự.
9


Theo Người, đặc điểm lớn nhất ở những nước lạc hậu trong TKQĐ là
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua
giai đoạn phát triển TBCN. Cho nên, Người xác định toàn diện các nhiệm
vụ xây dựng CNXH ở những nước này là phát triển toàn diện các mặt kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hoá phát triển giáo dục, xây dựng con người mới...
Mấu chốt của vấn đề kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất. Mấu chốt của
vấn đề chính trị là giữ vững chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng...Mấu chốt
của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào sự phát triển con
người và xã hội. Và, thực chất của vấn đề văn hoá là xây dựng con người
mới, đạo đức mới... Theo Người, tức là phải phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh của mỗi nước.
Từ những quan điểm trên ta có thể tóm tắt khái niệm TKQĐ như sau:
TKQĐ đó là thời kỳ đặc biệt nằm trong giai đoạn thấp của hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc triệt để trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. TKQĐ được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đã thiết lập được chính quyền Nhà nước và trức tiếp bắt
tay vào cải taọ xã hội cũ xây dựng xã hội mới cho đến khi xây dựng xong
những cơ sở về kinh tế, chính trị xã hội và văn hoá tinh thần để CNXH bước
vào quá trình phát triển trên cơ sở của chính nó.

Hay chúng ta có thể nói cách khác: TKQĐ lên CNXH là thời kỳ tạo ra
những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà
trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội XHCN sẽ được thực hiện.
Như vậy, XHCN chỉ ra đời khi những nhiệm vụ cơ bản của TKQĐ đã được
hoàn thành.

10


3. Tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH:
TKQĐ từ CNTB lên CNXH- thời kỳ cải tạo xã hội tư bản chủ nghĩa
thành xã hội xã hội chủ nghĩa bằng cách mạng là thời kỳ tất yếu, bởi vì khác
với mọi hình thái kinh tế -xã hội khác là những hình thái mà mỗi hình thái
trong số đó đều đã hoàn toàn chín muồi trong lòng hình thái trước, CNXH
không ra đời trong lòng CNTB. CNTB chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất
để quá độ lên CNXH. Còn bản thân công cuộc xây dựng xã hội XHCN thì
được thực hiện sau khi đã gạt giai cấp tư sản khỏi chính quyền và thiết lập
chuyên chính vô sản. Thêm vào đó, thậm chí sau khi giành được chính
quyền, giai cấp vô sản cũng không thể “đem áp dụng” ngay CNXH được.
Lênin viết: “Mục đích đó, người ta không thể đạt ngay tức khắc được; muốn
thế, cần phải có một TKQĐ khá lâu dài từ CNTB lên CNXH, vì cải tổ sản
xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những
thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, và vì phải trải qua một
cuộc đấu tranh quyết liệt lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của
thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản. Bởi vậy, Mác nói đến cả
một thời kỳ chuyên chính vô sản, TKQĐ từ CNTB lên CNXH” .
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tiếng việt, tập 38, NXB Tiến bộ, NXB
Tiến bộ Matxcơva, tr 464).
Do sự đối lập về chất của chế độ sở hữu TBCN và chế độ sở hữu
XHCN, nên trong lòng xã hội cũ (tiền TBCN và TBCN) không thể nảy sinh

quan hệ sản xuất XHCN. Vì vậy, giai cấp công nhân phải tiến hành cách
mạng trên lĩnh vực chính trị trước, nhằm thiết lập Nhà nước XHCN. Việc
giai cấp công nhân giành chính quyền chưa có nghĩa là đã có CNXH hoàn
chỉnh. Muốn có CNXH đầy đủ và hoàn chỉnh (cả chính trị, kinh tế, văn hoá),
giai cấp công nhân phát triển từ những tiền đề vật chất đã có và bằng biến

