Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.05 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................... 2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI..................................................................................2
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU...............................................3
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.............................................................................4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................4
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI.........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG................................................................................. 5
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..................................................5
1.1. HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN........................................................................5
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN...............................................................5
1.2.1. Khái niệm............................................................................................5
1.2.2. Đặc điểm..............................................................................................6
1.2.3. Nội dung..............................................................................................7
1.3. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT
BẢN................................................................................................................... 7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY................................................16
2.1. THÀNH TỰU...........................................................................................16
2.1.1. Về công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự
nghiệp xuất bản...........................................................................................16
2.1.2. Về công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật................18
2.1.3. Về công tác đọc kiểm tra xuất bản phẩm và xử lý vi phạm...........19
2.1.4. Về công tác tài trợ và đặt hàng xuất bản phẩm..............................19
2.1.5. Về các công tác khác.........................................................................20
2.2. HẠN CHẾ, YẾU KÉM.............................................................................22
2.2.1. Về công tác xây dựng pháp luật.......................................................22
2.2.2. Về công tác tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm............23
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ


NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
......................................................................................................................... 26
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................... 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................29

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Xuất bản vừa là hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất, vừa là hoạt động
sáng tạo ra giá trị tinh thần trong xã hội. Vì thế, nó là một hoạt động mang
tính đặc thù. Ở nước ta, hoạt động xuất bản giữ vai trò quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội…; đặt dưới sự quản
lý của Đảng và Nhà nước, hoạt động theo định hướng của Đảng, thực hiện
theo chức năng nhiệm vụ do Nhà nước quy định. Hoạt động xuất bản là kênh
thông tin quan trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, góp phần ổn định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân
trí, đời sống tinh thần của nhân dân... Bên cạnh việc tìm cách để kinh doanh
có lãi trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động
xuất bản luôn phải đặt nhiệm vụ chính trị, tư tưởng lên hàng đầu. Nếu không
đảm bảo được điều đó, hoạt động xuất bản sẽ đi chệch hướng, đánh mất tính
đặc thù của mình.
Vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta vô
cùng quan trọng, đặc biệt là trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, hoạt động xuất
bản đang đứng trước rất nhiều thời cơ và thách thức. Các nhà xuất bản phải
biết làm thế nào để tận dụng cơ hội và tìm cách vượt qua những khó khăn, thử
thách. Trong điều kiện đó, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản càng
cần phải tăng cường hơn nữa để hoạt động xuất bản phát triển ngày một đi lên

theo bước phát triển của xã hội, hòa nhập với thế giới.
Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện
nay vẫn còn nhiều hạn chế: Mô hình tổ chức và cơ chế chính sách cho hoạt
động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động xuất bản có nhiều khó khăn, thách
thức, một số nhà xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ
chức năng, nhiệm vụ chính trị, văn hóa; xuất hiện một số xuất bản phẩm có
nội dung không lành mạnh, không phù hợp với truyền thống văn hóa Việt
2


Nam, bị dư luận phê phán; một bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém
năng động, còn nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được
ngăn chặn, xử lý kịp thời, thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt
chẽ, hệ thống phát hành xuất bản phẩm Nhà nước không được quan tâm, củng
cố đúng mức, đang có nguy cơ bị thu hẹp, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa.
Từ thực tế trên, tôi đã chọn đề tài quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất bản để kết thúc học phần quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trọng yếu
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

2.1. Mục đích
- Tìm hiểu vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay.
- Đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong
hoạt động xuất bản.
2.2. Nhiệm vụ
- Đưa ra khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung quản lý nhà nước đối
với hoạt động xuất bản.

- Đánh giá thành tựu và hạn chế trong thực tế quản lý nhà nước với hoạt
động xuất bản ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước với hoạt
động xuất bản ở Việt Nam hiện nay.

3


3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Hoạt động xuất bản gồm 3 lĩnh vực: xuất bản, in, phát hành. Mỗi lĩnh
vực có đặc trưng riêng, song không thể tách rời nhau. Bởi thế phải nghiên cứu
việc quản lý nhà nước trên cả ba lĩnh vực, nhưng lấy việc nghiên cứu quản lý
nhà nước về xuất bản, trong đó xuất bản sách là trọng tâm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tiểu luận sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, phương pháp thu thập, phân tích số
liệu, phương pháp diễn giải vấn đề…
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài gồm có 3 chương:
- Chương I: Vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay
- Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay
- Chương III: Những giải pháp để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
trong hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay


4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I

VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN

Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản
xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người nhằm giới thiệu tri thức
thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn
hoá nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân
trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao
lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh chống mọi tư
tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN

1.2.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước có thể hiểu là “sự tác động, tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người; duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật để thực
hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Quản lý nhà nước có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là hoạt động của toàn thể bộ máy
nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Như vậy, hoạt động

của tất cả các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân các cấp) đều là hoạt động quản lý nhà nước.
5


Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người do các cơ quan hành chính Nhà nước (còn gọi là cơ quan
quản lý Nhà nước) thực hiên để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội
và trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản có thể hiểu như sau:
- Theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là toàn
bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm điều chỉnh hoạt
động xuất bản, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong hoạt động xuất bản, bảo vệ
pháp luật xuất bản, nhằm đạt được các mục tiêu trong hoạt động xuất bản mà
Nhà nước đã đề ra.
- Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là hoạt
động của Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh
và các cơ quan quản lý chuyên môn về xuất bản trong việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật xuất bản (văn bản dưới luật), dựa trên cơ sở pháp luật
để quản lý hoạt động xuất bản như: đăng ký kế hoạch xuất bản; nhận, đọc,
kiểm tra nội dung xuất bản phẩm lưu chiểu; xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp xuất bản... đồng thời thực hiện kiểm
tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong
hoạt động xuất bản.
1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là mở đường cho
hoạt động sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học để công
bố dưới hình thức xuất bản phẩm.

