Tải bản đầy đủ (.doc) (190 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tập bài GIẢNG CHI TIẾT LỊCH sử TRIẾT học THEO CHUYÊN đề, SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.08 KB, 190 trang )

1

Chuyên đề 1
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VỚI TÍNH CÁCH LÀ MỘT KHOA HỌC
II. Mô tả nội dung chuyên đề
Ở bậc đại học, chuyên đề đã trang bị cho người học những đơn vị kiến
thức chung, cơ bản về triết học và lịch sử triết học. Bậc đào tạo thạc sỹ không
đi vào các vấn đề chung của triết học, mà tập trung trang bị hệ thống kiến
thức có tính chất chuyên sâu về đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và ý nghĩa
nghiên cứu lịch sử triết học. Qua đó, góp phần củng các môn học khác của
chuyên ngành để người học hoàn thành mục tiêu đào tạo học vấn thạc sỹ
chuyên ngành triết học.
III. Mục tiêu, yêu cầu bài giảng:
1. Mục tiêu: Trang bị những kiến thức ở trình độ nâng cao và chuyên sâu
làm cơ sở để người học tiếp cận, nắm vững toàn bộ nội dung môn học và tiếp cận
đến các kiến thức triết học chuyên ngành. Qua đó, xác lập căn cứ khoa học để
khẳng định triết học Mác - Lênin là đỉnh cao của tư tưởng triết học nhân loại; đồng
thời là học thuyết triết học khoa học, cách mạng nhất trong thời đại ngày nay.
2. Yêu cầu:
- Nắm vững đối tượng, nhiệm vụ của lịch sử triết học.
- Nắm vững phương pháp và ý nghĩa nghiên cứu.
- Nắm vững phân kỳ của lịch sử triết học, qua đó thấy được sự phát
triển đến đỉnh cao của tư tưởng triết học Mác - Lênin.
VI. Nội dung chi tiết bài giảng:
1. Triết học và lịch sử triết học
1.1. Triết học
Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI (tr.CN) với
các thành tựu triết học rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Hy Lạp, Trung
Quốc và Ấn Độ



2

Triết học, theo gốc từ chữ Hán là “trí” nghĩa là sự hiểu biết, nhận thức
đạo lý sâu rộng và đạo lý làm người. Trong quan niệm của người Ấn Độ, triết
học là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựan trên lý trí, là con đường
suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Theo tiếng Hy Lạp, triết học
là philosophia, nghĩa là yêu thích sự thông thái. Trong quan niệm của người
Hy Lạp cổ dại, nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận
thức được chân lý và làm sáng tỏ bản chất của sự vật.
Như vậy, dù ở phương Đông, hay phương Tây, ở thời kỳ đầu người ta
đều quan niệm triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc thế về
giới và nắm bắt được chân lý, cùng bản chất của sự vật.
Theo quan điểm mácxít, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội,
triết học là hình thái ý thức xã hội đặc thù bao gồm những học thuyết chung
nhất về tồn tại và nhận thức; là khoa học về những qui luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội, tư duy và thái độ của con người đối với thế giới.
Triết học có cả một lịch sử phát triển lâu dài, trong qua trình phát triển
đó đã hình thành nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về triết học. Với tính
cách là một khoa học, triết học có đối tượng, phạm vi nghiên cứu riêng; có
đặc thù về hệ thống tri thức và những người chuyên làm triết học; có phương
pháp nghiên cứu riêng.v.v. Triết học đi nghiên cứu thế giới trong tính chỉnh
thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối chỉnh thể đó (cả tự nhiên, xã hội và
bản thân con người). Bởi vậy có thể quan niệm rằng: Triết học là một hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Bất cứ khuynh hướng, trường phái triết học nào trong lịch sử cũng đều
phải đi vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học đặt ra. Vấn đề cơ bản của
triết học có hai mặt: Mặt thứ nhất là xem xét vấn đề quan hệ giữa vật chất và
ý thức, tồn tại và tư duy cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào. Tuỳ thuộc vào cách giải quyết vấn đề trên mà các học thuyết triết học

khác nhau trong lịch sử chia thành hai trào lưu cơ bản là chủ nghĩa duy vật và


3

chủ nghĩa duy tâm. Mặt thứ hai, là vấn đề khả năng nhận thức của con người.
Chủ nghĩa duy vật thừa nhận con người có thể nhận thức được thế giới. Chủ
nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức khác nhau, hoặc là giải thích duy tâm quá
trình nhận thức của con người; hoặc là phủ nhận khả năng nhận thức thế giới
của con người.
Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học là giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại. Theo đó, cấp độ hai của vấn đê cơ bản đó
là giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. ở cấp độ này
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa phép biện
chứng và phép siêu hình được biểu hiện một cách đậm nét trong quá trình phát
triển của lịch sử triết học. Ngày nay cuộc đấu tranh này đang tiếp tục diễn ra
gay gắt trong điều kiện mới của lịch sử và đòi hỏi những người mácxít phải đấu
tranh không khoan nhượng chống lại mọi sự xuyên tạc lịch sử, bảo vệ bản chất
khoa học và cách mạng của triết học Mác trong điều kiện lịch sử hiện nay.
1.2. Lịch sử triết học
Triết học được ra đời từ khi nào thì lịch sử triết học được ra đời từ khi đó.
Tuy nhiên, thời kỳ đầu nó chưa được nhận thức, đến thời kỳ cận đại lịch sử triết
học được Hêghen nghiên cứu dưới lập trường duy tâm và tới đây lịch sử triết học
mới bắt đầu tồn tại với tính cách là một môn học thuộc khoa học triết học.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, lịch sử triết học là toàn bộ
quá trình phát sinh, phát triển của các tư tưởng triết học, các khuynh hướng,
các hệ thống triết học qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội, quá
trình phát sinh, phát triển đó có cơ sở hiện thực là tồn tại xã hội và xét đến
cùng là phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Nói cách khác lịch sử triết học là toàn bộ
tư tưởng triết học trong quá trình lịch sử của nó.

Với tính cách là một khoa học, lịch sử triết học là khoa học nghiên cứu
sự vận động, phát triển có quy luật của các tư tưởng triết học và nghiên cứu
lôgíc nội tại của các khuynh hướng, các hệ thống triết học tiêu biểu trong lịch
sử. Nói cách khác, lịch sử triết học là khoa học nghiên cứu triết học trong sự
vận động, phát triển có quy luật của nó.


