Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Nghiên cứu đề xuất nội dung quy hoạch lâm nghiệp huyện như xuân, tỉnh thanh hoá đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.77 KB, 32 trang )

1

Nghiên cứu đề xuất nội dung quy hoạch lâm
nghiệp huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá đến
năm 2020

1


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Như Xuân là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa, có diện
tích tự nhiên 71.994,93 ha; trong đó: Diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm
nghiệp 52.563,06 ha, chiếm 73,01 % diện tích tự nhiên. Địa hình được chia làm 3
vùng rõ rệt là vùng núi cao, vùng đồi cao núi thấp và vùng đồi núi thấp có xen kẽ
các khe, sông, suối. Diện tích có rừng quy hoạch cho lâm nghiệp là 45.457,84
ha. Trong những năm qua, phát triển sản xuất lâm nghiệp của huyện đẫ được
quan tâm đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như: Vốn hỗ trợ của nước
ngoài (ODA), vốn ngân sách nhà nước và vốn do người dân tự đầu tư để bảo vệ,
sản xuất và phát triển vốn rừng đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, cải thiện môi trường sinh thái, góp phần nâng độ che phủ của rừng đạt 63%
năm 2011.
Ngày nay, nhu cầu nguyên liệu gỗ cho các ngành công nghiệp, chế biến
xuất khẩu và các ngành khác ngày càng tăng, việc sử dụng bền vững tài nguyên
rừng, đảm bảo nhu cầu phòng hộ, bảo vệ môi trường và tăng khả năng cung cấp
lâm sản của rừng, bảo tồn được bảo tồn đa dạng sinh học, tạo ra sản phẩm lâm
nghiệp có giá trị là hết sức cần thiết như: Gỗ, tre nức, lâm sản ngoài gỗ,...góp
phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập của người dân làm nghề rừng.
Tuy nhiên, trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng cũng như trong quản
lý sử dụng rừng còn nhiều tồn tại phát sinh: Rừng và đất lâm nghiệp đã được


giao, khoán ổn định lâu dài theo quy định của Nhà nước cho người dân và các tổ
chức, doanh nghiệp nhưng sử dụng còn kém hiệu quả; năng suất, chất lượng
rừng không cao; tình trạng chặt phá và khai thác rừng trái phép, cháy rừng vần
còn thường xuyên diễn ra; quy hoạch 3 loại rừng đã được thực hiện xong chưa
sát với thực tế của địa phương; việc sử dụng rừng chưa đúng mục đích; không
theo quy hoạch; hiện tượng lấn chiếm, mua bán chuyển nhượng đất rừng trái
phép còn xảy ra. Những tồn tại và bất cập này làm cho công tác quản lý bảo vệ

2


3

và phát triển rừng gặp nhiều khó khăn, giá trị đích thực của rừng chưa được khai
thác và sử dụng hiệu quả.
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
với nhiều lĩnh vực hoạt động, muốn kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổ hợp và sử
dụng bền vững tài nguyên rừng thì nhất thiết phải coi trọng công tác lập quy
hoạch và kế hoạch sản xuất lâm nghiệp. Việc nghiên cứu, quy hoạch phát triển
lâm nghiệp cho huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá nhằm bố cục hợp lý về mặt
không gian tài nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh
và làm căn cứ giúp Uỷ ban nhân dân huyện Như Xuân có cơ sở pháp lý giao chỉ
tiêu kế hoạch thực hiện bảo vệ, phát triển rừng hàng năm, từ đó việc quản lý, sử
dụng đất đai, bố trí và sử dụng quỹ đất hợp lý cho sản xuất lâm nghiệp, đồng
thời có tác dụng ngăn chặn hiện tượng tranh chấp, lấn chiếm đất đai của các chủ
sở hữu; các đối tượng sử dụng đất, tránh hiện tượng bỏ hoang hoá đất đai gây
lãng phí về tài nguyên - môi trường...
Để có những cơ sở, luận cứ góp phần quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
trên địa bàn huyện cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, nhằm
quản lý, bảo vệ chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá, phục vụ

cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tác giả tiến hành nghiên cứu
đề đề tài: “Nghiên cứu đề xuất nội dung quy hoạch lâm nghiệp huyện Như
Xuân, tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020".