11


công cụ là Nhà nước XHCN để cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng xã hội mới
XHCN.
Lênin đã viết nhiều về tính tất yếu của TKQĐ.người đã chỉ rõ rằng,
thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của hai
kết cấu kinh- xã hội đối lập nhau:TBCN và XHCN. “TKQĐ ấy không thể
nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đang giãy chết và
CNCS đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa CNTB đã bị đánh bại
nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và CNCS đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non
yếu”.
Trích (V. I. Lênin toàn tập, tiếng việt, tập 39, NXB Tiến bộ, NXB
Tiến bộ Matxcơva1977, tr 309 – 310).
Đó là thời kỳ lịch sử tất yếu để Nhà nước chuyên chính vô sản tiến
hành cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, XHCN về mọi mặt, là thời
kỳ đấu tranh giai cấp diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cuộc đấu tranh giai cấp này được tiến hành trong những điều kiện mới,
bằng những hình thức mới và phương pháp mới kết hợp cải tạo với xây
dựng, chính trị với kinh tế, hoà bình với bạo lực, giáo dục với hành chính,
thuyết phục với cưỡng bách..., để đưa ra và thực hiện được một kiểu tổ chức
xã hội mới cao hơn xã hội tư sản.
Theo Mác- Ăngghen, nhận thức tính tất yếu lịch sử của CNXH và
CNCS thông qua cách mạng đòi hỏi chỉ rõ nguyên nhân của cách mạng ấy.

Kết luận mang tính chỉ dẫn của các ông là không có khủng hoảng kinh tế của
CNTB thì không có cách mạng để giai cấp cách mạng và khối quần chúng
đông đảo của nó sẵn sàng hành động chống CNTB được. “ trong cảnh phần
bình phổ biến như vậy, khi mà lực lượng sản xuất của xã hội tư sản phát
triển rực rỡ tới mức nói chung có thể có được trong khuôn khổ những quan
hệ tư sản thì không thể nói đến chuyện có một cuộc cách mạng thật sự, một
12


cuộc cách mạng như vậy chỉ có thể có trong những thời kỳ mà cả hai nhân tố
đó, lực lượng sản xuất hiện đại và các hình thức sản xuất tư sản mâu thuẫn
với nhau... Cuộc cách mạng mới chỉ có thể xảy ra tiếp theo sau một cuộc
khủng hoảng mới. Nhưng việc cách mạng sẽ dẫn đến những tất yếu khong
thể tránh khỏi như việc khủng hoảng sẽ xảy đến”.
Trích (C. Mác và Ph. Angghen toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội
1995, Tập 7, tr 613).
Luận chứng về tính tất yếu lịch sử của CNXH, Mac- Ăngghen không
chỉ nhấn mạnh điều kiện khách quan và sự trưởng thành thực sự của nhân tố
chủ quan cho sự chín muôi cách mạng vô sản để phòng ngừa những ảo
tưởng chủ quan duy ý chí có thể đưa phong trào tới chỗ thất bại mà còn đảm
bảo cho phong trào phát triển nhất quán, giữ vững tính cách mạng triệt để
trong những mục tiêu lý tưởng của CNXH.
Giá trị bền vững trong lý luận của Mác và Ăngghen về CNXH là ở
chỗ, nó là khoa học chứ không phải là mộng tưởng, không tưởng; là cách
mạng chứ không phải là cải lương, chỉ như vậy- trong nhận thức lý luận và
hành động thực tiễn- mới có thể đưa giai cấp vô sản và quần chúng lao động
tới thành công trong sự nghiệp của mình: phá huỷ thế giới cũ- TBCN và xây
dựng thế giới mới- XHCN. “CNXH này là lời tuyên bố cách mạng không
ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá
độ tất yếu để đi đến xoá bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung, xoá bỏ tất

cả những quan hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xoá bỏ tất
cả những quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến
cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất xã hội
đó”.
Trích (C. Mác và Ph. Angghen toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội
1995, Tập 7, tr 126).
13