4

Đặc điểm nổi bật của lịch sử triết học là có sự giao thoa, kết hợp giữa
khoa học lịch sử và triết học. Đòi hỏi tiếp cận, nghiên cứu lịch sử triết học
phải am hiểu cả lịch sử và triết học. Trước hết, phải bảo đảm được yêu cầu về
tính chân thực, khách quan theo thời gian và làm nổi bật các sự kiện thuộc về
triết học. Mặt khác, phải đáp ứng được yêu cầu của khoa học triết học mà
quan trọng nhất là tính lí luận của các vấn đề lịch sử. Đòi hỏi của lịch sử triết
học là phải có sự khái quát cao cả về lí luận và thực tiễn.
Mặc dù vậy, so với khoa học lịch sử thì lịch sử triết học không nghiên
cứu tất cả các sự kiện trong chiều dài lịch sử, mà chỉ nghiên cứu các sự kiện
có tính chất điển hình liên quan đến tư tưởng triết học. So với triết học, lịch sử
triết học không đi sâu vào nội dung tư tưởng triết học của một trường phái,
một học thuyết triết học mà chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản để làm rõ
quá trình phát sinh, phát triển; những cống hiến và hạn chế của nó.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của lịch sử triết học
2.1. Đối tượng của lịch sử triết học
C. Mác là người đầu tiên đặt cơ sở hiện thực cho lý luận về lịch sử
triết học, nhờ đó lịch sử triết học trở thành một khoa học thật sự. Từ đây,
lịch sử triết học không phải chỉ mô tả những sử liệu thông thường, mà quan
trọng hơn là chỉ ra tính quy luật trong sự phát triển tư tưởng triết học.
Đối tượng của lịch sử triết học là nghiên cứu những quy luật phát
triển của tư tưởng triết học và lôgíc nội tại quá trình phát sinh, phát triển

của các hệ thống triết học trong lịch sử. Theo đó, lịch sử triết học hướng
vào giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi của nó là: quá trình phát sinh, phát
triển của các trường phái, môn phái triết học trong lịch sử; các vấn đề của
triết học và cách giải quyết chúng; sự phát sinh, phát triển của các phạm
trù, khái niệm triết học trong lịch sử; các vấn đề có tính qui luật trong quá
trình phát triển của lịch sử triết học.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, lịch sử triết học có hai
nhóm tính quy luật: nhóm tính quy luật phản ánh và nhóm tính quy luật giao


5

lưu. Nhóm tính quy luật phản ánh, lịch sử triết học phản ánh các điều kiện
kinh tế, xã hội, sự phát triển của văn hoá và khoa học trong các giai đoạn lịch
sử khác nhau. Nhóm tính quy luật giao lưu bao gồm giao lưu đồng loại và
giao lưu khác loại. Giao lưu đồng loại bao gồm giao lưu theo lịch đại, qua đó
thấy được tính kế thừa, phát triển tư tưởng triết học nhân loại theo chiều dọc
của thời gian. Và giao lưu theo đồng đại, qua đó thấy được sự liên hệ, ảnh
hưởng, kế thừa, kết hợp các học thuyết triết học trong cùng một thời gian.
Giao lưu khác loại bao gồm giao lưu giữa triết học với các hình thái ý thức xã
hội khác, kể cả kế thừa các hình thái ý thức xã hội khác để phát triển và giao
lưu, ảnh hưởng giữa các hệ thống triết học khác nhau trong lịch sử.
Theo quan điểm mácxít, lịch sử tư tưởng triết học được phát sinh, phát
triển tuân theo những vấn đề có tính quy luật cơ bản sau:
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội. Dựa trên
nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, sự phát triển của tư tưởng
triết học trong lịch sử luôn phụ thuộc vào tồn tại xã hội, mà trước hết là phụ
thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất. Mặt khác, quan điểm tư
tưởng triết học là sự phản ánh nhu cầu phát triển của chính thực tiễn xã hội.

Do vậy, nó trực tiếp phụ thuộc vào thực tiễn đấu tranh giai cấp, đấu tranh
chính trị - xã hội trong lịch sử. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong xã hội cộng
sản nguyên thuỷ triết học chưa xuất hiện và cũng chưa có tư duy triết học, bởi
người nguyên thuỷ chưa đủ sức tách mình ra khỏi gới tự nhiên. Triết học chỉ
thực sự xuất hiện khi điều kiện kinh tế - xã hội phát triển; trong xã hội có sự
phân công thành lao động trí óc và chân tay; có sự phân chia giai cấp và đối
kháng giai cấp.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự
phát triển của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Trình độ phát triển của
tư duy triết học nhân loại phụ thuộc vào trình độ nhận thức chung của nhân
loại, tức là phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã


6

hội. Khoa học phát triển, vừa là cơ sở, điều kiện cho triết học phát triển.
Ngược lại triết học phát triển, vừa là kết quả, vừa là cơ sở cho sự phát triển
của các khoa học. Bởi vậy, với tính cách là một khoa học sự phát triển của
triết học tất yếu phải dựa vào sự phát triển của khoa học; mặt khác, triết học
lại có vai trò không thể thiếu đối với sự phát triển của các khao học cụ thể.
Cả điều kiện kinh tế -xã hội và trình độ phát triển khoa học, xét đến
cùng quyết định nội dung các luận thuyết triết học và trong chừng mực, quyết
định cả hình thức thể hiện tư tưởng triết học.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản - chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Đây là tính qui luật nội tại, xuyên suốt, quyết định trực tiếp
đến sự phát triển của triết học trong lịch sử. Thực tế cho thấy, quá trình phát
triển của triết học trong lịch sử, cũng đồng thời là quá trình đấu tranh liên tục
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong quá trình đấu tranh với
các học thuyết đối lập, mỗi học thuyết triết học cũng tự đấu tranh với bản thân

mình để vươn lên một trình độ mới. Quá trình đấu tranh giữa triết học duy vật
và triết học duy tâm trong lịch sử, cũng đồng thời là một quá trình giao lưu,
tác động giữa các trường phái, môn phái triết học với nhau. Đấu tranh giữa
duy vật và duy tâm là đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản nhất trong nội
dung tư tưởng triết học nhân loại. Thông qua cuộc đấu tranh nói trên mà triết
học của mỗi thời đại có sự phát triển mang tích độc lập tương đối so với sự
phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá và khoa học, làm cho mỗi hệ
thống triết học có thể "vượt trước" hoặc "thụt lùi" so với điều kiện vật chất
của thời đại đó. Đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là
"sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học, tạo thành động lực
bên trong lớn nhất của sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại, là bản chất
của toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học.