Thứ hai, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là bảo tồn, phát
triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến
bộ và tiến bộ về khoa học - công nghệ của nhân loại.

6


Thứ ba, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là quản lý thuộc
lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Có thể nói, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là quản lý hoạt
động kinh tế trong văn hóa, tư tưởng, đồng thời quản lý hoạt động văn hóa, tư
tưởng trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được quản
lý một cách hài hòa, đảm bảo cho xuất bản hoạt động đúng quy luật, phát triển
theo trật tự của pháp luật.
1.2.3. Nội dung
Theo Điều 8 Luật Xuất bản 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008), nội dung
quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản gồm có:
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp xuất
bản; ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách
về hoạt động xuất bản.
- Quản lý công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong
hoạt động xuất bản; đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về hoạt
động xuất bản.
- Quản lý hợp tác quốc tế trong hoạt động xuất bản.
- Tổ chức đọc xuất bản phẩm lưu chiểu.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật trong hoạt động xuất bản.
- Thực hiện công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động xuất bản;
tuyển chọn và trao giải thưởng đối với xuất bản phẩm có giá trị cao.
1.3. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

XUẤT BẢN

Thứ nhất, quản lý nhà nước định hướng mục tiêu hoạt động của
ngành xuất bản và xây dựng chiến lược ngành.
Ngành xuất bản nói chung và các Nhà xuất bản nói riêng hoạt động theo
định hướng mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Hàng năm, ngành xuất bản đều tổ
7


chức Hội nghị Tổng kết ngành và đề ra định hướng, mục tiêu trong năm tiếp
theo. Trong “Báo cáo Tổng kết hoạt động xuất bản năm 2010 và phương
hướng nhiệm vụ năm 2011”, Cục Xuất bản đã đề ra các nhiệm vụ và mục tiêu
cụ thể cho toàn ngành xuất bản như sau:
Đối với Nhà xuất bản:
- Xuất bản sách, tài liệu tuyên truyền, nghiên cứu, học tập, quán triệt,
triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI với nhiều thể loại phong phú,
thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng để sớm đưa Nghị quyết vào
cuộc sống.
- Xuất bản sách, tài liệu tuyên truyền, phục vụ công tác bầu cử Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp.
- Lựa chọn để xuất bản được nhiều tác phẩm phục vụ cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các xuất bản
phẩm phục vụ kỷ niệm “100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước”
(5/6/1911-5/6/2011).
- Xuất bản các đề tài về kinh tế, quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, pháp
luật… phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế giai đoạn 2011 – 2015.
- Bên cạnh các đề tài mang tính thời sự, mỗi Nhà xuất bản cần tập trung
xuất bản những bộ sách, loại sách, tủ sách chuyên sâu và có nét đặc trưng để
hình thành thương hiệu riêng của từng Nhà xuất bản.
- Tích cực tham gia các Triển lãm, Hội chợ sách trong và ngoài nước;

tham gia Giải thưởng Sách Việt Nam lần thứ VII.
- Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình “Mục tiêu quốc gia đưa
thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” đã được
Quốc hội khóa XII thông qua.
- Thực hiện và triển khai có hiệu quả việc xuất bản các văn hóa phẩm
phục vụ năm mới 2012 và Tết cổ truyền dân tộc, trong đó chú trọng việc xuất
bản lịch blốc với nhiều thể loại phong phú, hấp dẫn.
Đối với cơ quan chủ quản:
8


- Thực hiện đúng các quy định của Luật Xuất bản về vai trò, trách nhiệm
của cơ quan chủ quản đối với hoạt động của Nhà xuất bản, nhất là khâu xét
duyệt kế hoạch xuất bản, thẩm định nội dung, cấp vốn để Nhà xuất bản hoạt
động đúng tôn chỉ, mục đích và đúng định hướng của Đảng.
- Xây dựng Quy hoạch cán bộ, kiện toàn bộ máy Nhà xuất bản, trong đó
tập trung và có kế hoạch bố trí các nhân sự chủ chốt của Nhà xuất bản theo
đúng quy định của Đảng và Nhà nước; Quyết định sắp xếp loại hình tổ chức
hoạt động của nhà xuất bản sao cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và yêu
cầu của công tác xuất bản trong tình hình mới.
- Tăng cường hơn nữa sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước trong
việc phát hiện xử lý kịp thời các xuất bản phẩm sai phạm của Nhà xuất bản,
đồng thời có cơ chế tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn, giúp nhà xuất bản phát
triển.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thành các văn bản quy phạm pháp luật trong
hoạt động xuất bản như: Nghị định về xuất bản, phát hành xuất bản phẩm trên
mạng internet và các thiết bị kỹ thuật số; Thông tư lưu chiểu xuất bản phẩm;
Thông tư Liên kết trong hoạt động xuất bản; Thông tư Quy định hoạt động
của Văn phòng đại diện tại Việt Nam của Nhà xuất bản, tổ chức phát hành

xuất bản phẩm nước ngoài; Thông tư Quy định chi tiết về đăng ký và xác
nhận đăng ký kế hoạch xuất bản.
- Thông qua các đề án cụ thể để thực hiện có hiệu quả thông báo số
289/TB-TW ngày 4/12/2009 của Ban Bí thư về “xây dựng mô hình Nhà xuất
bản trước yêu cầu mới”, trong đó tiếp tục kiến nghị với các cơ quan chức
năng để Thủ tướng ký ban hành 02 Quyết định về Loại hình tổ chức hoạt
động, Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Nhà xuất bản; Xây dựng Quyết
định trình Thủ tướng về chính sách ưu đãi đầu tư trong hoạt động xuất bản.
- Xây dựng Đề án cung cấp xuất bản phẩm theo chương trình mục tiêu
quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải
9