Tóm lại, với Mác và Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử, CNXH mới
có được những chứng giải khoa học thật sự, mới vượt qua tính chất không
tưởng để trở thành CNXH khoa học. lý luận khoa học này đã soi sáng con
đường giải phóng giai cấp vô sản và toàn bộ xã hội loài người, con đường đi
tới CNXH và CNCS như một tất yếu lịch sử. đó là sự phủ định biện chứng
đối với CNTB, bằng cách mạng, thông qua cách mạng trong một tiến trình
lịch sử lâu dài.
III. PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT CSCN
1. Giai đoạn thấp.
Giai đoạn này là giai đoạn chưa phát triển trên cơ sở của riêng nó , nó
vừa thoát thai từ CNTB. Vì vậy trên mọi phương diện còn mạng những dấu
vết của xã hội cũ Mác viết: “ Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây, là một xã hội
cộng sản, nhưng không phải là xã hội cộng sản đã phát triển trên những cơ
sở riêng của nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa trong xã hội tư bản
thoát ra; vì vậy mà, mọi phương diện kinh tế, đạo đức, trí tuệ, xã hội ấy còn
mang những dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã hoài thai ra nó”.
Trích (C. Mác và Ph. Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương
lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 31).
Giai đầu của CNCS chưa thể thực hiện được công bằng và bình đẳng
về mặt của cải, thì vẫn còn chênh lệch, bất công nữa; nhưng tình trạng người
bóc lột người thì không còn nữa, vì không ai có thể chiếm tư liệu sản xuất,

công xưởng, máy móc, đất đai… làm của riêng được. Trong khi bác bỏ cầu
nói mo hồ và tiểu tư sản cuat Lat-Xan về bình đẳng và công bằng nói chung.
Mác vạch ra tiến trình phát triển của xã hội Cộng sản, xã hội này phải bắt
đầu phá huỷ chỉ riêng cái “điều bất công” nay là việc cá nhân chiễm hữu tư
liệu sản xuất làm của riêng nhưng không đủ sức phá huỷ ngay điều bất công

14


kia, tức là việc phân phối vật phẩm tiêu dụng theo lao động chứ không theo
nhu cầu.
C. Mác tính rất sát không những đến sự bất bình đẳng không thể trách
được giữa người ta với nhau, mà còn tính cả đến điểm sau này là chỉ riêng
bạn thân việc biến tư liệu sản xuất thành sở hữu chung của toan thể xã hội,
( CNXH theo nghĩa thông thường) thì cũng không xoá bỏ được những
khuyết điểm của sự phân phối và sự bất bình đẳng của pháp quyền tư sản,
pháp quyền này vẫn tiếp tục thống trị, vì sản phẩm được phân phối theo lao
động. Mác nói “… Nhưng những khuyết điểm ấy không thể nào tránh khỏi
được trong giai đoạn đầu của XHCS , là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư
bản mà ra, sau một thời kỳ sinh để lâu dài và đau lớn. Quyền lợi không bao
giờ có thể cao hơn trình độ văn minh của xã hội thích ứng với tình trạng của
kinh tế ấy” …
Như thế là trong giai đoạn dầu của XHCS ( mà người ta vẫn thường
gọi là CNXH ), pháp quyền tư sản không bị xoá bỏ hoàn toàn mà chỉ xoá bỏ
một phần, chỉ bị xoá bỏ trong phạm vi mà cách mạng kinh tế được hoàn
thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi có liên quan đến tư liệu sản xuất mà thôi.
Pháp quyền tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân.
CNXH biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung. Chính là trong phạm vi ấy,
pháp quyền tư sản mới bị xoá bỏ.
Trong giai đoạn này nguyên tắc phân phối là phân phối theo lao động,

về vấn đề này Mác viết: “ Ở đây rõ ràng cũng là một nguyên tắc như nguyên
tắc điều tiết việc trao đổi hàng hoá, miễn là sự trao đổi ngang nhau. Nội
dung và hình thức khác nhau vì những điều kiện vốn đã khác nhau, thì
không ai có thể cung cấp được cái gì khác, ngoại lao động của mình, và mặt
khác, vì ngoài những vật phẩm tiêu dùng của cá nhân ra thì không còn cái gì
khác có thể trở thành tài sản của cá nhân được. Nhưng đối với việc phân
15