3


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung
1.1.1. Nhận thức về quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng
- Khái niệm về quy hoạch:
+ Quy hoạch là một tiến trình để đạt tới mục đích, nhiệm vụ thực hiện với
các giải pháp rõ ràng theo thời gian và không gian nhất định; thể hiện một lộ trình
tăng trưởng và phát triển trong một không gian cụ thể, thời gian xác định của một
loại hình quy hoạch nhất định.
+ Quy hoạch đưa ra một mục đích tổng thể, mục tiêu cụ thể, kịch bản phát
triển và các giải pháp về cả số lượng và chất lượng trong việc phát huy tiềm năng,
lợi thế trong một phạm vi nhất định và theo thời gian xác định dựa trên sự phân
tích các nguồn lực và điều kiện đặt trong xu thế phát triển chung.
Như vậy quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng đều là một
hoạt động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động không gian và
thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong
tương lai.
1.1.2. Quan hệ giữa quy hoạch lâm nghiệp với quy hoạch cảnh quan, quy
hoạch sử dụng đất và quản lý rừng bền vững
- Quan hệ giữa quy hoạch lâm nghiệp với quy hoạch sử dụng đất là: Quan hệ
tương hỗ vừa phát triển vừa hạn chế lẫn nhau. Quy hoạch lâm nghiệp là cơ sở và là

bộ phận hợp thành của qui hoạch sử dụng đất nhưng lại chịu sự khống chế qui
hoạch của qui hoạch sử dụng đất. Đây là mối quan hệ giữa cá thể với tổng thể của
cục bộ và toàn bộ, về quy hoạch không có sự sai khác theo không gian ở cùng một
khu vực cụ thể. Tuy nhiên chúng có sự khác nhau rất rõ về chủ trương chỉ đạo và
nội dung: Một bên là sự bố trí, sắp xếp cụ thể, cục bộ; một bên là sự định hướng
chiến lược có tính toàn diện và toàn cục.

4


5

- Quan hệ giữa quy hoạch lâm nghiệp với quy hoạch cảnh quan: Là mối
quan hệ hỗ trợ, khi quy hoạch lâm nghiệp là một nhân tố tác động đến quy hoạch
cảnh quan thông qua cách bố trí, sử dụng rừng và nó có thể làm tăng hoặc giảm
tính đa dạng loài, đa dạng di truyền mà đối với quy hoạch cảnh quan thì đây lại là
một trong những cơ sở khoa học;
- Quan hệ giữa quy hoạch lâm nghiệp với quản lý rừng bền vững (QLRBV):
Đây cũng là mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, quản lý rừng bền vững là cái đích mà
quy hoạch lâm nghiệp cần phải vươn tới, trong khi quy hoạch lâm nghiệp lại là một
yếu tố quan trọng để giúp QLRBV, hai mối quan hệ phụ thuộc vào nhau.
1.2. Trên thế giới
1.2.1. Quy hoạch cảnh quan sinh thái
Thuật ngữ “cảnh quan - Landscape” là tổng thể lãnh thổ tự nhiên của bất kỳ
một quy mô nào, có sự đồng nhất tương đối về một số hợp phần tự nhiên nào đó,
chúng mang tính chất kiểu loại và được phân loại theo các chỉ tiêu dấu hiệu của sự
đồng nhất đó. Cảnh quan được các nhà cảnh quan học Trung Quốc lý giải theo 3
cách:
- Theo phương diện mỹ học, thì cảnh quan đồng nghĩa với từ “phong cảnh”.
Cảnh quan là đối tượng thẩm mỹ, mà rừng được xem là phong cảnh (rừng phong

cảnh);
- Theo phương diện địa lý thì cảnh quan là tổng hợp các thành phần sinh vật,
địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu. Khái niệm cảnh quan này rất gần
gũi với thuật ngữ hệ sinh thái hoặc quần lạc sinh địa.
- Cảnh quan sinh thái học. Cảnh quan là sự tổ hợp các hệ sinh thái khác nhau
trong một không gian. Một cảnh quan bao gồm sự tụ họp của một số hệ sinh thái ở
liền kề nhau có sự ảnh hưởng lẫn nhau, có chức năng liên quan hỗ trợ và phát sinh
đặc điểm nhất định trong một không gian.