đảo đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2331/QĐ-TTg
ngày 20/12/2010 và giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai tới các
Nhà xuất bản trong năm 2011.
- Hoàn thành và trình Chính phủ ký ban hành Quy hoạch phát triển
Ngành Xuất bản – In – Phát hành đến năm 2020 phù hợp với sự phát triển của
đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án thành lập “Quỹ hỗ trợ
xuất bản Việt Nam”.
- Phối hợp với Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức Giải thưởng Sách Việt
Nam lần thứ VII; Tổ chức có hiệu quả các cuộc Triển lãm – Hội chợ sách
quốc tế trong và ngoài nước.
- Tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn về xuất bản và
các lớp tập huấn về Luật Xuất bản và các văn bản quy phạm trong hoạt động
xuất bản mới được ban hành.
- Tăng cường, phối hợp các cơ quan chức năng, đội liên ngành phòng
chống in lậu thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời những vi phạm trong hoạt
động xuất bản.

Như vậy, dựa vào thực tế của điều kiện kinh tế, hoàn cảnh chính trị, văn
hóa, xã hội, Cục xuất bản đã đề ra mục tiêu hoạt động và chiến lược phát triển
của toàn ngành xuất bản trong năm 2011. Vai trò quản lý nhà nước đối với
hoạt động xuất bản ở phương diện này rất quan trọng có vai trò quyết định
cho toàn bộ hướng đi của hoạt động xuất bản nước ta trong từng thời kỳ cụ
thể.
Thứ hai, quản lý nhà nước triển khai thực hiện chủ trương, đường
lối; xác lập được trật tự xuất bản theo đúng định hướng của Đảng và Nhà
nước; điều tiết hoạt động xuất bản theo các quy phạm pháp luật.
Trong từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước, Đảng ta có những chủ trương, đường lối trong quản lý nhà nước đối với
hoạt động xuất bản. Sau khi những chủ trương, đường lối ra đời, các văn
10


bản pháp luật của Nhà nước sẽ thể chế hóa và ghi nhận các chủ trương,
đường lối đó vào trong các chế định, các quy định pháp luật. Khi các chủ
trương, đường lối của Đảng đã thể chế hóa vào pháp luật, một mặt, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện chúng trong thực tế bằng
các hoạt động chuyên môn. Mặt khác, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bảo vệ các quy định của pháp luật đó thông qua các hoạt động thanh tra,
giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động xuất bản. Khi chủ trương, đường lối của Đảng thay đổi, thì hoạt
động quản lý nhà nước lại bắt đầu thay đổi từ khâu sửa đổi, bổ sung các
văn bản, quy phạm pháp luật có liên quan, sau đó các hoạt động quản lý
nhà nước khác mới tiếp tục thay đổi theo.
Trong xu thế giao lưu và hội nhập quốc tế, việc giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia, các dân tộc là rất cần thiết. Đòi hỏi đã được đáp ứng từ việc ban
hành Luật Xuất bản 2004, thay thế Luật Xuất bản 1993 khi đó đã không còn
phù hợp. Theo sự thay đổi của xã hội, Luật Xuất bản đã không ngừng được

sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Xuất bản năm 2008, Nghị định 11/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 02
năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 111/2005/NĐ-CP
ngày 26 tháng 08 năm 2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Xuất bản. Đầu năm 2012, Bộ Thông tin và Truyền thông đã
trình Chính phủ Dự thảo Luật Xuất bản (sửa đổi), như thế, Luật Xuất bản
đang được hoàn thiện hơn để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng trong quản lý nhà
nước về xuất bản có vai trò rất quan trọng, làm tiền đề để thực hiện các vai trò
khác trong hoạt động quản lý nhà nước về xuất bản. Để quản lý hoạt động
xuất bản có hiệu quả, trước hết các chủ trương, chính sách phải phản ánh
được những đòi hỏi của thực tiễn khách quan, của xu thế phát triển; Luật Xuất
bản phải chặt chẽ để đảm bảo điều tiết hoạt động xuất bản đúng định hướng.

11


Thứ ba, quản lý nhà nước bảo vệ lợi ích cho các chủ thể tham gia
hoạt động xuất bản.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là phương tiện tạo lập môi
trường tự do sáng tạo, bình đẳng cho các chủ thể trong hoạt động xuất bản.
Với đặc trưng của lao động sáng tạo nói chung, đặc biệt là lao động sáng tạo
ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học thì nhu cầu về tự do sáng tạo,
bình đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi hỏi khách
quan. Tuy nhiên, tự do và bình đẳng trong hoạt động sáng tạo, công bố và phổ
biến tác phẩm phải trong khuôn khổ pháp luật. Ở đó, các chủ thể tham gia
hoạt động xuất bản sẽ được làm những gì pháp luật cho phép. Pháp luật quy
định những gì được phép làm đối với các cơ quan nhà nước, nhằm ngăn chặn
các hành vi lạm dụng, xâm hại đến quyền tự do, bình đẳng. Đồng thời, pháp
luật đề ra các nghĩa vụ tương ứng cho các chủ thể của hoạt động sáng tạo và