phối những vật phẩm ấy giữa những người sản xuất cá biệt thì nguyên tắc
chỉ đạo cũng vẫn như là đối việc trao đổi hàng hoá ngang giá; cùng một số
lượng lao động dưới một hình thức này đổi lấy cũng một số lượng lao động
như thế dưới một hình thức khác”.
Trích (C. Mác và Ph. Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương
lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 32-33).
2. Giai đoạn cao của XHCS:
C. Mác nói: “ Trong giai đoạn cao của XHCS, khi mà cá nhân không
còn phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa, và sự đối lập giữa lao
động tri óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa, khi mà
lao đông sẽ không phải chỉ là một phương tiện để sống nữa, mà tự nó sẽ
biến thành nhu cầu bậc nhất cho đời sống, khi mà lực lượng sản xuất cũng
đã tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân và tất cả những
nguồn tài phú công cộng đều tuôn ra dồi dào, thì chỉ khi đó người ta nói có
thể hoàn toàn vượt khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội
mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Trích (C. Mác và Ph. Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương
lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 34-35).
Về chính trị thì chắc chẵn là sự khác nhau giữa giai đoạn đầu hay giai
đoạn thấp và giai đoạn cao của CNCS, sau này sẽ rất lớn…Nhưng về mặt
khoa học thì sự khác nhau giưa CNXH và CNCS thất là rõ ràng. Cái mà

người ta thường gọi là CNXH thì C. Mác gọi là giai đoạn đầu hay giai đoạn
thấp của CNCS . Trong chừng mực tư liệu sản xuất đã biến thành sở hữu
chung thì danh từ “CNCS” ở đây có thể đúng được, miễn là đừng quên rằng
đó không phải là CNCS hoàn toàn. Nhưng lời giải thích của C. Mác sở dĩ có
giá trị lớn là ở đây Mác cũng áp dụng một cách triệt để phép biện chứng duy
vật thuyết tiến hoá và xem CNCS là một cái gì phát triển từ CNTB mà ra. C.
16


Mac không bám vào những định nghĩa tượng tưởng có tính chất kinh viện và
giả tạo, không bám vào những cuộc tranh luận vô ích về danh từ ( thế nào là
CNXH, thế nào là CNCS ?), trái lại Mác phân tích cái mà người ta có thể gọi
là những trình độ chín muồi về kinh tế của CNCS.
Trong giai đoạn đầu, bước đầu CNCS chưa thể hoàn toàn chín muồi
về mặt kinh tế, chưa thể hoàn toàn thoát khỏi những tập tục hay những tàn
tích của CNTB. Do đó có hiện tượng đáng chú ý là: “Cái quan điểm chật hẹp
của pháp quyền tư sản”, vẫn được duy trì dưới chế độ cộng sản, trong giai
đoạn đầu của nó. Đương nhiên về mặt phân phối vật phẩm tiêu dùng thì
pháp quyền tư bản tất nhiên đòi hỏi phải có một nhà nước kiểu tư sản, vì nếu
không có một bộ máy đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn
của quyền lợi thì quyền lợi có cũng như không…
Nếu chung ta tự hỏi : CNCS và CNXH khác nhau thế nao, thì chúng
ta phải trả lời rằng CNXH là một xã hội trực tiếp sinhra từ CNTB, là hình
thức đầu tiên của xã hội mới, còn CNCS là hình thức xã hội cao hơn và chỉ
có thể phát triển được sau khi CNXH hoàn toàn được củng cố. CNXH có
nghĩa là làm việc không có sự giúp đỡ của nhà nước tư bản, là lao động xã
hội dưới sự kiểm kê, kiểm soát và giám sát nghiêm ngặt nhất của đội tiên
phong có tổ chức, tức bộ phận tiên tiến của những người lao động, đồng thời
phải quy định mức độ lao động và sự thù cho lao động. Sở dĩ cần phải quy
định như vậy, là vì xã hội TBCN đã để lại cho chúng ta những tàn tích và tập

quán như lao động riêng lẻ, không tin vào nền kinh tế tập thể, thói quen cũ
của người tiểu chủ, …hết thảy những cái đó đều chiếm địa vị thống trị trong
tất cả các nước nông dân. Tất cả những cái đó đều trái với kinh tế CSCN
chân chính. CNCS mà chúng ta nói đây là chế độ trong đó mọi người đều có
thói quen thực hiện nghĩa vụ xã hội mà không cần đến những cơ quan cưỡng