7

Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh giữa hai phương pháp nhận thức trong lịch sử là phương pháp
biện chứng và phương pháp siêu hình. Lịch sử có nhiều cách trả lời khác
nhau đối với vấn đề các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh ta tồn
tại như thế nào, nhưng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là
biện chứng và siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học cũng chính là
sự phát triển của trình độ nhận thức, của phương pháp tư duy nhân loại,
thông qua cuộc đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình. Đây cũng là sự
đấu tranh giữa hai mặt đối lập, tạo nên động lực bên trong của sự phát
triển tư tưởng triết học nhân loại. Đấu tranh giữa hai phương pháp nhận
thức biện chứng và siêu hình gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai thế giới
quan đối lập nhau là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm duy
tâm, nhưng không phải là đồng nhất.
Quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng triết học nhân loại phụ

thuộc vào sự kế thừa các tư tưởng triết học trong tiến trình lịch sử. Sự phát
triển của ý thức xã hội luôn mang tính kế thừa và do vậy, với tính cách là một
hình thái ý thức xã hội sự phát triển của tư tưởng triết học trong lịch sử cũng
luôn mang tính kế thừa. Đây là quy luật giao lưu tư tưởng triết học theo chiều
dọc của tiến trình lịch sử, là một phương thức tái tạo tư tưởng để qua đó triết
học không ngừng phát triển. Thực tế cho thấy, triết học của mỗi thời đại lịch
sử bao giờ cũng dựa vào tài liệu lịch sử của triết học các thời đại trước, lấy đó
làm tiền đề, làm điểm xuất phát cho hệ thống triết học của mình. Tuy vậy, bao
giờ nó cũng được chọn lọc, bổ sung và phát triển phù hợp với điều kiện lịch
sử mới. Đây chính là sự phủ định biện chứng, bao gồm duy trì những giá trị
tiềm thế và cải tạo có phê phán những thành tựu tư tưởng có giá trị, nghĩa là
sự kế thừa biện chứng trên con đường phát triển của lịch sử tư tưởng triết học.
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự liên
hệ, ảnh hưởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học trong mối quan
hệ dân tộc và quốc tế. Tư tưởng triết học nhân loại không phải là tổng số đơn


8

thuần của các hệ thống triết học hình thành trong từng nước riêng lẻ, tách rời,
độc lập với nhau. Những học thuyết triết học phát sinh và phát triển ở mỗi
nước, bằng các phương thức khác nhau, đều nằm trong mối quan hệ lẫn nhau
nhất định với những học thuyết triết học ở các nước khác, vừa chịu ảnh
hưởng, vừa tác động trở lại các học thuyết triết học khác. Đây chính là tính
quy luật về sự giao lưu cùng loại, cùng thời đại lịch sử của các tư tưởng triết
học khác nhau ở các vùng, miền, các quốc gia, dân tộc khác nhau. Sự phát
triển tư tưởng triết học là kết quả của sự thống nhất và liên hệ lẫn nhau giữa
các tư tưởng triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào mối
quan hệ với các tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ

thuật... Đây là một tính quy luật về sự giao lưu khác loại, giao lưu giữa hình
thái ý thức triết học với các hình thái ý thức xã hội khác. Đây cũng là một
biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong đó các hình thái ý
thức xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hình thái ý thức nào, tôn giáo
hay nghệ thuật, đạo đức hay pháp quyền... có ảnh hưởng lớn đến nội dung tư
tưởng triết học là tuỳ điều kiện lịch sử cụ thể. Song, trong nhiều trường hợp, hệ
tư tưởng triết học trở thành cơ sở lí luận của hệ tư tưởng chính trị, pháp quyền,
đạo đức, tôn giáo nghệ thuật. Ngược lại, các hệ tư tưởng khác loại này trở
thành cái biểu hiện của triết học. Nhờ sự giao lưu đồng loại và khác loại mà
một dân tộc có thể có trình độ phát triển kinh tế không cao, nhưng lại có trình
độ phát triển triết học khá cao, vượt xa các dân tộc khác. Đó là một thực tế lịch
sử.
Như vậy, lịch sử triết học với tính cách là một khoa học, là lịch sử vận
động, phát triển có qui luật của các tư tưởng triết học.
2.2. Nhiệm vụ của lịch sử triết học
Với tính cách là một khoa học, lịch sử triết học có các nhiệm vụ cơ bản sau:


9

Một là, đánh giá một cách khoa học các trào lưu triết học và vai trò, vị
trí của nó trong sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại; qui luật phát triển
của triết học trong lịch sử.
Hai là, có nhiệm vụ làm sáng tỏ sự phát triển của phép biện chứng và
những cống hiến của từng hình thức phép biện chứng trong lịch sử tư tưởng
triết học nhân loại.
Ba là, làm sáng tỏ những nguyên nhân, tính chất của những thay đổi về
đối tượng triết học trong lịch sử và hiện nay.
Bốn là, đấu tranh, phê phán không khoan nhượng đối với các thế lực
xuyên tạc lịch sử triết học từ mọi phía.

Năm là, đấu tranh bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và phát triển
triết học mácxít trong điều kiện mới của lịch sử.
3. Phân kỳ lịch sử triết học
3.1. Căn cứ phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học
Sự phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học phải được dựa trên lịch sử
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Bởi vậy, phải dựa chắc trên lý
luận hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác để phân chia các thời kỳ phát triển
của lịch sử triết học. Vì rằng, triết học là một bộ phận cấu thành của kiến trúc
thượng tầng xã hội và tất yếu phụ thuộc vào sự biến đổi của kiến trúc thượng
tầng đó. Khi một hình thái kinh tế - xã hội này được thay thế bởi một hình
thái kinh tế - xã hội khác, sẽ tất yếu dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng
tầng, trong đó có cả các quan điểm tư tưởng triết học.
Song, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có tính độc
lập tương đối trong quá trình phát triển của nó. Do vậy, quá trình phân chia
các thời kỳ của lịch sử triết học, cần chú ý đến logíc nội tại trong quá trình
phát triển của nó. Nghĩa là, phải xem xét sự phát triển của triết học trong mối
quan hệ của nó với các khoa học khác và diễn biến chung của nhận thức nhân
loại trong các thời kỳ lịch sử.