quản lý. Đó là hành lang pháp lý, là "cái khung" do pháp luật tạo lập. Tư
tưởng tự do ngôn luận của Hiến pháp Việt Nam, được thể hiện trong Luật
Xuất bản bằng chế độ không kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản là ý
tưởng nhân văn sâu sắc, mở đường cho tư duy sáng tạo. Như vậy, quản lý nhà
nước tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho tác giả và các tổ
chức tự do sáng tạo, bình đẳng trong hoạt động xuất bản.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản bảo vệ lợi ích hợp pháp
của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.
Hoạt động sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa tinh thần là loại lao động đặc
biệt. Các quốc gia trên thế giới đều coi các sản phẩm của trí tuệ là tài sản. Vì
vậy, các tác giả được bảo hộ quyền sở hữu. Berne là công ước quốc tế đầu
tiên về quyền tác giả, dưới sự điều hành của tổ chức quyền sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO) ra đời từ năm 1886 (là tổ chức của Liên hợp quốc từ 1974) để
bảo vệ quyền tác giả thuộc gần 100 nước thành viên.
Ở Việt Nam, pháp luật là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của những
người sáng tạo ra tác phẩm. Các quy định về quyền của người sáng tạo, người
12


quản lý và các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ các quyền đó, cùng với các
quy định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền
sở hữu tác phẩm. Các tác giả được Nhà nước tạo phương tiện để đấu tranh
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tranh chấp về quyền tác giả, các hành
vi xâm hại lợi ích vật chất và tinh thần của tác giả được xét xử tại Tòa án dân
sự. Như vậy, thông qua việc bảo hộ quyền tác giả, Nhà nước tiếp tục khuyến
khích năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để có nhiều sản phẩm văn
hóa tinh thần có giá trị phục vụ xã hội.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản chống thương
mại hóa xuất bản, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng xuất bản phẩm.
Khi nước ta bước sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, hoạt động xuất bản đã khởi sắc và có một diện mạo mới, phục vụ tốt
đời sống tinh thần của nhân dân với những xuất bản phẩm phong phú về nội
dung và hình thức. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường đã khiến cho các
chủ thể xuất bản chỉ chú ý tới các xuất bản phẩm có khả năng thanh toán, đẩy
hoạt động xuất bản tìm kiếm các xuất bản phẩm có khả năng mang lại lợi
nhuận cao mà không lường đến hậu quả chính trị, xã hội có thể xảy ra. Quản
lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là phải hạn chế đến mức tối đa các
hoạt động xuất bản chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, đặc biệt là phải
ngăn chặn xu hướng thương mại hóa hoạt động xuất bản. Nếu chúng ta quản
lý tốt hoạt động xuất bản, ngăn chặn được xu hướng thương mại hóa sẽ bảo
vệ được lợi ích của người tiêu dùng xuất bản phẩm. Họ được hưởng thụ các
xuất bản phẩm có chất lượng cao trong nội dung và hình thức. Như vậy, pháp
luật phải quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chuẩn về nội dung kỹ thuật, mỹ
thuật của xuất bản phẩm. Riêng nội dung, phải có những điều khoản cấm
đoán nhằm ngăn chặn những xuất bản phẩm độc hại, không có lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội...

13


Thứ năm, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản góp phần giữ
vững ổn định chính trị và trật tự xã hội; xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh.
Hoạt động xuất bản là lĩnh vực rất nhạy cảm về mặt chính trị, xã hội, là
phương tiện quan trọng trong đấu tranh giai cấp. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, việc đảm bảo nội dung xuất bản phẩm lành mạnh, phù hợp với pháp
luật, phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam là rất cần thiết.
Các sản phẩm văn hóa nói chung, xuất bản nói riêng thuộc hàng hóa
công cộng, được mọi tầng lớp nhân dân tiêu dùng, nó tác động trực tiếp đến ý
thức, tình cảm, suy nghĩ của từng người dân. Vì vậy, bằng những xuất bản

phẩm của mình, hoạt động xuất bản chuyển tải tới công chúng các ý tưởng
cao cả của giai cấp, về việc xây dựng một xã hội tương lai với một bộ máy
chính quyền vững mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và thịnh
vượng. Thông tin và giải đáp kịp thời các vấn đề quốc gia và quốc tế. Như
vậy, hoạt động xuất bản đã góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã
hội trong quá trình phát triển đất nước.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động xuất bản, Luật xuất bản
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã đề ra những chính sách cụ thể, như:
Chính sách đặt hàng; trợ cước vận chuyển; mua bản thảo những tác phẩm có
giá trị... Tất cả những chính sách đó nhằm đảm bảo cho mọi tầng lớp nhân
dân hiểu được mọi chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước
nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam phồn thịnh, hòa bình, ổn định.
Thứ sáu, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản góp phần thúc
đẩy quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế.
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế với phương
châm: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã thiết lập
quan hệ với nhiều nước, vùng lãnh thổ và tổ chức trên thế giới. Để quá trình
hợp tác, hội nhập quốc tế diễn ra thuận lợi, đạt mục đích đặt ra một cách tốt
nhất, hai bên đều phải tìm hiểu truyền thống văn hóa, mọi lĩnh vực đời sống
14


xã hội của nhau và cách tìm hiểu đạt hiệu quả cao và phổ biến là trao đổi các
xuất bản phẩm cho nhau. Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở Việt
Nam có vai trò giải quyết vấn đề này thông qua việc xác định rõ các tổ chức
quốc tế, cá nhân nước ngoài được xuất bản các tài liệu, tác phẩm tại Việt
Nam; điều kiện để các nhà xuất bản nước ngoài đặt văn phòng đại diện tại
Việt Nam; quy định rõ các thủ tục về xuất, nhập khẩu xuất bản phẩm.
Nhằm giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới, góp phần tuyên truyền
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Nhà nước ta khuyến khích các

nhà xuất bản, các cơ sở phát hành xuất bản phẩm xuất khẩu xuất bản phẩm ra
nước ngoài. Việc xuất khẩu các xuất bản phẩm hợp pháp ra nước ngoài không
phải xin phép các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản. Đây là
một điểm mới cơ bản nhằm đưa hoạt động xuất bản phát triển, góp phần thúc
đẩy quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế.
Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản vừa có vai trò tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất bản, các tổ chức, cá nhân nước ngoài làm
thủ tục đặt văn phòng đại diện, xuất bản các tài liệu, tác phẩm tại Việt Nam,
đồng thời giảm bớt các thủ tục hành chính để việc xuất khẩu các xuất bản
phẩm của Việt Nam ra nước ngoài đạt hiệu quả cao. Điều đó có ý nghĩa quan
trọng trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế của Việt Nam
với thế giới.