17


bức đặc biệt và lao động không lấy thù lao để phục vụ lợi ích chung trở
thành hiện tượng phổ biến.
Trích (Lênin , toàn tập, tập 30, tr 356).
IV.NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ VÀO THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
Đại hội VI của Đảng và Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) có bước đột
phá đối với nền kinh tế hàng hoá, nhưng còn nhiều yếu tố bất cập, chưa hoàn
chỉnh. Sau hơn bốn năm vừa học vừa làm kinh tế hàng hoá, đến giữa năm
1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, Đảng
tiếp tục bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng hoá.
Trước hết, thay vì trước đây chỉ nêu nhiệm vụ “ xây dựng nền kinh tế
hàng hoá”, thì nay nói rõ và đầy đủ hơn: “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước”. Chúng ta đều biết kinh tế hàng hoá tồn tại trên nhiều
phương thức sản xuất khác nhau, vơi vị trí vai trò khác nhau. Kinh tế hàng
hoá mà chúng ta đang xây dựng là kinh tế hàng hoá theo dịnh hướng XHCN.
Như vậy, kinh tế hàng hoá có tính phổ biến gắn với tính đặc thù của chế độ
chúng ta, dúng với thời kỳ quá độ lên CNXH.
Thứ hai, kinh tế hàng hoá được đặt ở vị trí trung tâm, thoả đáng trong
phần phương hướng cơ bản xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ. Trong
phần những định hướng lớn về chính sách trong TKQĐ lên CNXH, việc “

phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN” được
trình bày ở vị trí đầu tiên, đúng với tầm quan trọng hàng đầu và bao trùm
của nó.
Thứ ba, nội dung kinh tế hàng hoá được trình bày toàn diện, bao gồm
cơ cấu ngành kinh tế; sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế; cơ chế quản lý
kinh tế; vị trí của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trong phát
18


triển kinh tế. Trong đó nêu lên các quan điểm quan trọng: “Các hình thức sở
hữ hỗn hợp và đan kết với nhau”, “Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”, “thực hiện nhiều
hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.
Thứ tư, nội dung của cơ chế quản ly nền kinh tế hàng hoá được trình
bày đầy đủ và mạch lạc hơn. nó không chỉ giới hạn ở hai yếu tố chủ yếu như
trước đây là kế hoạch và cơ chế thị trường, trong đó nhấn mạnh vai trò của
kế hoạch.
Thứ năm, “xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng hoá
tiêu dụng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động …”. Vấn đề này đã bước
đầu được đặt ra tại Hội nghị Trung ương 6, khoá VI.
Qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên
CNXH, việc phát triển kinh tế hàng hoá cùng với các chính sách khác, đem
lại nhiều thành tựu quan trọng cho đất nước. Đại hội VIII (thang 6/1996) của
Đảng nhận định: Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, tuy còn
một số mặt chưa vững chắc. Đại hội VIII phát triển thêm Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH.
Về sở hữu, bổ sung thêm hình thức thực hiện sở hữu toàn dân và tập
thể vốn đã được đặt ra bước đầu tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (tháng 1 – 1994): Triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao

động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và các cá nhân ngoài doanh nghiệp.
Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh
nghiệp nhà nước nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Hớp tác xã được
tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã
viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần.

