Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp cho xã sín chéng – huyện si ma cai – tỉnh lào cai giai đoạn 2013 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.28 KB, 52 trang )

Quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp cho xã Sín Chéng
– huyện Si Ma Cai – tỉnh Lào Cai giai đoạn 2013 – 2020


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nông thôn
đóng một vai trò quan trọng, cần được quan tâm và đầu tu đúng cách để phát
triển đất nước một cách toàn diện.
Trên địa bàn nông thôn, xã được coi là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là
đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức sản xuất nông – lâm nghiệp. Tuy nhiên hiện
nay sự phát triển kinh tế, xã hội của nông thôn Việt Nam còn đang gặp nhiều
khó khăn: trình độ sản xuất yếu kém đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, môi
trường sinh thái nói chung và tài rừng đang bị suy giảm một cách nghiêm
trọng. Từ nhiều năm qua Nhà nước đã có những chính sách, chủ trương để
phát triển kinh tế, xã hội. Như Nghị định 02/CP của chính phủ về giao đất
giao rừng tới từng hộ gia đình người dân để quản lý và sử dụng nguồn tài
nguyên này một cách bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái. Nhương trong
thực tế việc triển khai thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước còn
gặp nhiều khó khăn. Vì vậy việc tìm ra một loại hình tổ chức sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp phù hợp với điều kiện của từng địa phương là hết sức cấp
thiết.
Quy hoạch sử dụng đất giúp sắp xếp thời gian, bố trí, sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên đặc biệt này, cải thiện môi trường sinh thái, tạo điều kiện
đầu tư có hiệu quả, tránh gây lãng phí trong đầu tư. Như vậy điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất là cơ sở pháp lý để thực hiện công tác quản lý Nhà nước về
đất đai, là căn cứ để giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Tạo
điều kiện đầu tư phát triển ổn định chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở nông thôn.
Xã Sín Chéng, huyện Si Ma Cai – Lào Cai là một xã miền núi, trình độ
dân trí, kinh tế, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Diện tích đất nông lâm




nghiệp chiếm đại đa số diện tích của xã. Trong đó diện tích đất chưa sử dụng
còn khá lớn. Nền sản xuất nông lâm nghiệp còn nhiều bất cập, việc đổi mới
cơ cấu cây trồng còn chậm, việc này gắn liền với việc sử dụng đất còn kém
hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân địa phương. Vì
vậy một vấn đề cấp thiết đặt ra ở đây là cần quy hoạch sử dụng đất nông lâm
nghiệp cho xã Sín Chéng – huyện Si Ma Cai – tỉnh Lào Cai trong giai đoạn
tới.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi tiến hành thực hiện chuyên đề tốt nghiệp
“Quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp cho xã Sín Chéng – huyện Si
Ma Cai – tỉnh Lào Cai giai đoạn 2013 – 2020”.


PHẦN II
LƯỢC SỬ VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
Lịch sử phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển
kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp phát triển, cơ sở hạ tầng được đầu
tư nên việc khai thác và vận chuyển gỗ trở nên dễ dàng hơn, đòi hỏi nhu cầu
về thị trường cũng được tăng cao. Ngành sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế
địa phương của phong kiến và bước vào thời đại hàng hoá Tư bản chủ nghĩa.
Thực tế sản xuất đã không còn bó hẹp trong sản xuất gỗ đơn thuần mà cần có
ngay lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi dụng tài nguyên rừng
một cách bền vững đem lại lợi nhuận cao và lâu dài. Chính vì vậy mà hệ
thống hoàn chỉnh về mặt lí luận quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đã
được hình thành.
Quy hoạch lâm nghiệp được xác định như một chuyên ngành bắt đầu
bằng việc quy hoạch vùng từ thế kỷ XVII theo Orschowy vào thời gian này
quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở châu Âu phát triển ở mức cao trên cơ

sở quy hoạch sử dụng.
Đầu thế kỷ XVIII, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ dừng lại ở
giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có nghĩa là đem trữ lượng
hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kì khai thác và
tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc theo diện tích.
Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kì khai
thác ngắn.
Sau cách mạng công nghiệp, vào thế kỉ XIX phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay bằng kinh doanh rừng hạt với chu kì khai thác dài. Và
phương thức kinh doanh “khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho


phương thức “chia đều” và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm.
Đến năm 1816 xuất hiện phương pháp “phân kỳ lợi dụng” của H.cotta chia
chu kì khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy nó lượng chặt hàng
năm.
Phương pháp “bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “cấp
tuổi” chịu ảnh hưởng của “lí luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là yêu cầu rừng
phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và
đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay biện pháp kinh doanh
rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn
phương pháp “lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “lâm phần”
không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần
tiến hành phân tích xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh, phương thức
điều chế rừng.Cũng từ phương thức này còn phát triển thành “phương pháp
kinh doanh lô” và “phương pháp kiểm tra”.
Quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng hình thành môn học đầu tiên ở
nước Đức, Áo và mãi đến thế kỷ XVIII mới trở thành môn học hoàn chỉnh và
độc lập. Thời kỳ đầu môn học quy hoạch lâm nghiệp lấy việc xác định sản
lượng rừng làm nhiệm vụ duy nhất nên gọi là môn học “tính thu hoạch