15


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. THÀNH TỰU

2.1.1. Về công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
sự nghiệp xuất bản
Dự thảo Quy hoạch ngành Xuất bản, In, Phát hành sách đến năm 2020
đã đưa ra các mục tiêu cơ bản, mục tiêu cụ thể, các nhiệm vụ, giải pháp cho
giai đoạn 2011 - 2020. Theo đó, ngành xuất bản phấn đấu năm 2015 đạt bình
quân 4 bản sách/ người /năm, năm 2020 đạt 5 bản sách/ người /năm, ngành
đạt trình độ của các nước phát triển tại châu Á. Xuất bản duy trì nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm từ 3 - 5% về số đầu sách, 5 - 8% về số bản sách,

sản phẩm xuất bản dưới dạng điện tử tăng từ 3 - 5%. Lĩnh vực in chuyển dịch
cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng sản lượng ấn phẩm có giá trị cao trong đó
sách khoảng 10 - 15%, báo chí 20 - 25%, bao bì nhãn hàng trên giấy khoảng
25%, quảng cáo 20 - 25%. Ngành phấn đấu năm 2015 đạt 1.500 tỷ trang in
13x19cm, năm 2020 đạt 2.000 tỷ trang trên các sản phẩm giấy. Tăng trưởng
bình quân hàng năm từ 10 - 12% về năng suất lao động, 10% về sản lượng
trang in, 5 - 10% thu nhập bình quân của người lao động. Ngành phấn đấu
phát hành sách đến 100% xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Kim ngạch
xuất khẩu xuất bản phẩm tăng gấp 3 lần so với năm 2009.
Quy hoạch cũng nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của từng lĩnh vực trong giai
đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Giai đoạn 2011 - 2015 sẽ hoàn
thành chuyển đổi mô hình tổ chức nhà xuất bản, xây dựng 2 trung tâm xuất
bản sách điện tử tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành Chương
trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo. Hoàn thành cổ phần hóa cơ sở in nhà nước, hoàn thành xây

16


dựng mới và khôi phục 201 cửa hàng sách cấp huyện miền núi, vùng sâu,
vùng xa thuộc khu vực III đặc biệt khó khăn…
Theo quy hoạch, các giải pháp được đề xuất bao gồm thành lập Quỹ hỗ
trợ xuất bản Việt Nam trong năm 2011 để chủ động đầu tư cho hoạt động xuất
bản, hỗ trợ kinh phí hiện đại hóa cơ sở vật chất cho một số nhà xuất bản Nhà
nước, đầu tư để hình thành chương trình sách quốc gia với số lượng tối thiểu
500 tên sách thuộc các lĩnh vực. Hiện đại hóa 3 trung tâm in tại Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các các trọng điểm in khác, cho phép
nước ngoài được đầu tư 100% vốn vào in bao bì, nhãn hàng hoá, nhà nước hỗ
trợ ngân sách để xây dựng một số trung tâm sách ở các thành phố lớn, hỗ trợ
cước vận chuyển sách, báo, tạp chí đến khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng xa,

vùng núi khó khăn, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất bản, in, phát hành sách. Đề nghị Quốc hội sửa
Luật Xuất bản vào năm 2012…
Nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2012 của toàn ngành được xác định gồm
các công việc như: Các cơ quan quản lý nhà nước sẽ chỉ đạo các nhà xuất bản
sách, tài liệu về kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm 2012; tổ chức hoạt
động và chỉ đạo các nhà xuất bản tài liệu, sách tuyên truyền nhân kỷ niệm 60
năm thành lập ngành Xuất bản; tập trung chỉ đạo các nhà xuất bản thực hiện
tốt xuất bản sách và Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở;
chủ trì, phối hợp với Hội Xuất bản Việt Nam tiến hành tổng kết, đánh giá việc
xuất bản lịch bloc 2012 và đề ra phương hướng xuất bản lịch bloc 2013; phối
hợp với các cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt
động xuất bản. Đối với các cơ quan chủ quản sẽ thực hiện đúng các quy định
của Luật Xuất bản về vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với hoạt
động của nhà xuất bản, nhất là khâu xét duyệt đề tài và điều kiện cơ sở vật
chất; tăng cường sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước phát hiện và xử lý
kịp thời các sai phạm trong hoạt động xuất bản, đồng thời có những cơ chế
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc giúp các nhà xuất bản phát triển.
17


2.1.2. Về công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
Năm 2010, Cục Xuất bản đã phối hợp với các cơ quan chức năng soạn
thảo trình Bộ Thông tin và Truyền thông ký, ban hành hoặc trình Chính phủ
các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định 110/2010/NĐ-CP ngày
9/11/2010 “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2005/CP ngày
26/8/2005 và Nghị định 11/2009/CP ngày 10/2/2009 của Chính phủ”; Thông
tư 02/2010/TT-BTTTT ngày 11/1/2010 “Quy định chi tiết một số điều của
Luật xuất bản”; Thông tư số 29/2010/TT-BTTTT ngày 30/12/2010 “Quy định
về việc cấp phép tài liệu không kinh doanh”; Thông tư Liên tịch số