19


Về phân phối cũng được nói rõ hơn: Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trường kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả
sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “ Để phát triển sức sản xuất cần, phát triển
khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột
và sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ
lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp vừa coi
trọng xoá đói giảm nghèo”.
Về cơ chế quản lý kinh tế xác định thêm: Kế hoạch chủ yếu mang tính
định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai
trò trực tiếp hướng đẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường của Việt
Nam là tại Đại hội IX của Đảng (tháng 4- 2001) lần đầu tiên nêu lên khái
niệm Việt Nam đang thực hiện “ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Khái niệm đó về thực chất không khác mệnh đề mà Đảng đã nêu lên trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH: “Phát triển kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN”.
Hai khái niệm “kinh tế thị trường” và “kinh tế hàng hoá” có cùng bản
chất nhưng cấp độ khác nhau. Trong những năm đầu khi chuyên từ cơ chế
tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nhận thực lý luận và
thực tiễn của chúng ta về nền kinh tế mới còn nhiều khoảng trống. Lúc bấy
20


giờ, chúng ta mới bước đầu đi vao quỹ đạo của kinh tế thị trường, trên nhiều
mặt cái cũ và cái mới đan xen nhau. Nhớ lại những năm đầu sau đổi mới,
ngay trong giới lý luận chúng ta còn tranh luận gay gắt về những vấn đề của
kinh tế thị trường. Có thể nói, chúng ta đã đặt chân vào nền kinh tế thị
trường, nhưng hiểu biết về nó và hành động theo nó còn rất sơ khai, nhận
thức còn chưa thống nhất. Chỉ sau hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
nhận thức của chúng ta về kinh tế thị trường mới rõ dần. Không thể học tập
qua sách vở hoặc thông qua khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài có thể đưa
lại cho chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc về kinh tế thị trường chừng nào
chúng ta còn chưa bắt tay tổ chức công tác thực tiễn về nó.
Đến Đại hội IX, chúng ta đã tích luỹ được nhiều hơn nhận thức lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực này. Có thể nói về cơ bản chúng ta
đã thiết kế được khung thể chế kinh tế thị trường và vận hành nó(tuy còn
nhiều hạn chế) trên khắp mọi miền đất nước. Thời gian đã chín muồi để
Đảng tuyên bố: “Chính sách phát triển hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”
và đó là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong TKQĐ lên CNXH.
Văn kiện Đại hội IX cũng tiếp tục phát triển thêm những luận điểm
mới, khi ghi rõ: Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật “đều là bộ
phận cấu thành quan trọng” của nền kinh tế hị trường định hướng XHCN.
Như vậy, cũng có nghĩa khẳng định thêm vị trí pháp lý và vai trò tất yếu của

các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam. Từ nay, không phải là “cho phép”
các thành phần đó tồn tại hay không, mà tất yêu tồn tại như một quy luật
khách quan.
Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng nay
nhấn mạnh thêm: phát triển doanh nghiệp nha nước đầu tư 100% vốn hoặc
21


có cổ phần chi phối ở “ một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty
nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế … Giao,bán, khoán,
cho thuê … các doanh nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ, sát
nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu
quả”.
Kinh tế tư bản tư nhân cũng có môi trường và địa bàn hoạt động rộng
rãi hơn: “ Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để tư
bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả
đầu tư ra nước ngoài …”.
Việc thiết lập đồng bộ các thị trường vẫn tiếp tục như trước đây, nay
bổ sung thêm thị trường khoa học và công nghệ, phát triển các dịch vụ thông
tin, chuyển giao công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển thị trường bảo
hiểm. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở
nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành
chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp thông qua tín
dụng đầu tư, phát triển các quỹ hỗ trợ phát triển.
Sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Đồng
thời khuyến khích làm giàu hợp pháp. Mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và
an sinh xã hội. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều việc làm mới.

Như vậy, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế thị trường của
Đảng luôn luôn đi cùng với các biện pháp bảo đảm tiến bộ và công bằng xã
hội trên từng bước phát triển.
Về kinh tế đối ngoại, Đại hội IX có bước phát triển mới. Bắt đầu từ
thời kỳ đổi mới, chuyển qua kinh tế hàng hoá, chúng ta càng coi trọng mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Quan hệ đó, trước đây chủ yếu là Liên22