rừng”. Sau nội dung quy hoạch lâm nghiệp chuyển sang bàn về việc lợi dụng
bền vững nên môn học được đổi thành môn “Quy ước thu hoạch rừng”. Sau
này nội dung môn học chuyển sang nghiên cứu về điều kiện sản xuất và tổ
chức kinh doanh rừng, tổ chức rừng và chi phối về giá cả, lợi nhuận và môn
học có tên là “Quy ước kinh doanh rừng”.
Hiện nay tuỳ theo mục đích, nhiệm vụ của quy hoạch lâm nghiệp phải
đảm nhiệm trong từng nước, từng địa phương và trong từng điều kiện hoàn
cảnh cụ thể mà môn học có tên gọi và nội dung khác nhau. Ở các nước thuộc
Liên xô cũ có tên là “quy hoạch rừng”. Ở các nước có trình độ kinh doanh
cao hơn và công tác quy hoạch yêu cầu tỉ mỉ hơn (Đức, Áo, Thụy Điển, …)


môn học có tên là “Thiết kế rừng”. Các nước phương tây như Anh, Mỹ,
Canada,… gọi tên môn học là “Quản lý rừng”.
2.2. Trong nước
Quy hoạch lâm nghiệp đã được áp dụng ở nước ta từ thời kì Pháp
thuộc. Như việc xây dựng phương án sản xuất rừng chồi, sản xuất củi. Năm
1955 – 1957 tiến hành sơ thám và mô tả ước lượng tài nguyên rừng. Năm
1958 – 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc và những năm 1960
– 1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới được áp dụng ở miền Bắc.
Từ năm 1965 đến nay lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được
tăng cường và mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực
lượng điều tra quy hoạch của Sở lâm nghiệp không ngừng cải tiến phương
pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của các nước cho phù hợp với điều kiện
và tài nguyên rừng nước ta. Tuy nhiên so với lịch sử phát triển các nước thì
quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì
vậy, những nghiên cứu cơ bản về cơ sở kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên
rừng làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết nên
công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp
dụng.

Song song với việc tiến hành nghiên cứu và áp dụng công tác quy
hoạch lâm nghiệp trong thực tiễn sản xuất, môn học quy hoạch lâm nghiệp
cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học. Trước năm 1975 bài
giảng của môn học này ở miền Bắc chủ yếu dựa vào giáo trình Quy hoạch
rừng còn miền Nam dựa vào giáo trình Điều chế rừng của nước ngoài. Nội
dung của giáo trình này chủ yếu của giáo trình này chủ yếu là phục vụ cho tổ
chức kinh doanh và tổ chức rừng đồng tuổi, ít loài cây chưa phù hợp với điều
kiện tài nguyên rừng nước ta, có một bộ phận rất lớn rừng tự nhiên khác tuổi,
nhiều loài cây. Đồng thời mới chỉ dừng lại ở tổ chức kinh doanh rừng mà


chưa giải quyết sâu sắc về tổ chức rừng. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong
thực tiễn sản xuất lâm nghiệp, môn quy hoạch lâm nghiệp cũng cần được thay
đổi một cách phù hợp hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu và áp dụng những thành tựu đã đạt được trên thế
giới vào thực tiễn nước ta, trong lĩnh vực quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch
phát triển sản xuất nông lâm nghiệp đã có nhiều chương trình, chiến lược,
chính sách của Nhà nước, các công trình, dự án của các tổ chức cá nhân, được
tiến hành ở nhiều vùng miền, địa phương trên cả nước.
Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất
lâm nghiệp cấp xã do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp thực
hiện tại các xã Tử Nê, Hang Kìa, Pà Cò thuộc tỉnh Hoà Bình. Một trong
những bài học kinh nghiệm rút ra được qua việc thực thi các dự án là quy
hoạch sử dụng đất phải được coi là một nội dung chính và cần được thực hiện
trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy cấp xã
làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người
dân, già làng, trưởng bản và chính quyền xã.
Năm 1996 – 2001, chương trình hợp tác phát triển nông thôn miền núi
Việt Nam – Thụy Điên trên phạm vi 5 tỉnh Lào Cai, Bắc Giang, Hà Giang,
Tuyên Quang và Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát

triển nông thôn lâm nghiệp cấc xã trên cơ sở kế hoạch phát triển lâm nghiệp
cấp thôn bản và hộ gia đình.
2.3. Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp
- Địa bàn quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả ven
biển, trung du, núi cao và biên giới hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia
cắt phức tạp, giao thông đi lại khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt động.


- Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí
thấp, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp
nhiều khó khăn. Đối tượng của công tác quy hoạch lâm nghiệp là rừng và đất
lâm nghiệp, từ bao đời nay là “ của chung” của đồng bào các dân tộc nhưng
thực chất là vô chủ.
- Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài 40 – 100
năm). Người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn sẽ
có lợi.
- Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp cũng rất đa dạng: quy hoạch rừng
phòng họ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường);
quy hoạch rừng đặc dụng (các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên,
các khu di tích văn hóa, lịch sử - danh thắng) và quy hoạch phát triển các loại
rừng sản xuất.
- Quy mô của công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và
vi mô: Quy hoạch toàn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, xí nghiệp,
lâm trường, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
- Lực lượng tham gia làm công tác quy hoạch lâm nghiệp thường luôn
phải lưu động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn về mọi
mặt,… Đội ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao
gồm cả lực lượng của Trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác
cũng tham gia làm quy hoạch lâm nghiệp (nông nghiệp, công an, quân đội…);
Trong đó, có một bộ phận được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần

lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp.
* Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm nghiệp phục vụ chuyển đổi
cơ cấu nông nghiệp nông thôn.


Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ
trương, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và
chính quyền các cấp từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm
nghiệp phải đạt được.
- Hoạch định rõ ranh giới đất nông – đất lâm nghiệp và đất do các ngành
khác sử dụng; Trong đó, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được quan tâm hàng
đầu vì hai ngành chính sử dụng đất đai.
- Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, tiến hành định 3 loại rừng
(Phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm sinh thích
hợp với từng loại rừng và đất rừng (bảo vệ, làm giàu rừng, khoanh nuôi phục
hồi rừng, trồng rừng mới, nuôi dưỡng rừng, nông lâm kết hợp… khai thác lợi
dụng rừng).
- Tính toán nhu cầu đầu tư (chủ yếu nhu cầu lao động, vật tư thiết bị và
nhu cầu vốn). Vì là phương án quy hoạch nên việc tính toán nhu cầu đầu tư
chỉ mang tính khái quát, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất ở những
bước tiếp theo.
- Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy
hoạch (giải pháp lâm sinh, khoa học công nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp
về vốn, lao động…)
- Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn (cấp toàn quốc,
vùng, tỉnh) còn đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước
tiếp theo là lập Dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi.


2.4. Các văn bản chính sách Nhà nước liên quan đến quy hoạch lâm

nghiệp
- Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
nêu: “ Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
pháp luật đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nhà nước giao
đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.”
- Luật đất đai năm 2003 quy định rõ 3 loại đất (đất nông nghiệp; đất
phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng) và 6 quyền sử dụng ( được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; hưởng thành quả lao động; kết quả đầu tư
trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo
đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo,
bồi bổ đất nông nghiệp, được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm
phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình; khiếu nại, tố cái, khởi
kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và
những hành vi vi phạm pháp luật về đất đai).
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng
(rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; rừng sản xuất) làm cơ sở cho quy hoạch
lâm nghiệp.
- Quy chế quản lý rừng năm 2006 quy định về việc tổ chức quản lý,
bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản
xuất, bao gồm diện tích có rừng và diện tích không có rừng đã được Nhà
nước giao, cho thuê hoặc quy hoạch cho lâm nghiệp.
- Quyết định 61 về quy định tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ, và
Quyết định 62 quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng (2005)
Từ trước tới nay, công tác quy hoạch lâm nghiệp đã được triển ekhai
trên toàn quốc ở nhiều cấp độ, quy mô khác nhau phục vụ cho mục tiêu


phát triển ngành. Song căn cứ vào yêu cầu, trong mỗi giai đoạn cụ thể,
trong từng thời điểm, căn cứ vào nguồn vốn được cấp và yêu cầu mức độ
kỹ thuật khác nhau mà nội dung các phương án quy hoạch, dự án đầu tư

cũng được điều chỉnh cho phù hợp.
PHẦN III
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đề xuất phương án quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp nhằm thúc
đẩy sự phát triển lâm nghiệp cho xã Sín Chéng nói riêng và phát triển kinh tế
xã hội nói chung giai đoạn 2013 – 2020.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Điều tra, đánh giá, phân tích điều kiện cơ bản của xã Sín Chéng làm cơ
sở đề xuất phương án quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp.
- Đề xuất được phương án quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho xã Sín
Chéng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều tra phân tích điều kiện cơ bản của xã Sín Chéng
3.2.1.1. Điều tra điều kiện sản xuất lâm nghiệp
a. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
b. Điều tra tình hình sản xuất kinh doanh lâm nghiệp của xã từ trước tới nay.
3.2.1.2. Hiện trạng sử dụng đất đai, tài nguyên rừng.