04/2011/TTLT-BTTTT-BTC ngày 10/1/2011 về “Hướng dẫn thực hiện đặt
hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân sách nhà nước”.
Hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Quyết định
về “Loại hình tổ chức hoạt động nhà xuất bản”; “Chính sách thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với hoạt động xuất bản”.
Năm 2011, Cục Xuất bản và các cơ quan chức năng đã xây dựng và trình
Chính phủ ban hành Nghị định 72/2011/NĐ-CP ngày 23/8/2011 “Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26/8 /2005 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất
bản đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 11/2009/NĐ-CP ngày
10/2/2009 và Nghị định số 105/2007/NĐ-CP ngày 21/6/2007 của Chính phủ
về hoạt động in các sản phẩm không phải là xuất bản phẩm”; xây dựng Thông
tư liên tịch số 04/2011/TTLT-BTTTT-BTC ngày 10/01/2011 “Hướng dẫn thực
hiện đặt hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân sách nhà nước”; Thông tư
12/2011/TT-BTTTT ngày 27/5/2011 “Sửa đổi, bổ sung, thay thế một số quy
định của Thông tư số 02/2010/TT-BTTTT ngày 11/1/2010”; Thông tư
13/2011/TT-BTTTT ngày 06/6/2011 “Quy định về Văn phòng đại diện tại
Việt Nam của nhà xuất bản nước ngoài, tổ chức phát hành xuất bản phẩm
nước ngoài”; xây dựng đề án cung cấp xuất bản phẩm theo chương trình

18


“Mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo”; triển khai xây dựng đề án Luật Xuất bản sửa đổi năm 2012.
2.1.3. Về công tác đọc kiểm tra xuất bản phẩm và xử lý vi phạm
Qua đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu năm 2010 đã xử lý 69 cuốn
sách vi phạm của 23 nhà xuất bản với các hình thức khác nhau như: không tái
bản, tạm dừng phát hành để thẩm định nội dung, tạm dừng phát hành để sửa
chữa, đính chính: 60 cuốn; nhà xuất bản tự thu hồi: 9 cuốn. Ngoài ra, cơ quan

quản lý còn chuyển Thanh tra xử lý các xuất bản phẩm không thực hiện theo
đúng pháp luật xuất bản như: xuất bản trình bày dạng tạp chí, không đúng với
nội dung đăng ký kế hoạch xuất bản, không nộp lưu chiểu…
Đoàn Liên ngành phòng chống in lậu Trung ương phối hợp với các cơ
quan chức năng ở trung ương và địa phương đã tiến hành thanh tra, kiểm tra,
phát hiện và xử lý vụ in lậu lớn tại Công ty Cổ phần Hoa Mai, Công ty Cổ
phần phát hành sách thiết bị trường học Việt Nam, Công ty TNHH Minh
Tâm…
Năm 2011, qua đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu, Cục Xuất bản đã
xử lý 50 cuốn sách vi phạm của 18 nhà xuất bản, trong đó có 13 cuốn nhà
xuất bản đã phải thu hồi, ba cuốn chuyển Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền
thông xử phạt, 20 cuốn tạm đình chỉ phát hành để thẩm định, sửa chữa, đính
chính...
2.1.4. Về công tác tài trợ và đặt hàng xuất bản phẩm
Năm 2010, Cục xuất bản đã duyệt danh mục xuất bản phẩm đặt hàng cho
32 nhà xuất bản trung ương thực hiện 237 cuốn với số lượng 237.370 bản với
ngân sách Nhà nước là 10,5 tỷ đồng. Nội dung xuất bản phẩm đặt hàng tập
trung vào một số mảng đề tài trọng tâm như: tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kỷ niệm 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội; giới thiệu những thành tựu phát triển của đất nước sau 20 năm đổi
mới; sách phục vụ cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
19


Chí Minh; sách về biển đảo và chủ quyền quốc gia… Nhiều xuất bản phẩm có
giá trị được đầu tư xuất bản như: “Từ điển bách khoa giới thiệu đất nước và
con người Việt Nam” – Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, “Hồ Chí Minh toàn
tập” – Nhà xuất bản Văn học, “Bộ sách ảnh về 54 dân tộc Việt Nam” – Nhà
xuất bản Thông tấn…
Ngoài nguồn ngân sách của Nhà nước đặt hàng cho các nhà xuất bản

trung ương, một số bộ, ngành, địa phương còn bố trí nguồn ngân sách đặt
hàng (80 tỷ đồng) khác như: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền
thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Ủy ban Dân tộc và Miền núi, UBND
tỉnh Thanh Hóa, Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Đà
Nẵng… Đặc biệt là Dự án sưu tầm, biên soạn và xuất bản tủ sách về Thăng
Long – Hà Nội được UBND thành phố Hà Nội đầu tư 53 tỷ đồng.
2.1.5. Về các công tác khác
Năm 2010, toàn ngành xuất bản đã tham gia các Triển lãm, Hội chợ sách
trong nước và quốc tế, đặc biệt đã tổ chức thành công Triển lãm – Hội chợ
Sách Quốc tế - Việt Nam lần thứ III để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội với nhiều hoạt động phong phú và chất lượng. Triển lãm – Hội
chợ sách 2010 đã thực sự là một ngày hội tôn vinh văn hóa đọc và đã được
bình chọn là một trong 10 sự kiện nổi bật của ngành Thông tin và Truyền
thông năm 2010.
Phối hợp với Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức thành công Giải thưởng
Sách Việt Nam lần thứ VI và mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho biên tập viên
các nhà xuất bản; Phối hợp với cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và
Truyền thông để triển khai việc bồi dưỡng quản lý nhà nước về xuất bản cho
các Sở Thông tin và Truyền thông.
Hoàn thành 4 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu đề xuất
các giải pháp kỹ thuật và pháp lý nâng cao hiệu quả xử lý xuất bản phẩm vi
phạm”, “Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức và cơ chế chính sách nâng cao
20