5


6

Cảnh quan có thể thay đổi phụ thuộc vào hình dáng vật lý và vị trí như đỉnh
núi, hồ, biển hay đất liền. Cảnh quan cũng có thể chia thành cảnh quan nông thôn
hay thành thị tùy thuộc vào mức độ “nhân tạo” của cảnh quan đó.
- Các nghiên cứu làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan sinh thái
* Nghiên cứu tính đa dạng sinh học: Tính đa dạng sinh học đối với môi
trường sống của con người có tầm quan trọng đặc biệt, sự đa dạng sinh học có
quan hệ chặt chẽ tới đa dạng cảnh quan. Vì vậy, các nhà sinh học ở Mỹ
(California), Nam phi, Chi lê, Australia (Mayer, Lugo, Wilson) đã tiến hành nghiên
cứu sự đa dạng sinh học để làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan các khu vực rừng
nguyên sinh. Duy trì tính đa dạng cảnh quan, đa dạng loài và tính đa dạng di
truyền là một trong những mục tiêu chủ yếu của quản lý tài nguyên thiên nhiên nói
chung, quản lý rừng nói riêng.
* Để làm cơ sở quy hoạch cảnh quan sinh thái cho các khu bảo tồn: Các nhà
khoa học gồm Simpson, Shannnon - Weiner, Richness đã tập trung nghiên cứu về
chỉ số đa dạng sinh học. Chỉ số đa dạng sinh học là cơ sở đánh giá đa dạng cảnh
quan sinh thái khi tiến hành quy hoạch cảnh quan.

1.2.2. Quy hoạch sử dụng đất.
Hiện nay có rất nhiều tài liêu nghiên cứu định nghĩa về quy hoạch sử dụng đất
(QHSDĐ) khác nhau, từ đó đưa đến những việc phát triển quan điểm và phương
pháp được sử dụng trong QHSDĐ cũng khác nhau.
Theo Dent (1988; 1993) [22]: QHSDĐ như là phương tiện giúp cho lảnh đạo
quyết định sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá có hệ thống cho
việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự chọn lựa này sẽ đáp ứng với
những mục tiêu riêng biệt, và từ đó hình thành nên chính sách và chương trình cho
sử dụng đất đai.
Một định nghĩa khác của Fresco và ctv., (1992) [24], QHSDĐ như là dạng
hình của quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất về đất đai trên

6


7

quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi trường, xã hội và
những vấn đề hạn chế khác.
Theo Mohammed (1999), những từ vựng kết hợp với những định nghĩa về
QHSDĐ là hầu hết đều đồng ý chú trọng và giải đoán những hoạt động như là một
tiến trình xây dựng quyết định cấp cao. Do đó QHSDĐ, trong một thời gian dài với
quyết định từ trên xuống nên cho kết quả là nhà quy hoạch bảo người dân phải làm
những gì. Trong phương pháp tổng hợp và người sử dụng đất đai là trung tâm
(UNCED, 1992; trong FAO, 1993) đã đổi lại định nghĩa về QHSDĐ như sau
QHSDĐ là một tiến trình xây dựng những quyết định để đưa đến những hành động
trong việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp những cái có lợi bền vững
nhất (FAO, 1995). [23]Với cái nhìn về quan điểm khả năng bền vững thì chức năng
của QHSDĐ là hướng dẫn sự quyết định trong sử dụng đất đai để làm sao trong
nguồn tài nguyên đó được khai thác có lợi cho con người, nhưng đồng thời cũng

được bảo vệ cho tương lai. Cung cấp những thông tin tốt liên quan đến nhu cầu và
sự chấp nhận của người dân, tiềm năng thực tại của nguồn tài nguyên và những tác
động đến môi trường có thể có của những sự lựa chọn là một yêu cầu đầu tiên cho
tiến trình quy hoạch sử dụng đất đai thành công. Ở đây đánh giá đất đai giữ vai trò
quan trọng như là công cụ để đánh giá thực trạng của đất đai khi được sử dụng cho
mục đích riêng biệt (FAO, 1976) [25], hay như là một phương pháp để giải nghĩa
hay dự đoán tiềm năng sử dụng của đất đai (Van Diepen và ctv., 1988) [26].. Do đó
có thể định nghĩa:
Thay đổi trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội để chọn lọc
và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng thời quy hoạch sử
dụng đất đai cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng đất đai đó mà
nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong tương lai”.
Do đó, trong quy hoạch cho thấy:
- Những sự cần thiết phải thay đổi,