10

Sự phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học còn được qui định bởi các
bước ngoặt cách mạng do sự xuất hiện của các học thuyết triết học có tính vạch
thời đại. Theo đó, có thể phân chia thời đại triết học trước khi chủ nghĩa Mác xuất
hiện và và thời đại triết học sau khi chủ nghĩa Mác ra đời. Trong mỗi thời đại ấy
của lịch sử có thể phân chia thành các thời kỳ lớn trong sự phát triển của tư tưởng
triết học. Thậm trí, tương ứng với những bước phát triển kinh tế - xã hội, khoa học
nhất định, trong các thời kỳ lịch sử cụ thể ấy lại có các hình thức đấu tranh nhất
định giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

3.2. Những thời kỳ lớn của lịch sử triết học trước Mác và của triết
học mácxít
* Dựa trên những căn cứ xuất phát trên, có thể chia lịch sử triết học
trước Mác thành các thời kỳ lớn sau:
- Triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ.
- Triết học của xã hội phong kiến.
- Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại.
- Triết học cổ điển Đức.
* Lịch sử triết học mácxít được chia làm hai thời kỳ lớn:
- Thời kỳ C.Mác - Ph.Ăngghen
- Thời V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác.
4. Phương pháp và ý nghĩa của nghiên cứu lịch sử triết học
4.1. Nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu lịch sử triết học
Nhận thức khoa học phải phù hợp với quy luật khách quan. Từ tính
quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học, có thể rút ra những
yêu cầu có tính nguyên tắc phương pháp luận trong nghiên cứu lịch sử triết
học như sau:
Trước hết là nguyên tắc tính khách quan trong nghiên cứu lịch sử triết
học. Lịch sử tư tưởng triết học phụ thuộc vào lịch sử đời sống vật chất của xã
hội, trước hết là cơ sở kinh tế và thực tiễn đấu tranh giai cấp. Đồng thời tư


11

tưởng triết học tác động trở lại đối với điều kiện kinh tế - xã hội. Do vậy,
nghiên cứu sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phải chỉ ra được cơ
sở kinh tế - xã hội của nó và tôn trọng sự thật lịch sử. Phê phán quan điểm
duy tâm, coi triết học tự nó sản sinh ra tư tưởng triết học, tách khỏi các điều
kiện kinh tế - xã hội hiện thực. Tính khách quan gắn liền với tính khoa học
trong nhận thức toàn diện những đóng góp của các tư tưởng triết học khác

nhau, khắc phục tư tưởng chủ quan, phiến diện trong đánh giá các trào lưu
triết học.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học đòi hỏi phải dựa trên cơ sở
nguyên tắc tính đảng. Cần thấy rõ cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm là lôgíc nội tại, xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học. Khi
nghiên cứu mỗi mỗi học thuyết, trường phái, môn phái triết học phải căn cứ vào
nguyên tắc tính đảng để phân biệt đâu là chủ nghĩa duy, đâu là chủ nghĩa duy tâm.
Đồng thời cần nhận thức được, cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm là một
hình thức giao lưu tư tưởng triết học. Do vậy, không được đem đối lập một cách
giản đơn các học thuyết triết học mà phải thấy rõ phương diện giao nhau, tiếp
nhận nhau giữa các tư tưởng triết học trong những điều kiện nhất định. Bởi vậy,
phải đứng vững trên lập trường duy vật mácxít và phương pháp biện chứng duy
vật để nghiên cứu.
Tính đảng trong nghiên cứu lịch sử triết học gắn liền với tính chính trị,
tính giai cấp. Đằng sau cuộc đấu tranh giữa các đảng phái trong triết học là
cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưởng đối địch của các giai cấp trong xã hội.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học phải dựa vào nguyên tắc tính lịch
sử và lôgíc. Đây là phương pháp nghiên cứu có tính đặc thù của lịch sử triết
học, bởi lịch sử triết học vừa tồn tại với tư cách là khoa học lịch sử, vừa tồn
tại với tư cách là khoa học triết học, do đó nghiên cứu lịch sử triết học tất yếu
phải sử dụng phương pháp lịch sử và lôgíc. Xem xét các tư tưởng triết học
phải theo quan điểm lịch sử, gắn liền với kinh nghiệm lịch sử trong điều kiện
cụ thể. Phải dựng lại một cách trung thực và khách quan lịch sử phát triển của


12

cả triết học phương Đông và phương Tây với những nét đặc thù về nội dung
và phong cách tư duy vốn có của nó, phê phán thái độ đề cao hoặc hạ thấp,
thậm chí phủ định sạch trơn những di sản triết học của quá khứ. Quan điểm

lịch sử trong xem xét các tư tưởng triết học đòi hỏi nhìn nhận một học thuyết
triết học không phải là có gì mới so với hiện nay, mà có gì mới so với các học
thuyết trước kia. Xem xét mọi học thuyết triết học với tính cách là những bậc
thang nhất định trong quá trình nhận thức thế giới, đòi hỏi không được phép
hiện đại hoá nó, không cho phép gán ghép những tư tưởng mà họ không có và
không thể có. Trên cơ sở đánh giá lịch sử, chỉ ra được lôgíc nội tại trong quá
trình vận động, phát triển của lịch sử triết học. Tìm được sự liên hệ giữa quá
khứ và hiện tại, thấy được cội nguồn lịch sử và cả xu hướng phát triển, không
gò ép, không áp đặt, không xuyên tạc lịch sử theo ý muốn chủ quan nhằm
phục vụ mục đích chính trị nào đó.
Nghiên cứu lịch sử triết học phải trên nguyên tắc tính kế thừa. Xem xét
sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phải thấy được sự giao lưu,
ảnh hưởng của các tư tưởng triết học khác nhau và xác định được mối quan
hệ của nó với các hình thái ý thức xã hội khác, như: chính trị, pháp quyền, tôn
giáo, nghệ thuật..., thấy được sự xâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau giữa tư tưởng
triết học và các hình thái ý thức xã hội trong quá trình phát triển.
Lịch sử tư tưởng triết học cũng chính là lịch sử phát triển của nhận thức
nhân loại, cho nên trong sự phát triển của nó có mối liên hệ mật thiết và kế
thừa sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Quan điểm kế thừa đòi hỏi xem xét lôgíc phát triển nội tại của các
trường phái triết học với tích cách là một quá trình phủ định biện chứng, bao
gồm sự kế thừa, lọc bỏ, bổ sung và phát triển. Nguyên tắc kế thừa phải gắn với
nguyên tắc lịch sử, đòi hỏi phải xem xét những gì được kế thừa trong lịch sử,
xem xét mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, mối liên hệ giữa dân tộc và quốc
tế.