hiệu quả hoạt động xuất bản”, “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp tăng cường
quản lý Văn phòng đại diện của nước ngoài tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh
vực xuất bản và phát hành xuất bản phẩm”, “Tiêu chuẩn kỹ thuật sách Việt
Nam”.
Trả lời các đơn thư khiếu nại về lĩnh vực xuất bản; Thỏa thuận với các cơ

quan chức năng bổ nhiệm và khen thưởng cho các nhà xuất bản.
Chỉ đạo các đơn vị trong ngành quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung
bị ảnh hưởng trong đợt lũ lụt lịch sử, đã trao tặng hàng vạn cuốn sách với giá
trị hàng tỷ đồng.
Năm 2011, các cơ quan chủ quản tham gia chấm giải sách phục vụ cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tại Ban
Tuyên giáo trung ương; phối hợp với Hội xuất bản Việt Nam tổ chức giải
thưởng Sách Việt nam lần thứ VII; tổ chức các lớp tập huấn Thông tư đặt
hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân sách Nhà nước và Thông tư quy định về
xuất bản tài liệu không kinh doanh tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; tham
gia Hội chợ sách quốc tế tại Trung Quốc, Nga, Đức…
Có thể thấy, với những thành tựu đạt được trong công tác quản lý nhà
nước về xuất bản đã làm cho hoạt động xuất bản gặt hái được nhiều thành
công trong những năm qua.
Năm 2010, tổng số sách toàn ngành đã xuất bản được 25.769 cuốn với
277,765 triệu bản, đạt 105% về cuốn và 102% về bản so với năm 2009. Trong
đó, 60 nhà xuất bản: 22.899 cuốn với 265,994 triệu bản, đạt 105,3% về cuốn,
102% về bản so với năm 2009; xuất bản nhất thời trong cả nước: 2.870 cuốn
với 11,771 triệu bản, đạt 101% về cuốn, 96,7% về bản so với năm 2009. Về
văn hóa phẩm: 32,561 triệu bản, đạt 104% so với năm 2009. Trong đó, số
lượng lịch blốc là 17 triệu bản.
Tổng vốn kinh doanh của toàn ngành: 1771,910 tỷ đồng, tăng 303,1% so
với năm 2009, trong đó: Vốn cố định tăng 541,6% (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia tăng 83,7%, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tăng 950%, Nhà xuất
21


bản Từ điển bách khoa tăng 275%...); Vốn khác (tự có, vay, liên doanh…)
tăng 86,7%. Tổng doanh thu toàn ngành 3622,358 tỷ đồng, tăng 149% so với
năm 2009. Nộp ngân sách 47,032 tỷ đồng, tăng 51,1% so với năm 2009. Lợi

nhuận sau thuế: Toàn ngành đạt 59,850 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2009.
Năm 2011, toàn ngành xuất bản được 27.542 cuốn sách với 293,723
triệu bản, tăng 7% về cuốn và 6% về bản so với năm 2010; xuất bản nhất thời
cả nước đạt 3.061 cuốn với 13,548 triệu bản, tăng 7% về cuốn, 15% về bản.
2.2. HẠN CHẾ, YẾU KÉM

2.2.1. Về công tác xây dựng pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách còn thiếu và chưa
đồng bộ nên chưa tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát triển.
Pháp luật hiện nay chưa theo kịp thực tiễn hoạt động xuất bản, đặc biệt là
trong lĩnh vực in. Năm 2004, cả nước chỉ có trên 160 cơ sở in công nghiệp.
Sau khi quá trình xã hội hóa hoạt động in ấn, đến nay đã có 1.500 cơ sở in
công nghiệp lớn, nhỏ. Tuy nhiên, việc quản lý đối với các cơ sở in lại không
cùng một khung pháp lý thống nhất. Trong số 1.500 cơ sở in thì chỉ có khoảng
400 cơ sở chịu sự điều chỉnh của Luật Xuất bản và Nghị định 105/2007/NĐCP của Chính phủ. 1.100 cơ sở in còn lại không bị quản lý bằng pháp luật
chuyên ngành in. Đó chính là kẽ hở, dẫn tới việc quản lý 1.100 cơ sở in gần
như bị buông lỏng. Bởi vậy, tình trạng in lậu, in nối bản có điều kiện bùng
phát.
Do thiếu các chế định và công cụ pháp lý cần thiết, nên công tác quản lý
nhà nước, thanh tra, kiểm tra các cơ sở in này gặp nhiều khó khăn. Việc xử lý
của cơ quan quản lý nhà nước đối với những xuất bản phẩm sai phạm không
những không phát huy tác dụng, mà còn bị các cơ sở phát hành lợi dụng để
thu lợi bất hợp pháp.
Nhiều sai phạm hiện nay xuất phát từ việc Luật quy định thiếu chặt chẽ
như sách in lậu tràn lan. Sách trong nhà xuất bản chưa xong thì bên ngoài đã
22


có. Hiện các nhà xuất bản muốn ra cuốn sách phải đặt hàng tác giả. Họ hoàn
thiện trong vài tháng trời, rồi thông qua các công đoạn kiểm duyệt, biên tập