7


8

- Những cần thiết cho việc cải thiện quản lý,
- Những cần thiết cho kiểu sử dụng đất đai hoàn toàn khác nhau trong các
trường hợp cụ thể khác nhau.
Các loại sử dụng đất đai bao gồm: đất ở, nông nghiệp (thủy sản, chăn nuôi,…)
đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia một cách cụ
thể theo thời gian được quy định. Do đó trong quy hoạch sử dụng đất đai phải cung
cấp những hướng dẫn cụ thể để có thể giúp cho các nhà quyết định có thể chọn lựa
trong các trường hợp có sự mâu thuẩn giữa đất nông nghiệp và phát triển đô thị
hay công nghiệp hóa bằng cách là chỉ ra các vùng đất đai nào có giá trị nhất cho

đất nông nghiệp và nông thôn mà không nên sử dụng cho các mục đích khác.
Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và
pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao
thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất (cả nước hoặc trong phạm vi
một đơn vị, đối tượng sử dụng đất cụ thể), tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản
xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường.
1.2.3. Quy hoạch lâm nghiệp
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư
bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu khối
lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế
độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản
xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải
có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho
các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy hoạch lâm nghiệp đã được
hình thành trong hoàn cảnh như vậy.
Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “
Khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên
rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt

8


9

luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương
thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.
Vào thế kỷ 19, sau cách mạng công nghiệp, phương thức kinh doanh rừng
chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài. Và
phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “Chia

đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng
và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816, xuất hiện
Phương thức luân kỳ lợi dụng của H. Cotta, Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20
thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời, quan điểm phương pháp
này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo
thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19, xuất hiện phương
pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp này khác với phương pháp
“Bình quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm bảo
thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp
“Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp
tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp tuổi”
chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu
tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao
vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng
phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần
kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà
dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng
và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành “Phương
pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra”.
1.2.4. Quản lý rừng bền vững

9


10

Nỗ lực đầu tiên trong QLRBV được thực hiện là thành lập hệ thống rừng
trang trại tại Hoa Kỳ (ATFS) năm 1941, là một chương trình của Trung tâm rừng

hộ gia đình của Tổ chức Lâm nghiệp Hoa Kỳ, được cam kết duy trì các khu rừng,
khu vực đầu nguồn và nơi cư trú phù hợp thông qua năng lực của đơn vị quản lý tư
nhân. ATFS đã xây dựng các hướng dẫn và các tiêu chuẩn cho các chủ sở hữu để
đáp ứng nhu cầu trở thành trang trại có rừng được chứng nhận. Theo các tiêu chuẩn
và hướng dẫn này, các chủ sở hữu tư nhân phải xây dựng kế hoạch quản lý dựa trên
các tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ và phải thông qua xét duyệt của cán bộ lâm
nghiệp tình nguyện của ATFS 5 năm một lần. ATFS đã công nhận 24 triệu mẫu
Anh đất rừng thuộc sở hữu tư nhân và 90.473 chủ sở hữu rừng từ nhân, những
người cam kết quản lý tốt rừng của mình, tại 46 bang.
Tiếp theo đó là FSC được thành lập năm 1993, bởi một nhóm gồm 130 thành
viên khác nhau từ 25 quốc gia trên thế giới, bao gồm đại diện của các cơ quan môi
trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản, các ngành công nghiệp và các cơ
quan cấp chứng chỉ. Nhiệm vụ của FSC là thúc đẩy việc QLR trên thế giới một
cách hợp lý về mặt môi trường, có ích về mặt xã hội và có thể thực hiện được về
mặt kinh tế. FSC đã đẩy mạnh việc áp dụng những Nguyên tắc (Tiêu chuẩn) và
Tiêu chí về QLR đối với tất cả các loại rừng trên Thế giới thông qua một chương
trình ủy nhiệm tình nguyện cho các cơ quan cấp chứng chỉ. Cùng với sự ra đời của
FSC, một loạt các tổ chức khác cũng được thành lập: PAN-EUROPEAN cho rừng
tự nhiên toàn châu Âu (Helsinki); CIFOR (Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc
tế) cho rừng tự nhiên nói chung; ITTO (tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt đới) cho rừng
tự nhiên nhiệt đới... Cộng đồng quốc tế đã tổ chức nhiều hội nghị, đề xuất và cam
kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng: Chiến lược bảo tồn quốc tế (1980);
Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED, Riodejaneiro,
1992); Công ước buôn bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước đa dạng
sinh học (CBD)... Nhiều định nghĩa QLRBV được đưa ra, tuy nhiên hai định nghĩa