13

Nghiên cứu lịch sử triết học phải trên nguyên tắc tính thực tiễn. Phải

tìm được mối liên hệ giữa tư tưởng triết học với thực tiễn xã hội. Lịch sử triết
học là quá trình tư duy đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề mà nhu cầu thực
tiễn đòi hỏi phải trả lời về mặt nhận thức. Phải tìm cho được yêu cầu thực
tiễn, cơ sở thực tiễn của tư tưởng triết học. Nhu cầu thực tiễn là cơ sở cho tư
tưởng triết học phát triển. Ngược lại, sự tiến bộ về tư tưởng triết học là một
nguồn gốc lý luận cho sự tiến bộ trong thực tiễn, trong lịch sử của đời sống
xã hội.
4.2. Ý nghĩa của nghiên cứu lịch sử triết học
Lịch sử triết học có khả năng bao quát lịch sử xã hội sâu rộng dưới hình
thức lý luận, cho con người khả năng hiểu biết và khái quát sự phát triển lịch
sử tư tưởng và lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Do vậy, nghiên cứu
lịch sử triết học giúp mỗi người phát triển trí tuệ của mình bằng cách thâu tóm
trí tuệ của mỗi thời đại lịch sử được kết tinh trong triết học.
Lịch sử triết học là lịch sử phát triển tư duy của nhân loại dưới hình
thức lý luận triết học, giúp nắm được kinh nghiệm của sự nhận thức khoa
học, sự hình thành và phát triển của phương pháp nhận thức khoa học trong
lịch sử. Do vậy, nghiên cứu lịch sử triết học còn là cơ sở để xây dựng phương
pháp nhận thức khoa học, phương pháp tư duy đúng đắn; rèn luyện năng lực
tư duy độc lập, phê phán, biết tranh luận, tự tranh luận, kế thừa, lọc bỏ, phát
triển nhận thức khoa học; xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa
học, thoát khỏi ảnh hưởng tự phát của quan điểm duy tâm, siêu hình, phiến
diện.
Lịch sử triết học trang bị vũ khí sắc bén cho những người mácxít trong
cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay. Nghiên cứu lịch sử triết học, giúp
chúng ta hiểu rõ tính chất đúng đắn, tiến bộ của thế giới quan duy vật và tính
chất hạn chế, sai lầm của thế giới quan duy tâm. Lịch sử phép biện chứng từ
lúc khởi thuỷ cho đến nay là lịch sử đấu tranh, tìm tòi chân lý, phát triển nhận
thức khoa học. Lịch sử triết học cho thấy, chỉ có triết học nào gắn liền mật



14

thiết với đời sống, với thực tiễn mới giúp con người tìm ra chân lý khách
quan, giải thích đúng đắn thế giới và cải biến có hiệu quả thế giới hiện thực vì
cuộc sống con người. Nghiên cứu lịch sử triết học, trang bị cho chúng ta thế
giới quan khoa học và cách mạng, nâng tư duy của chúng ta lên tầm biện
chứng thì cũng đồng thời trang bị cho ta vũ khí tư tưởng, chuẩn mực phê
phán, đánh giá, đấu tranh với các trào lưu tư tưởng phản khoa học, phản động.
Bằng các sự kiện lịch sử và phân tích khoa học, lịch sử triết học trang bị cho
những người vũ khí tư tưởng đấu tranh chống lại việc đánh giá một cách vô
căn cứ về các nhà triết học tiến bộ nhằm hạ thấp vai trò của họ, cũng như việc
thổi phồng theo thiên kiến chủ quan một số nhà triết học phản tiến bộ về mặt
lịch sử. Đồng thời, lịch sử triết học chân chính còn là cơ sở khoa học để đấu
tranh phê phán quan niệm sai lầm cho rằng, lịch sử phát triển của triết học là
có giới hạn, đến một lúc nào đó nó sẽ đạt đến đỉnh cao tuyệt đích và không
cần đến bất cứ một thứ triết học nào nữa.
Nghiên cứu toàn bộ lịch sử hình thành, phát triển của tư tưởng triết học
nhân loại giúp chúng ta khẳng định sự xuất hiện triết học mácxít là tất yếu
lịch sử, phù hợp với lôgíc khách quan của sự phát triển tư tưởng triết học nhân
loại; thấy được triết học mácxít không nằm bên ngoài mà đã và đang phát
triển giữa dòng văn minh nhân loại, khẳng định bản chất khoa học và
cách mạng của triết học mácxít. Nghiên cứu toàn bộ lịch sử tư tưởng triết
học còn cho thấy tiếp cận triết học mácxít chính là tiếp cận tư duy triết
học của nhân loại ở trình độ hiện đại.
Nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy tính tất yếu mở rộng, phát triển
triết học mácxít trong điều kiện mới của thời đại; tính tất yếu của việc đấu
tranh với các quan điểm sai lầm, phản động, cơ hội, xét lại...nhằm bảo vệ và
phát triển triết học mácxít trong tình hình mới./.
V. Tổ chức, phương pháp nghiên cứu
- Tổ chức học tập lên lớp tập trung



15

- Sử dụng phương pháp giảng dạy thuyết trình kết hợp nêu vấn đề (có
thể sử dụng phương tiện trình chiếu).
- Hướng dẫn tình hình và phương pháp nghiên cứu chuyên đề.
VI. Định hướng tự nghiên cứu cho học viên
Định hướng nghiên cứu chuyên sâu cho các nội dung của chuyên đề,
tập trung vào các vấn đề: đối tượng nghiên cứu; nhiệm vụ nghiên cứu;
phương pháp nghiên cứu; vấn đề phân vùng và phân kỳ lịch sử triết học.
VII.Tài liệu nghiên cứu
1. Tài liệu bắt buộc
- Giáo trình triết học Mác - Lênin, NxbCTQG, H. 2005
- Giáo trình triết học, NxbLLCT, H. 2007
2. Tài liệu tham khảo
- Giới thiệu những vấn đề triết học trong một số tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, NxbQĐND, H. 2008
- Lịch sử triết học, Nxb CTQG, H.1998.
- Triết học, tập 1, Nxb CTQG, H.1997
- Tập bài giảng Lịch sử triết học, tập 1, Nxb CTQG, H. 1994
- Các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin


16


17

Chuyên đề 2

ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI
II. Mô tả môn học:
Chương trình đào tạo đại học chuyên ngành triết học đã trang bị những
kiến thức cơ bản về triết học Trung Quốc cổ, trung đại, học viên đã nắm được
điều kiện lịch sử của sự xuất hiện, những nội dung chủ yếu của các tư tưởng
triết học, những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng của các tư tưởng triết học Trung
Quốc cổ, trung đại đến xã hội và con người Việt Nam.
Bậc học Thạc sỹ nghiên cứu dưới góc độ tiếp cận mới, làm rõ những
nhân tố quy định, tính tất yếu hình thành các tư tưởng và đặc điểm của Triết
học trung Quốc cổ, trung đại; làm rõ giá trị lịch sử và hiện thực của tư tưởng
triết học các trường phái.
III . Mục tiêu, yêu cầu
1. Mục tiêu
- Làm rõ đặc điểm điều kiện lịch sử của sự xuất hiện của các trường
phái triết học ở Trung Quốc cổ trung đại.
- Khái quát và phân tích các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc
cổ trung đại.
2. Yêu cầu
- Nắm vững phương pháp tiến cận, nghiên cứu.
- Nắm vững các đặc điểm cơ bản của triết học trung Quốc cổ trung đại.
- Nghiên cứu và chỉ ra ảnh hưởng của triết học Trung quốc cổ, trung đại
đối với Việt Nam trong lịch sử.
- Nắm được những vấn đề mới đặt ra trong nghiên cứu triết học trung
Quốc cổ trung đại hiện nay.
IV. Nội dung chi tiết bài giảng