khắt khe, trong khi cơ chế nhuận bút quá thấp khiến nhiều cây viết nổi tiếng
chuyển sang viết báo.
Chưa có những quy định cụ thể trong việc quản lý hoạt động xuất bản
sách điện tử, gây khó khăn trong việc quản lý.
2.2.2. Về công tác tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm
Thứ nhất, trong công tác đăng ký kế hoạch đề tài
Chưa cương quyết trong việc xác nhận đăng ký kế hoạch xuất bản ở một
số đề tài sai chức năng, nhiệm vụ như các sách phóng sự xã hội, tôn giáo,
phong thủy, tâm linh. Hiện tượng đăng ký kế hoạch xuất bản không phù hợp
với tôn chỉ, mục đích của nhà xuất bản vẫn chưa được khắc phục.
Năm 2010, các nhà xuất bản đăng ký kế hoạch xuất bản nhiều, được xác
nhận 52.829 cuốn, thực hiện 17.344. Một số nhà xuất bản đăng ký kế hoạch
xuất bản nhiều nhưng thực hiện rất thấp như: Đại học Cần Thơ (28%), Thời
đại (26%), Lao động (23%), Nghệ An (21%), Đà Nẵng (21%), Thuận Hóa
(20%), Hồng Đức (17,2%), Đại học Huế (17%), Thanh Hóa (17%), Văn học
(9,7%), Âm nhạc (6,7%), Thanh niên (3%)…
Năm 2011, các nhà xuất bản đăng ký kế hoạch xuất bản 58.065 cuốn,
được xác nhận 55.988 cuốn, thực hiện 19.888 cuốn, chỉ đạt 36% so với đăng
ký... Một số nhà xuất bản đăng ký kế hoạch xuất bản nhiều nhưng kết quả
thực hiện thấp, như Nhà xuất bản Thanh Niên (4,4%), Ðại học Công nghiệp
TP Hồ Chí Minh (7,4%), Ðồng Nai (9,3%), Ðại học Sư phạm TP Hồ Chí
Minh (9%), Lao động (10%), Văn học (10%), Nông nghiệp (13%)...
Điều này thể hiện việc đăng ký kế hoạch xuất bản mang tính “xếp chỗ”,
chỉ đặt tên thể loại đề tài mà không có tên tác phẩm cụ thể, gây lãng phí thời
gian và các chi phí đối với cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước về
xuất bản.
23


Thứ hai, trong thực hiện lưu chiểu xuất bản phẩm

Trong hai năm 2010 - 2011,mặc dù đã có tiến bộ trong việc nộp lưu
chiểu xuất bản phẩm nhưng hiện tượng nộp lưu chiểu chậm, chưa nộp lưu
chiểu đã phát hành vẫn còn tồn tại ở một số nhà xuất bản như: Lao động,
Thanh niên, Nông nghiệp, Văn hóa – Thông tin, Thanh Hóa, Đà Nẵng… (văn
bản báo cáo sách nộp lưu chiểu của nhà xuất bản so với thống kê sách nộp lưu
chiểu tại Cục Xuất bản còn có sự chênh lệch, chủ yếu vẫn là ở mảng sách liên
kết).
Một số Sở Thông tin và Truyền thông vẫn cấp giấy phép xuất bản tài liệu
không kinh doanh quá thẩm quyền và chưa nộp lưu chiểu về Cục Xuất bản
theo quy định pháp luật về xuất bản.
Thứ ba, trong quản lý hoạt động liên kết xuất bản
Theo ông Nguyễn Thế Kỷ - Phó ban Tuyên giáo Trung ương: “Luật Xuất
bản quy định rõ quá trình liên kết, nhưng không ít nhà xuất bản lại ủy thác
toàn bộ cho đơn vị liên kết, không kiểm soát nội dung, biến nhà xuất bản trở
thành nơi bán giấy phép”.
Trên thực tế, vấn đề liên kết trong hoạt động xuất bản đang vượt khỏi
tầm kiểm soát của chính các nhà xuất bản, cũng như các cơ quan quản lý nhà
nước. Ðó là tình trạng nhiều nhà xuất bản yếu năng lực, dẫn tới việc buông
lỏng quản lý, không thực hiện đúng quy trình xuất bản sách liên kết theo quy
định của Luật Xuất bản; không thể giám sát đối tác liên kết, thậm chí phó thác
hoàn toàn sản phẩm liên kết cho đối tác quyết định. Ðặc biệt, khâu đọc duyệt
trước khi phát hành không được chú trọng nên vẫn còn một số xuất bản phẩm
sai sót về nội dung và hình thức nhưng vẫn được phát hành.
Thứ tư, trong việc bảo vệ bản quyền và chống nạn in lậu
Nhiều năm qua, xâm phạm bản quyền và sách lậu luôn là một “vấn nạn”
nhức nhối, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của các nhà làm sách và làm
đau đầu các cơ quan chức năng. Ðó là một thực tế đáng buồn khi mà Việt
Nam đã gia nhập Công ước Bern từ năm 2004. Và việc Khối liên minh quốc
24



tế về sở hữu trí tuệ (IIPA) xếp Việt Nam vào một trong các quốc gia vi phạm
bản quyền nhiều nhất chính là sự cảnh báo rất đáng quan tâm. Mặc dù việc
triển khai thực hiện Thông tư liên tịch của Bộ Thông tin và Truyền thông và
Bộ Công an trong phòng chống in lậu bước đầu có hiệu quả nhưng xét toàn
cục vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nạn in lậu sách từ gốc.
Những hạn chế, tồn tại trên đòi hỏi các nhà xuất bản chủ động rút kinh
nghiệm, khắc phục những yếu kém. Mặt khác, cơ quan quản lý, cơ quan chủ
quản cần nghiên cứu để đề ra các biện pháp hữu hiệu, thiết thực giúp các nhà
xuất bản hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

25


×