3.2.1.3. Đánh giá, phân tích thuận lợi, khó khăn của điều kiện cơ bản đến
phát triển sản xuất lâm nghiệp.
3.2.2. Quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp
3.2.2.1. Những căn cứ lập phương án sản xuất lâm nghiệp
3.2.2.2. Xác định phương hướng, mục tiêu phát triển sản xuất lâm nghiệp.
3.2.2.3. Quy hoạch sử dụng đất đai
3.2.2.4. Quy hoạch các biện pháp phát triển sản xuất lâm nghiệp.
- Quy hoạch biện pháp trồng rừng.
- Quy hoạch biện pháp chăm sóc rừng.

- Quy hoạch biện pháp bảo vệ rừng.
- Quy hoạch các biện pháp khai thác lâm sản.
3.2.2.5. Ước tính vốn đầu tư và hiệu quả vốn đầu tư
- Ước tính vốn đầu tư
- Hiệu quả vốn đầu tư.
3.3.3.6. Đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu từ các văn bản, dự án, báo cáo tổng kết hàng năm của
xã, các phương án phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Thu thập bản đồ
số, bản đồ giấy của địa phương làm cơ sở quy hoạch đất đai. Tìm hiểu thêm
một số chuyên đề có liên quan và phỏng vấn thêm người dân xung quanh các
vấn đề có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.


3.3.1.1. Phương pháp kế thừa
Phương pháp này dùng để thu thập và kế thừa có chọn lọc các tài liệu
sẵn có trên địa bàn nghiên cứu hoặc những tài liệu có liên quan tới các vấn đề
về phát triển sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn nghiên cứu từ trước tới nay còn
mang tính thời sự.
- Điều kiện cơ bản:
+ Tài liệu về điều kiện tự nhiên.
+ Tài liệu về điều kiện kinh tế - xã hội.
+ Tài liệu về phát triển sản xuất của xã.
+ Tài liệu về hiện trạng rừng.
- Thu thập hệ thống bản đồ số và bản đồ giấy.
- Phương pháp phỏng vấn.
Phỏng vấn các cán bộ và người dân xung quanh khu vực nghiên cứu
bằng phương pháp PRA.
- Phương pháp điều tra chuyên đề.

Tiến hành điều tra chuyên đề nhằm bổ sung các thông tin cần thiết như
đất và lập địa, tái sinh rừng, sâu bệnh hại, đặc sản và lâm sản phụ, khảo sát
đường vận chuyển.
3.3.1.2. Phương pháp điều tra ngoài thực địa
Phương pháp này dùng để kiểm tra tính kế thừa có chọn lọc các số liệu
có sẵn đồng thời bổ sung các tính chất thúc đẩy, đầy đủ hoặc các tính chất
chưa được cập nhật.
+ Điều tra thực địa về các loại rừng, đất rừng.


+ Điều tra thực địa về diện tích và trữ lượng các loại rừng trên địa bàn xã
với phương pháp lập OTC điển hình.
3.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
Tổng hợp, phân tích số liệu từ đó làm cơ sở đánh giá tiềm năng đất đai,
tài nguyên rừng và nhu cầu sản xuất lâm nghiệp để xây dựng phương án quy
hoạch sản xuất lâm nghiệp cho xã. Xử lý bằng 2 phương pháp sau:
3.3.2.1. Phương pháp tĩnh.
Coi các yếu tố chi phí và các kết quả độc lập tương đối, không chịu tác
động của các nhân tố thời gian.
Tổng lợi nhuận: P = TN – CP
Tỷ suất lợi nhuận: PCP =

P
CP

Trong đó:
P là tổng lợi nhuận.
TN là tổng thu nhập
CP là tổng chi phí sản xuất kinh doanh.
3.3.2.2. Phương pháp động

Sử dụng phương pháp phân tích chi phí lợi nhuận CBA (Cost Benefit
Analysis) để phân tích hiệu quả kinh tế các mô hình sản xuất. Các số liệu
được tổng hợp và phân tích bằng các hàm kinh tế trong chương trình Excel
trên máy tính. Các chỉ tiêu kinh tế để đánh giá gồm: Lãi ròng (NPV), Tỷ suất
thu hồi nội bộ (IRR), tỷ số giữa giá trị hiện tại của thu nhập và chi phí (BCR).
+ Tính giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV)


NPV là hiệu số giữa các giá trị thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt
động sản xuất sau khi đã tính chiết khấu để quy về thời điểm hiện tại.
n

Bt  Ct
t
t 1 (1  r )

NPV = 

Trong đó:
NPV là giá trị hiện tại của thu nhập ròng (đồng)
Bt là giá trị thu nhập năm thứ t (đồng)
Ct là giá trị chi phí ở năm thứ t (đồng)
R là tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất (%)
t là thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm)
+ Tính tỷ xuất giữa thu nhập và chi phí.
BCR là hệ số sinh lãi thực tế, nó phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết
mức thu nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất.
Công thức:
n