18

1. Những nhân tố quy định đặc điểm của các hệ thống triết học

trung Quốc cổ trung đại
1.1. Sự phát triển kinh tế xã hội
Thời Ân Thương đã xuất hiện nhà nước ở trình độ sơ khai, chế độ nô lệ
gia trưởng kiểu phương Đông ở trình độ thấp, khái niệm sở hữu tư liệu sản
xuất và sức lao động, biên giới lãnh thổ chưa hình thành rõ rệt. Gia đình tồn
tại chế độ xã hội mẫu quyền.
Nhà Chu thực hiện quốc hữu hoá về tư liệu sản xuất của cải, ruộng đất
và sức lao động của các thị tộc trong chiến tranh, ruộng đất và con người đều
thuộc quyền của nhà vua.
Sản xuất phát triển đã dẫn tới làm thay đổi các giai tầng của xã hội nhà
Chu. Một số người giàu nổi lên đã có cơ sở kinh tế tương đối độc lập và tách
khỏi lớp quý tộc làm thành tầng lớp địa chủ mới, có sở hữu ruộng đất và sở
hữu dân độc lập, tình trạng đó làm cho giai cấp quý tộc Chu bị mất đất, mất
dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút.
Các nước chư hầu không còn vâng mệnh nhà Chu; không chịu cống
nạp, thậm chí liên tục nổi dậy chống laị nhà Chu và thôn tính lẫn nhau, gây
ra chiến tranh liên miên. Thời kỳ này lịch sử gọi là bá đạo, thời kỳ “vương
đạo suy vi”.
Nhà Chu bắt đầu từ thế kỷ 8 tr. CN đến thế kỷ 3 tr.CN có nhiều biến động,
chiến tranh liên miên, lịch sử gọi là thời kỳ Đông Chu (Xuân thu- Chiến quốc)
Đồ sắt được sử dụng rộng rãi và thay cho đồ đồng và đồ đá trước đây
đã đưa lại năng xuất lao động trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp cũng xuất hiện. Đặc biệt, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 5 trước.CN đã xuất
hiện các thành thị buôn bán sầm uất ở các nước Hàn, Tề, Tần, Sở.
Về khoa học, thời Ân Thương đã phát minh ra lịch Can chi từ việc quan
sát quy luật sinh trưởng của cây trồng và nước sông dâng, chia một năm làm
hai mùa là mùa xuân và mùa thu một năm có 12 tháng.
1.2. Tư tưởng tôn giáo



19

Thời Ân Thương khoa học đã phát triển và đạt được nhiều thành tựu,
là một thị tộc tiến bộ đã bước qua thời kỳ tín ngưỡng “Tô tem giáo”.
Nhà Chu có thêm tư tưởng kính trời, thờ Thượng đế. Thượng đế và trời
không phải là một, nhà Chu không biết mệnh trời do vậy Thượng đế không ưa
mà ban mệnh cho thần phục vào nhà Chu, cho nhà Chu được lập nước, nhận
dân, nhận cõi. Tổ tiên người Chu được sánh vai với Thượng đế và nhận mệnh
làm vương, làm hậu, làm hoàng, con cháu nhà Chu phải dốc tâm giữ gìn
truyền thống đó.
Về hệ tư tưởng, tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị nhà Chu được
tôn giáo hoá. Mọi chính sách xã hội đều được giải thích là “vâng Mệnh trời”
thuận theo Mệnh trời ; nhân dân, bờ cõi, đất đai là của Thiên tử. Thiên tử trị
dân, vì Thiên tử nhận dân từ nhà Ân, dân mà làm loạn thì Thiên tử có quyền
chém giết “ Trời không phải là bạo ngược, chỉ tự dân sớm gây nên tội”..Tư
tưởng chuyên chính tàn khốc của nhà Chu được phủ lên một lớp sơn tôn giáo
là “ý trời” “mệnh trời”.
Trung Quốc đã xuất hiện nhiều tụ điểm tranh luận về trật tự và mô
hình và phương pháp cai trị xã hội tương lại. Đó là những tụ điểm “kẻ sỹ
bàn ngang”. Tụ điểm của những người có tri thức tranh luận về xã hội cũ
và mô hình xã hội mới. Lịch sử Trung Quốc gọi là thời kỳ “bách gia tranh
minh” (trăm nhà đua tiến). Thời kỳ xuất hiện các trường phái triết học cổ
đại Trung Quốc.
1.3. Chế độ phong kiến Trung Quốc quy định đặc điểm tư tưởng triết
học
Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc chủ yếu bằng bạo lực, bằng
pháp trị tàn bạo và hà khắc, do chưa xây dựng được cơ sở kinh tế vững chắc
trong khi đó nhân dân liên tục nổi dậy khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các thế
lực quân sự địa phương, do vậy nhà Tần chỉ tồn tại 15 năm.
Năm 206 (TCN), Lưu Bang giành được chính quyền lập ra nhà Hán

chấm rứt thời kỳ Xuân Thu Chiến quốc. Lịch sử Trung Quốc bước sang thời
kỳ phong kiến, lấy nông nghiệp, nông thôn làm cơ sở, xây dựng chính quyền