10


11


phổ biến và được công nhận rộng rãi nhất đó là của ITTO và trong tiến trình
Hensinki.
Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phận
ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng
như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà
không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng
và không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và
xã hội”
Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất
rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng
suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và trong
tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương,
cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác”.
Các định nghĩa trên đều tập trung vào các vấn đề chính là: QLR ổn định bằng
các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra, bảo đảm bền vững về kinh tế,
môi trường và xã hội. Các yếu tố của QLRBV là:
+ Có khuôn khổ chính sách và pháp lý;
+ Sản xuất lâm sản bền vững;
+ Bảo vệ được môi trường;
+ Đảm bảo lợi ích con người;
+ Đối với rừng trồng, có các cân nhắc áp dụng cụ thể phù hợp.
Trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn QLRBV cấp quốc gia và cấp quốc tế
của tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal. FSC và ITTO đã có bộ tiêu chuẩn của
QLR được vận dụng rất rộng rãi để đánh giá QLR ở nhiều nước.
Tuy nhiên, theo bản báo cáo của ITTO đã thừa nhận FSC “Gần như là
chương trình duy nhất về gắn nhãn hiệu và ủy quyền đối với lâm phẩm trên toàn
thế giới”. Số lượng ít ỏi các cơ quan được cấp CCR do FSC ủy quyền trước đây đã
là một hạn chế trong việc phát triển vấn đề cấp chứng chỉ gỗ, và ngày nay đã được


11


12

FSC khắc phục hiệu quả bằng việc gia tăng ủy quyền cho các tổ chức cấp CCR.
Hiện nay có 24 tổ chức độc lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ FSC, thời hạn
chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu lực 5 năm và kiểm tra chất lượng hàng năm. Tiêu
chuẩn QLRBV của FSC có 10 nguyên tắc, 56 tiêu chí. Các tiêu chí vẫn luôn được
xem xét, cân nhắc để chỉnh sửa thông qua đề đạt của các thành viên FSC và lấy
biểu quyết trong các kỳ đại hội.
Hội đồng PEFC (Chương trình chứng nhận các tổ chức CCR) là một tổ chức độc
lập, phi lợi nhuận, phi chính phủ, được thành lập năm 1999, hoạt động thúc đẩy
QLRBV thông qua việc chứng nhận độc lập bởi bên thứ ba. PEFC đưa ra cơ chế
đảm bảo với những người thu mua sản phẩm gỗ và giấy rằng họ đang xúc tiến
công tác QLRBV. PEFC là chương trình quy mô toàn cầu về đánh giá và công
nhận lẫn nhau của các tổ chức CCR quốc gia đã được phát triển trong quá trình có
các bên tham gia.
1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoach cảnh quan
Một quá trình xây dựng kế hoạch quản lý đất đai cho một vùng đất trên cơ
sở nghiên cứu sinh thái cảnh quan được coi như là quy hoạch cảnh quan, nghiên
cứu đến thế giới sinh vật, vật chất và năng lượng có thể tồn tại và lưu thông ngay
trong cảnh quan đó.
Tác động của con người tới thiên nhiên là một yếu tố then chốt ảnh hưởng
tới các chức năng của cảnh quan. Sinh thái cảnh quan giúp xác định những khiếm
khuyết của chúng ta trong quá khứ, và cũng như vậy giúp ta xác định cách tiếp cận
tốt hơn để có thể đáp ứng nhu cầu của con người mà không gây ảnh hưởng không
bền vững tới các hệ sinh thái tự nhiên. Mục tiêu của quy hoạch cảnh quan là để bảo
vệ các thành phần chủ yếu của hệ sinh thái cảnh quan và giữ lại các dòng chuyển

động sống và … Một mục tiêu khác là hướng các hoạt động của con người khỏi
những nơi dễ bị tổn hại sinh thái.