BCR =

Bt

 (1  r )

BPV t 1
 n
CPV

Ct

 (1  r )
t 1

t

t

Trong đó:
BCR là tỷ suất giữa thu nhập và chi phí
BPV là giá trị hiện tại của thu nhập
CPV là giá trị hiện tại của chi phí


Nếu hoạt động sản xuất nào có BCR càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng
cao, cụ thể BCR >1 thì sản xuất có lãi, BCR = 1 thì hòa vốn, BCR <1 thì sản
xuất lỗ.

+ Tỷ lệ thu hồi nội bộ

IRR là chỉ tiêu thể hiện tỷ suất lợi nhuận thực tế của một chương trình
đầu tư, tức là nếu vay vốn với lãi suất bằng chỉ tiêu này thì chương trình đầu
tư hòa vốn. IRR thể hiện lãi suất thực hiện của một chương trình đầu tư, lãi
suất này gồm hai bộ phận: Trang trải lãi ngân hàng, phần lãi của nhà đầu tư.
n

NPV =

Bt  Ct

 (1  IRR)
t 1

t

Trong đó:
NPV: Giá trị hiện tại thuần của thu nhập dòng (đồng)
Bt : Giá trị thu nhập năm thứ t (đồng)
Ct: Giá trị chi phí năm thứ t (đồng)
t: Thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất.
IRR thể hiện mức lãi suất vay vốn tối đa mà chương trình đầu tư có thể
chấp nhận được mà không bị lỗ vốn. IRR được tính theo tỷ lệ %, đây là chỉ
tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn đầu tư có kể đến yếu tố thời gian thông
qua tính chiết khấu. IRR càng lớn thì hiệu quả càng cao, khả năng thu hồi vốn
càng nhanh. Nếu IRR > r là có lãi, IRR < r là lỗ, IRR = r là hòa vốn.


PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện cơ bản của xã Sín Chéng

4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Sín Chéng nằm cách trung tâm huyện lỵ Si Ma Cai 12 km về phía
Tây, cách trung tâm thành phố Lào Cai 105 km về phía Đông Bắc, có tuyến
huyện lộ đi qua, toàn xã có diện tích tự nhiên là 1.933 ha với 9 thôn, dân số
3.887 nhân khẩu. Là xã trung tâm của cụm xã, có vị trí địa lý như sau:
- Phía Bắc giáp xã Thào Chư Phìn và xã Bản Mế.
- Phía Nam giáp xã Nàn Sín.
- Phía Tây giáp huyện Mường Khương.
- Phía Đông giáp xã Mản Thẩn và xã Quan Thần Sán.
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Xã Sín Chéng là vùng đồi núi, có độ cao từ 700 - 1.500m, địa hình có
độ dốc lớn trên 25% chiếm tỉ lệ cao, được tạo bởi nhiều dãy núi chạy theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam và thấp dần về phía Bắc, mức độ chia cắt mạnh
xen kẽ những dải núi cao là các thung lũng sâu và nhỏ, nhiều nơi tạo thành
vách đứng. Mặt khác do có độ che phủ rừng thấp nên trong mùa mưa rất dễ
xảy ra quá trình rửa trôi, bào mòn tầng đất mặt và sạt lở diễn ra khá phổ biến.
Hơn nữa sông suối của xã có bề rộng nhỏ và dốc nên cũng gây khó khăn cho
sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã.
4.1.1.3. Khí hậu
Sín Chéng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên do ảnh
hưởng của địa hình nên diễn biến của khí hậu khá phức tạp, hình thành các
tiểu khí hậu khác biệt – Khí hậu cận nhiệt đới và vùng khí hậu nhiệt đới


không điển hình. Các yếu tố khí hậu đặc trưng như nhiệt độ, lượng mưa cho
thấy sự thay đổi của địa hình, độ cao là tác nhân chính hình thành những vùng
tiểu khí hậu trên địa bàn huyện.
- Nhiệt độ: Theo số liệu quan trắc nhiều năm cho thấy Sín Chéng thuộc
vùng khí hậu khá lạnh, nhiệt độ trung bình năm là 18,9 0C có những tháng