20

nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, trong xã hội có hai giai cấp cơ
bản là địa chủ và nông dân.
2. Một số đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ trung đại ở
các trường phái
2.1. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại là một nền triết học hình
thành sớm trong lịch sử
- Tư tưởng của Âm dương, Ngũ hành chưa rõ tác giả. Có nhiều quan
điểm cho rằng của Châu Diễn sống cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc.
- Nho gia của Khổng Tử (551 - 479 tr. CN) là học thuyết đề cao nhân - lễchính danh. Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức đề cao lễ trị và đức
trị.
- Mặc gia chủ thuyết là Mặc Địch khoảng (480- 420 TCN). Trong tư
tưởng triết học có sự lẫn lộn giũa duy vật và duy tâm, vô thần và hữu thần. Về
chính trị thể hiện tư tưởng bế tắc của tầng lớp công thương sản xuất nhỏ.
- Đạo gia của Lão Tử Chưa rõ năm sinh và năm mất, biết chắc là ông sống
cùng thời với Khổng Tử. Trang Chu là người kế thừa tư tưởng của Ông (sinh
năm 286 mất năm 369 TCN). Phạm trù cơ bản của triết học đạo gia là “đạo và
đức” .
- Tư tưởng Pháp gia (khoảng 280- 233 TCN) của Hàn Phi với các phạm
trù “Pháp Thuật Thế”.
2.2. Lấy con người và xã hội làm trung tâm nghiên cứu nhằm giải
quyết các vấn đề thực tiễn chính trị- xã hội
- Thuyết nhân
Nhân là lòng thương yêu con người, giúp người, học người có đạo đức,
là người sống chính danh, lấy hiếu đễ làm gốc; người thực hiện đúng tam

cương, ngũ luân, ngũ thường
Người có nhân là người sống có hiếu có nghĩa, quý trọng bản thân
mình, biết làm người khác yêu mình; điều gì mình không muốn thì không làm
cho kẻ khác; mình được như thế nào thì cũng giúp người khác được như


21

mình. Người có nhân là người có đạo đức toàn vẹn theo đạo làm người, là người khắc kỷ phục lễ.
- Đức nhân: Là đạo đức con người. Người có đức nhân là người sống
đúng tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội; là người thực hiện đúng “ngũ
luân” (vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bạn bè) và “ngũ thường” (nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín)
- Nghĩa: Là người sống có trách nhiệm, người làm tròn bổn phận, trách
nhiệm xét về luân lý đạo đức, thực hiện nghĩa vụ trước mọi người và trong
cộng đồng. Không làm hết trách nhiệm nghĩa vụ là trái với nghĩa, là người
không nhân nghĩa, người bất nhân.
- Thuyết chính danh
Thuyết chính danh đòi hỏi Vua phải cai trị đất nước theo “Vương đạo”,
cha phải sống đúng như một ngời cha chân chính, anh phải sống gương mẫu,
bạn bè phải sống tình nghĩa..... Giữa danh và thực phải thống nhất với nhau.
Thuyết chính danh đòi hỏi trong xã hội mỗi vị trí ứng với một danh
phận cụ thể. Mỗi người ở vị trí nào phải có trách nhiệm và nghĩa vụ tương
ứng. Chính danh là người làm tròn bổn phận trách nhiệm của mình. Chính
danh đi liền với vị phận, quyền lợi đi liền với nghĩa vụ.
- Thuyết lễ trị của Nho giáo:
Nho gia quy định làm người phải học lễ, biết lễ và làm theo lễ, phải
khắc kỷ phục lễ. Trong xã hội mọi người sống chính danh vị phận và làm theo
lễ thì xã hội sẽ ổn định đâu vào đó. Nho gia truyền bá lễ giáo nhằm ổn định xã
hội, coi đó là công cụ cai trị gọi là thuyết lễ trị. “Lễ” là những nghi thức, quy

chế, kỷ cương, trật tự của cuộc sống, những quan hệ cư sử hàng ngày theo
quy định của Nho gia.
Những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự cuộc sống quy định của
nho gia là, “tam cương” - 3 mối quan hệ cơ bản của xã hội: vua tôi, cha con,
chồng vợ; “Ngũ luân”- vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè; “tứ


22

đức”- công, dung, ngôn, hạnh; “tam tòng” - nội gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử.
- Về nhận thức luận của Nho giáo:
Khổng Tử đề cao giáo dục, coi đó là cải tạo nhân tính, đưa con người
gần gũi nhau hơn. Giáo dục là cảm hoá, tu sửa đạo làm người, làm cho con
người từ ác thành thiện.
Khổng Tử coi giáo dục là cơ sở để mở mang tri thức và hình thành trí,
nhân, dũng cho con người.
Khổng Tử đề cao việc học; học để hoàn thiện nhân cách; để hiểu quy
luật của trời đất, hiểu các sự vật, hiện tượng. Người tiểu nhân có học cũng
không biết, người quân tử có học thì có hiểu biết. Trong cai trị, luật hình
không lên đến thượng quan, lễ không xuống đến thứ dân.
- Quan điểm chính trị xã hội của Đạo gia.
Lão Tử chủ trương “vô vi nhi trị”, cai trị xã hội phải lấy vô vi mà sử sự,
lấy bất ngôn mà dậy đời. Phương pháp của ông là lấy “nhu thắng cương”,
“yếu thắng mạnh”, “bất tranh quý nhường”và “bất bạo động”.
Lão Tử chủ trương “vô vi” gạt bỏ hết “hữu vi” của nho giáo. Lão Tử
cho rằng mọi vật đều thống nhất với nhau trong đạo, không có gì phân biệt
đúng, sai, sang, hèn, vinh, nhục ....
Lão Tử cho rằng chính phủ vô vi thì dân trở lên chất phác”; “chính phủ tích
cực thì dân gặp tai hoạ”; “pháp luật càng nghiêm thì càng nhiều trộm cướp”.

Lão Tử chủ trương vô vi mà thái bình. Ông mơ về thời kỳ xã hội loài
người chưa có nhà nước, “nước nhỏ dân ít, mọi người thô phác, hồn nhiên
không có tư hữu, không có đấu tranh”.
Theo ông chỉ có một thế giới thanh đạm, lặng lẽ, vô vi. Ông cho rằng, không
cần nhìn qua khe của mà cũng biết đạo trời, không ra cửa cũng biết thiên hạ. Lão
Tử chủ trương phủ nhận mọi thứ đạo đức, văn hoá, tốt, sấu. Ông cho rằng, phải
học ở ngừơi không có học, trở về với trạng thái chất phác của trẻ thơ.
- Quan điểm chính tri xã hội của Mặc gia:


23

Mặc gia chủ trương “kiêm ái”, “phi công”, mọi người thương yêu nhau, làm
lợi cho nhau. Trong xã hội không có giàu nghèo, sang hèn, trên dưới, đẳng cấp.
Mặc gia chủ trương “kiêm ái”, trong xã hội mọi người thương yêu
nhau, bình đẳng nhau về quyền lợi thờ cúng quỷ thần. “Phi công”, mọi người,
mọi nhà giữa các nước không tấn công nhau mà hoà hợp, bình đẳng.
- Quan điểm về đạo đức của Mặc gia.
+ Mặc gia có nhiều quan điểm tiến bộ về đạo đức; chủ trương xây dựng
một xã hội công bằng bình đẳng không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, trên
dưới. Trong xã hội mọi người thương yêu nhau làm lợi cho nhau.
+ Hy vọng vào sự thay đổi đường lối cai trị của giai cấp thống trị từ sự thay
đổi “ý trời”. Mặc gia phản đối tư tưởng an phận “nghèo mà vui” của Khổng Tử.
+ Mặc gia cho rằng, vị thế của các giai cấp không vĩnh viễn mà sẽ có
sự thay đổi theo ý trời, “quan không sang mãi dân không hèn mãi”, nhà nước
phải dùng người tài thì xã hội mới phát triển.
2. 3. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại thể hiện cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo
- Sự lẫn lộn giữa duy vật và duy tâm của Nho giáo
Quan niệm của Khổng Tử về “trời”, “đạo trời”, “mệnh trời” không rõ

ràng, không nhất quán, lẫn lộn giữa duy vật và duy tâm. Nhiều khi Khổng Tử
có quan niệm trời như quy luật tự nhiên. Khổng Tử cho rằng Trời không can
thiệp vào sự vận động thay đổi của bốn mùa Xuân, hạ, Thu, Đông.
Trời đất muôn vật luôn tự vận động biến đổi không ngừng được Khổng
Tử diễn đạt trong kinh Dịch, “Kinh dịch” là một học thuyết luận giải sự
chuyển biến của vũ trụ biến hoá của âm dương, tứ tượng, bát quái, .....giải
thích sự vận động biến đổi của giới tự nhiên.
Khổng Tử tin vào sự vận hành biến hoá không ngừng của vũ trụ không
gì cưỡng lại và ông gọi là “đạo Trời”. Con người có “Thiên mệnh” và biết
được mệnh Trời vào tuổi 50.


24

Khổng Tử tin là có quỷ thần, nhưng quỷ thần theo ông chỉ có ý nghĩa lễ
giáo. Khổng Tử phê phán sự mê tín cho rằng quỷ thần có thể chi phối cuộc
sống con người.
Đạo theo Khổng Tử là quy luật vận động biến chuyển của trời đất và muôn
vật; “đạo” của người là “Nhân nghĩa”. Con người sống phải có đạo làm người.
Phân biệt đẳng cấp ngặt nghèo trong xã hội thành người tiểu nhân và
người quân tử không thể thay đổi thân phận cho nhau.
Nho giáo là học thuyết điều hoà giai cấp, thủ tiêu đấu tranh, chủ trương
lễ trị, đức trị, hoà vi quý, phục cổ.
Nho giáo mang nặng tính chất duy tâm thừa nhận con người có thiên
mệnh và ít bàn tới các vấn đề khoa học tự nhiên.
- Tư tưởng triết học duy vật của Đạo gia.
Triết học của Đạo gia giải quyết mối quan hệ giữa đạo và đức trong đó
“Đạo” sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra bốn, bốn sinh ra
năm....Đạo là chủ thể sinh ra vạn vật, là phép tắc chi phối vạn vật.
Đạo là quy luật biến hoá của vũ trụ, là nguyên lý huyền diệu của thế

giới. Đạo của Lão Tử được hiểu như là quy luật của tự nhiên.
Quy luật biểu hiện ra ở các sự vật hiện tượng là “đức”. Đức là biểu hiện
sự phong phú của “đạo”, quy luật. Hay “đạo” được biểu hiện phong phú ở
“đức” hay các sự vật hiện tượng.
- Quan điểm bất khả tri trong nhận thức của Đạo gia.
Lão Tử chủ trương “vô danh”, cái “danh” theo ông chỉ là tương đối,
hữu hạn. Mọi sự vật hiện tượng do có mâu thuẫn bên trong hai thế lực âm
dương làm cho nó luôn vận động biến đổi không ngừng.
Sự vận động đó phát triển đến cùng thì quay trở lại “âm cực sinh
dương, dương cực sinh âm”. “Trong hoạ có phúc, trong phúc có hoạ”. “Trong
tốt có sấu và trong sấu có tốt”


25

Lão Tử cho rằng thế giới mọi vật đều thống nhất với nhau trong đạo,
không có gì phân biệt đúng sai, trắng đen, tốt sấu. Có trắng là so với đen, có
sấu là so với tốt.
Như vậy Lão Tử đưa ra tư tưởng biện chứng trong nhận thức, tư tưởng
của Ông còn cực đoan, máy móc và biểu hiện quan điểm bất khả tri luận.
Lão Tử chủ trương “vô vi” gạt bỏ hết “hữu vi” của Nho gia. Lão Tử
cho rằng mọi vật đều thống nhất với nhau trong đạo, không có gì phân biệt
đúng, sai, sang, hèn, vinh, nhục ....
Lão Tử cho rằng chính phủ vô vi thì dân trở lên chất phác”, “Chinh phủ
tích cực thì dân gặp tai hoạ”, “pháp luật càng nghiêm thì càng nhiều trộm cướp”
Lão Tử chủ trương vô vi mà thái bình. Ông mơ về thời kỳ xã hội loài
người chưa có nhà nước, “nước nhỏ dân ít, mọi người thô phác, hồn nhiên
không có tư hữu, không có đấu tranh”.
Theo Ông chỉ có một thế giới thanh đạm, lặng lẽ, vô vi. Ông cho rằng không
cần nhìn qua khe của mà cũng biết đạo trời, không ra cửa cũng biết thiên hạ.

Lão Tử chủ trương phủ nhận mọi thứ đạo đức, văn hoá, tốt, sấu. Ông cho
rằng phải học ở ngừơi không có học, trở về với trạng thái chất phác của trẻ thơ.
- Thuyết âm-dương, ngũ hành thể hiện quan điểm duy vật thô sơ và tư
tưởng biện chứng tự phát chống lại chủ nghĩa duy tâm tôn giáo hữu thần
Thuyết âm- dương: Thuyết âm dương cho rằng bản nguyên của thế
giới là âm dương. Mọi sự vật đều có hai thái cực âm dương. Trong âm có dương, trong dương có âm, âm phát triển cực sinh dương, dương phát triển cực
sinh âm. Âm dương vận động chuyển hoá sinh ra vạn vật
Thái cực sinh lưỡng nghi: âm, dương. Lưỡng nghi sinh tứ tượng: thái
dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm. Tứ tượng sinh bát quái: càn, khảm,
cấn, chấn, tốn, khôn, đoài, ly. Trùng quái được 64 quẻ, 64 quẻ sinh ra các hào
từ. Các hào từ sinh ra vạn vật trong thế giới.
Theo quan điểm của các nhà triết học Ngũ hành, thế giới không phải do
thần linh thượng đế sinh ra mà do năm yếu tố: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ tác
động qua lại chi phối lẫn nhau sinh ra các sự vật hiện tượng trong thế giới


×