xô, Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV), các nước XHCN khác tức là khu vực
sử dụng đồng rúp, thì nay chuyển sang quan hệ ngày càng nhiều với các
nước và tổ chức quốc tế sử dụng đồng đô-la Mỹ.
Trước Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), trong quan hệ kinh tế đối
ngoại chúng ta coi trọng hoạt động xuất nhập khẩu, tín dụng, thu hút đầu tư
nước ngoài, viện trợ quốc tế… Thời kỳ sau, một mặt chúng ta phát triển
những hình thức đã có, mặt khác đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại, tích cực tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Việt Nam trở thành
thành viên chính của ASEAN năm 1995, gia nhập APEC năm 1998, năm
2000 ký Hiệp ước thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và đang hướng tới gia
nhập WTO.
Như vậy, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ngày càng phát triển,
hoàn thiện hơn và được hiện thực hoá trong cuộc sống. Nhờ đó, Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu, nổi bất là:
Một là, tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) tăng 3 lần trong gần 20 năm
qua. Thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD/năm tăng lên 500
USD/năna, gấp 2,5 lần. Điều quan trọng là nền kinh tế thực, hoạt động theo
tín hiệu của thị trường.
Hai là, kinh tế thị trường góp phần làm thay đổi sâu sắc cơ cấu ngành
nghề và lao động. Tỷ trọng nông nghiêp trong các ngành kinh tế giảm
xuống, nhưng những phân ngành theo nhu cầu của thị trường được phát triển
nhanh như đánh bắt và nuôi thuỷ hải sản, cây thực phẩm, cây công nghiệp…

Công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ phát triển có tỷ trọng
không ngừng tăng trong nền kinh tế. Riêng xuất khẩu đến nay đã chiếm
khoảng 50% GDP. Các loại thị trường mới như thị trường lao động, thị
trường khoa học – công nghệ, thị trường chứng khoán ra đời và có triển
vọng phát triển nhanh.
23


Ba là, cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế thay đổi nhanh. Gần 20
năm trước sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế chủ yếu là sở hữu công
dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Trên cơ sở đó, có hai thành phần kinh
tế chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể. Dưới tác động của kinh tế
thị trường, bạn thân các đơn vị kinh tế của 2 thành phần này được sắp xếp
lại, có một số bị giải thể, phá sản hoặc sát nhập do làm ăn kém hiệu quả.
Bốn là, cơ chế quản lý chuyển biến mạnh từ chỗ quản lý kinh tế bằng
kế hoạch pháp lệnh và mệnh lệnh hành chính là chính, dần dần cơ chế thị
trường ngày càng có vị trí quan trọng. Hiện nay, vai trò của cơ chế thị trường
trong phân bổ nguồn lực của nền kinh tế được thể hiện rõ nét. Tính kế hoạch
trong quản lý vẫn không mất đi, nhưng chủ yếu được thực hiện trên bình
diện vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị cơ sở, tập trung nhiều hơn vào
chức năng quản lý của Nhà nước. Quyền tự chủ về các mặt của cơ sở ngày
càng mở rộng. Quá trình phi tập trung hoá trong quản lý kinh tế là một xu
hướng vận động rõ nét hiện nay.
Năm là, về phân phối có sự đổi mới sâu sắc về tư duy và chỉ đạo thực
hiện. Cùng với sự xuất hiện nền kinh tế thị trường, chúng ta không chỉ phân
phối theo tiêu chuẩn duy nhất là lao động và phúc lợi xã hội như thời kỳ bao
cấp trước đây. Sự bổ sung quan trọng mới về chất là phân phối theo mức
đóng góp về vốn trong hoạt động sản xuất,kinh doanh. Thu nhập đa dạng và
không hạn chế về số lượng tuyệt đối, mà tuỳ thuộc vào hiệu quả sản xuất,

kinh doanh, đòi hỏi Nhà nước phải điều tiết để đảm bảo công bằng xã hội.
Hoạt động này càng có hiệu quả. Tuy nhiên, việc Nhà nước kiểm soát được
các nguồn thu nhập cá nhân để điều tiết còn là một vấn đề nan giải.
Sáu là, tiến bộ và công bằng xã hội là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và
được thực hiện tích cực nhằm hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường và đảm
24


×