nhiệt độ xuống dưới 100C. Nhiệt độ có sự thay đổi theo các đai cao khá rõ nét,
sự thay đổi này diễn ra ngay trên địa bàn của một xã.
- Lượng mưa: lượng mưa thay đổi qua các năm từ 1.300 – 2.000mm,
lượng mưa chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7, 8 các tháng còn lại trong
năm mưa ít, cường độ không tập trung; Mùa lạnh khô kéo dài từ tháng 11 năm
trước đến tháng 3 năm sau. Nhìn chung lượng mưa trung bình, cường độ mưa
không lớn song không đều, hiện trạng tài nguyên rừng ít nên hiện tượng xói
mòn, sụt lở, rửa trôi vẫn còn xẩy ra khá nghiêm trọng.
- Độ ẩm không khí: thuộc vùng có độ ẩm không khí tương đối
đều và cao qua các tháng, trung bình từ 83 - 87%. Về mùa mưa độ ẩm không
khí lớn hơn, thường từ 85 – 88%. Vùng núi cao hơn 800 m có độ ẩm thấp và
hanh khô. Xã Sín Chéng chia làm 2 vùng có hai tiểu vùng cơ bản.
4.1.1.4. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
a) Tài nguyên đất
Sín Chéng là vùng núi cổ có cấu tạo địa hình phức tạp, độ chia cắt
mạnh. Trải qua quá trình sử dụng lâu dài, các yếu tố này ảnh hưởng mạnh mẽ
tới quá trình hình thành đất đai. Nguồn tài nguyên đất của xã được hình thành
bởi các quá trình cơ bản sau:
- Quá trình Feralit.
- Quá trình bào mòn, rửa trôi.
- Quá trình bồi tụ.
- Quá trình hình thành mùn.


b) Tài nguyên nước.
- Nguồn nước mặt: Nguồn nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nước
mưa được lưu giữ. Nguồn nước mặt của xã tuy phân bố đều khắp trên lãnh
thổ, không bị ô nhiễm song đang trong tình trạng cạn kiệt, đặc biệt là vào mùa
khô; Địa hình chia cắt mạnh, hiện tượng Castơ, hậu quả nạn phá rừng, canh
tác bất hợp lý là tác nhân chính làm cho nguồn nước mặt của xã đang trong

tình trạng suy kiệt gây bất lợi cho sản xuất và đời sống dân sinh các đồng bào
dân tộc vùng cao.
- Nguồn nước ngầm: Ảnh hưởng của hiện tượng Castơ tạo ra các hố
thoát nước mặt và độ che phủ rừng thấp là nguyên nhân gây ra tình trạng mực
nước ngầm thấp, trữ lượng nước cạn kiệt, hiện tượng này gây nên tình trạng
khô, nứt bề mặt phá huỷ đất, thảm thực vật có nguy cơ bị suy thoái.
- Nước sinh hoạt: Bắt đầu xảy ra tình trạng khan hiếm, trong những
năm gần đây được sự quan tâm của Đảng cùng với các dự án như chương
trình 135, định canh, định cư…đã đầu tư xây dựng các bể nước nhằm cung
cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong huyện. Các dự án này góp phần tháo
gỡ sự khó khăn về thiếu nước sinh hoạt của nhân dân trong thời gian qua. Tuy
nhiên để giải quyết tình trạng thiếu nước triệt để và bền vững thì trong những
năm tới cần đẩy mạnh việc trông rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc nhằm
khôi phục nguồn tài nguyên nước.
c) Tài nguyên du lịch.
Sín Chéng là xã nằm trên vùng núi cổ, có địa hình hiểm trở, chia cắt
mạnh, độ dốc tương đối lớn, có vẻ đẹp hùng vĩ, khí hậu trong lành, mát mẻ,
có chợ vùng cao ... nhân dân các dân tộc trong xã vẫn giữ bản sắc văn hoá của
dân tộc mình. Mặt khác thuỷ điện Cốc Ly dâng nước sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho du lịch phát triển.
d) Tài nguyên nhân văn.


Trên địa bàn xã có 3 dân tộc sinh sống gồm dân tộc Mông, Kinh, Nùng,
mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng trong lễ hội truyền thống như lễ
hội xuống đồng của người Nùng, lễ hội gầu tào, say sán của người Mông... đã
tạo ra các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng giàu bản sắc văn hoá dân
tộc, ngày nay những giá trị văn hoá đó cần duy trì, tôn vinh và phát triển.
e) Tài nguyên rừng.
Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 530,2 ha chiếm 27,43 % tổng

diện tích tự nhiên, trong đó:
- Rừng sản xuất 162,0 ha.
- Rừng phòng hộ 368,2 ha.
Rừng tự nhiên của xã Sín Chéng phần lớn là rừng phục hồi sau nương
rẫy, rừng sau khai thác nghèo kiệt trữ lượng rất thấp; rừng trồng chủ yếu là Sa
mộc, Tống quá sủ ... phần lớn đều mới trồng những năm gần đây. Trong thời
gian tới cần tăng cường bảo vệ và phát triển rừng để tăng độ che phủ nhằm
bảo vệ tài nguyên nước, đất và môi trường sinh thái.
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Tài nguyên nhân lực, mức sống của cộng đồng dân cư
- Tài nguyên nhân lực.
Xã Sín Chéng hiện có nguồn nhân lực tương đối dồi dào, toàn xã có 669
hộ, 3.942 khẩu, quy mô trung bình 5,89 khẩu/hộ; mật độ dân số 204
người/km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên khoảng 2%. Nhìn chung Sín Chéng là xã
có mật độ dân số cao so với trung bình toàn huyện song phân bố không đồng
đều.
Toàn xã có 2.089 lao động trong độ tuổi, chiếm 52,99% dân số. Chia
ra: lao động làm nông nghiệp là 1.829 người, chiếm 83,6%; lao động làm dịch
vụ, thương mại và trong ngành khác là 343 người, chiếm 16,4%. Đây là


nguồn tài nguyên dồi dào cần được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ
đáp ứng nhu cầu lao động trong thời gian tới.
- Mức sống của cộng đồng dân cư: Nhân dân các dân tộc trong xã hiện
có mức sống thấp so với mặt bằng chung toàn tỉnh (mặc dù đã được cải thiện
đáng kể từ khi huyện được tái lập), tỷ lệ đói, nghèo còn cao (chiếm trên 70%
so với tiêu chí mới), thu nhập bình quân/người/năm đạt 6,85 triệu đồng.
Tình hình biến động dân số qua các năm được trình bày tại bảng 4.1:



Bảng 4.1. Tình hình biến động dân số qua các năm của xã Sín Chéng
TT

Đơn vị

2006

2007

Người

3.576 3.694

3.732

3.841 3.921 4.067

1.1 Nữ

Người

1.791 1.850

1.869

1.923 1.963 2.036

1.2 Nam

Người


1.785 1.844

1.863

1.918 1.958 2.031

%

3,29

3,30

1,03

2,92

2,08

3,72

%

2,96

2,97

0,93

2,63


1,87

3,35

%

0,33

0,33

0,10

0,29

0,21

0,37

647

669

667

701

715

1


Chỉ tiêu
Tổng số nhân

tính

2005

2008

2009

2010

khẩu

2

Tỷ lệ phát triển
dân số

2.1 Tỷ lệ phát triển
dân số tự nhiên
2.2 Tỷ lệ phát triển
dân số cơ học
3

Tổng số hộ

%


635

4

Tổng số lao động

Lao

1,781 1,933

1,953

2,010 2,051 3,148

Người

107

118

38

109

80

146

5.1 Số sinh


Người

125

133

52

120

89

160

5.2 Số chết

Người

18

18

19

19

20

20


5.3 Số đi

Người

10

12

14

17

16

25

5.4 Số đến

Người

10

15

19

25

27


31

Người/

5,63

5,71

5,58

5,76

5,59

5,69

động
5

6

Biến động dân số

Quy mô số hộ

hộ
(Nguồn: Tài liệu về dân số và nhà ở của UBND xã Sín Chéng)

4.1.2.2. Cơ sở hạ tầng

- Trụ sở UBND xã, Tổng diện tích chiếm đất 2.742 m 2 trong đó diện tích
xây dựng 394 m2, trụ sở UBND xã có kết cấu xây dựng 02 tầng, mái bằng, lợp


chống nóng bằng tôn múi gồm có 15 phòng làm việc, 01 hội trường, 01 kho,
trang thiết bị công trình phụ trợ đầy đủ.
- Trạm Vật tư nông nghiệp: được xây dựng trên diện tích 1.000 m 2, diện
tích kho bãi 200 m2, là địa điểm tập kết, cung ứng các loại vật tư nông nghiệp
phục vụ nhân dân các xã: Sín Chéng, Thào Chư Phìn, Nàn Sín.
4.1.2.3. Các yếu tố về văn hóa, nhân văn
- Về văn hóa: Nhìn chung trình độ văn hoá của lao động nông thôn còn
tương đối thấp so với mặt bằng chung toàn tỉnh và cả nước. Lao động trong
xã phần lớn chưa được đào tạo. Sản xuất trên địa bàn xã chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp với tập quán lạc hậu, việc chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất còn nhiều hạn chế.
- Về nhân văn: Trên địa bàn xã có 03 dân tộc sinh sống gồm dân tộc
Mông, Kinh, Nùng, mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng trong lễ hội
truyền thống như lễ hội xuống đồng của người Nùng, lễ hội gầu tào, say sán
của người mông... đã tạo ra các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng giàu
bản sắc văn hoá dân tộc, ngày nay những giá trị văn hoá đó cần duy trì, tôn
vinh và phát triển.
4.1.2.4. Khả năng thu hút vốn đầu tư
Cũng như các xã vùng sâu, vùng xa khác, Sín Chéng có nhiều lĩnh vực
có khả năng thu hút đầu tư trong các lĩnh vực đó là: sơ chế, chế biến các sản
phẩm nông lâm nghiệp; phát triển một số sản phẩm đặc sản của địa phương
như: Vịt Sín Chéng, lợn địa phương, gà đen ....; chế biến thức ăn gia súc; du
lịch văn hóa ... Tuy nhiên, là xã vùng sâu, vùng xa nên chưa có cơ hội phát
triển.
4.1.2.5. Tiềm năng phát triển du lịch
Sín Chéng là xã nằm trên vùng núi cổ, có địa hình hiểm trở, chia cắt

mạnh, độ dốc tương đối lớn, có vẻ đẹp hùng vĩ, khí hậu trong lành, mát mẻ,


có chợ vùng cao ... nhân dân các dân tộc trong xã vẫn giữ bản sắc văn hoá của
dân tộc mình. Mặt khác khi thuỷ điện Cốc Ly dâng nước sẽ tạo lợi thế không
nhỏ cho du lịch phát triển.
4.1.2.6. Các chính sách phát triển
Sín Chéng hiện đang là xã vùng III – vùng đặc biệt khó khăn, là xã nằm
trong 62 huyện nghèo nhất cả nước (Nghị quyết 30a) nên trong thời gian qua
xã đang được hưởng các chính sách đầu tư, phát triển, xóa đói, giảm nghèo
như: chương trình 30a, chương trình 135, chương trình hỗ trợ ngành nông
nghiệp & PTNT do Đan Mạch tài trợ (ARD-SPS), chương trình 102, chương
trình 112, chương trình thực hiện Quyết định 33/QĐ-TTg, Quyết định
1592/QĐ-TTg ... và các chính sách khác.
4.1.2.7. Thực trạng môi trường
- Đối với đất nghĩa trang, nghĩa địa đã được quy hoạch song chưa được
tuân thủ nghiêm ngặt mà hình thành những nghĩa địa theo dòng họ, theo gia
đình. Mặt khác do phong tục chôn nông (đặt quan tài trên mặt đất sau đó mới
đắp đất, đá) đã gây ảnh hưởng đến môi trường, trong thời gian tới cần chú
trọng xây dựng nghĩa trang, nghĩa địa và vận động chôn sâu hơn để cải thiện
môi trường.
- Đối với bãi rác hiện trên địa bàn xã chưa được quy hoạch và xây dựng
nên ở một số thôn bản dân cư đông đúc, gần chợ đã bắt đầu gây mất vệ sinh
và mỹ quan thôn bản, trong thời gian tới cần dành quỹ đất cho việc xây dựng
các bãi rác tập trung để xử lý theo quy trình nhằm hạn chế ô nhiễm môi
trường.
- Nhà vệ sinh: hiện trên địa bàn xã mới có khoảng 10% số hộ có nhà vệ
sinh, tập trung tại các thôn đông dân cư, gần đường giao thông, trung tâm xã
còn phần lớn các hộ gia đình ở các thôn khác chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh,
đây cũng là vấn đề cần quan tâm trong thời gian tới nhằm giảm ô nhiễm môi

trường.


- Chuồng trại: phần lớn các hộ gia đình trong xã đều có chuồng trại
nhưng là chuồng trại chưa hợp vệ sinh (phân,chất thải chăn nuôi chưa được
thu gom và xử lý theo quy định), trong thời gian tới cần vận động nhân dân,
kêu gọi các nguồn tài trợ để xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh.
Nhân dân các dân tộc trong xã bước đầu đã nhận thức được vấn đề vệ
sinh môi trường song do thiếu nguồn vốn đầu tư, sự quan tâm của các cấp, các
ngành nên đây là vấn đề cần được nghiên cứu, xem xét, tính toán và tổ chức
thực hiện một cách nghiêm túc.


Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên và

áp lực phát triển kinh tế, xã hội đất đối với đất đại
a.Thuân lợi.
- Được sự quan tâm sát sao của Huyện ủy, UBND huyện, các cơ quan
chức năng, cơ quan đỡ đầu xã. Hiện nay nhiều chương trình dự án đang được
đầu tư, triển khai trên địa bàn xã, đây là động lực quan trọng để thúc đẩy phát
triển kinh tế của địa phương.
- Đảng ủy, HĐND, UBND xã đã có nhiều kinh nghiêm lãnh, chỉ đạo
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Sự đồng thuận hưởng
ứng của nhân dân các dân tộc Sín Chéng là động lực cơ bản thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện.
- Tiềm năng của đất đai tương đối lớn, các loại đất đa dạng phù hợp với
nhiều loại cây trồng, vì vậy có khả năng phát triển về nông, lâm nghiệp. Khí
hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm không khí phù hợp với nhiều loại cây nông
nghiệp, cây công nghiệp ngắn và dài ngày.
- Là xã trung tâm cụm cách trung tâm huyện lỵ Si Ma Cai 12 km, có

chợ phiên họp vào thứ tư hàng tuần đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc trao
đổi thông thương, mua bán hàng hóa và phát triển các loại dịch vụ.


×