12


13

Một Cảnh quan không có một kích thước cố định, do vậy quy hoạch cảnh
quan có thể thực hiện ở những quy mô khác nhau;
Nguyễn Thế Thôn cho rằng: “Cảnh quan sinh thái là tổng thể lãnh thổ hiện
tại, có cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của các hệ sinh thái
đang tồn tại và phát triển trên đó. Các cảnh quan sinh thái được phân biệt với nhau
theo cấu trúc cảnh quan và theo chức năng sinh thái khác nhau trên các phần lãnh
thổ khác nhau”.
- Quá trình nghiên cứu cảnh quan trong lâm nghiệp đã được Nguyễn Văn
Khánh vận dụng trong đề tài “Góp phần nghiên cứu phân vùng lập địa lâm nghiệp
Việt Nam”. Tác giả xác lập cho toàn quốc theo 6 cấp phân vị: Miền - á miền - vùng tiểu vùng - dạng đất đai - dạng lập địa.
- Hai tác giả Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình chủ biên công trình
“Đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp Việt Nam” (2001)[6]. Trong công
trình các tác giả đã tiến hành đánh giá đất lâm nghiệp trong phạm vi toàn quốc
trên 8 vùng kinh tế sinh thái lâm nghiệp, ở trên 4 đối tượng chính: đất vùng đồi
núi, đất cát biển, đất ngập mặn sú vẹt, đất chua phèn. Qua nghiên cứu các tác
giả đã đề xuất được các vùng thích hợp đối với một số loài cây trồng.
- Các mô hình quy hoạch cảnh quan trong lâm nghiệp có: Quy hoạch không
gian Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang - Hà Tĩnh. Quy hoạch không gian Vườn quốc
gia Bến En - Thanh Hóa....Trong các phương án quy hoạch cho các khu rừng đặc
dụng này đã đề xuất và chấp nhận sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động quản lý
bảo vệ , vì vậy đã nâng cao được nhận thức, hạn chế xung đột giữa hoạt động của con
người với nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học.

- Vào tháng 10/2009, với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB), tại Thừa
Thiên Huế đã tiến hành hội thảo quy hoạch cảnh quan cho 7 xã thuộc 3 huyện. Các
vấn đề nêu ra tại hội thảo đang còn là bước đi đầu tiên trong việc tiếp cận một cách
nhìn mới trong quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp (QHSDĐLN), thậm chí mới

13


14

dừng lại ở phương pháp QHSDĐLN có sự tham gia của cộng đồng dân cư và cấp
chính quyền sở tại....
Do vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng phương pháp quy hoạch cảnh quan
vào trong QHLN là vấn đề tương đối mới lạ, mặc dù công tác quy hoạch LN đã và
đang thực hiện đều trên cơ sở đề cập và phân tích đầy đủ các yếu tố tự nhiên, kinh
tế- xã hội.
1.3.2. Quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày càng được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, chỉ đạo một cách sát sao bằng các văn bản pháp luật và được xem như là
một luận chứng cho việc phát triển nền kinh tế đất nước. Điều ngày được thể hiện
qua các giai đoạn sau:
1.3.2.1. Thời kỳ trước những năm 1980
- Thời kỳ này, nước ta mới thống nhất, đang chú trọng khắc phục hậu quả
chiến tranh, quy hoạch sử dụng đất chưa được coi trọng. Tuy nhiên đến cuối năm
1978 các phương án phân vùng nông - lâm nghiệp và chế biến nông - lâm sản của
7 vùng kinh tế ở tất cả các tỉnh đã được lập kế hoạch và được Chính Phủ phê
duyệt. Thời kỳ này, Chính Phủ chỉ đạo phân vùng quy hoạch nông - lâm nghiệp
phục vụ cho phát triển nông - lâm nghiệp, còn các loại đất khác chưa được đề cập
tới. Hạn chế của thời kỳ này là thiếu số liệu điều tra cơ bản về đất đai, tính khả thi
của các phương án còn thấp vì chưa tính được khả năng đầu tư.

1.3.2.2. Thời kỳ 1981 - 1986
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra: “Xúc tiến công tác điều tra cơ
bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu
chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5
năm sau (1986 - 1990).
Kết quả trong tài liệu quy hoạch sử dụng đất chỉ đề cập từ cấp tỉnh trở lên và
chưa đề cập đến cấp xã.
1.3.2.3. Thời kỳ 1987 - 1992

14


15

Năm 1987 luật đất đai đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ra đời tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quy hoạch sử dụng đất.
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời,
cụ thể tại Điều 17 trong hiến pháp nêu rõ: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý” và Điều 18 hiến pháp nêu rõ: “Nhà nước thống nhất quản
lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo đúng mục đích và có hiệu
quả.
1.3.2.4. Thời kỳ từ năm 1993 đến nay
Tháng 7 năm 1993 luật đất đai sửa đổi được công bố
Từ năm 1993 đến nay, Tổng cục địa Chính đã triển khai quy hoạch đất đai
toàn quốc giai đoạn 2006 - 2020. Dự án quy hoạch được Chính Phủ thông qua và
Quốc hội phê chuẩn. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch đất đai của
bộ, ngành, tỉnh.
Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Điều 21 quy định nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất. Điều 23 quy định về nội dung chủ yếu của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Điều 25 quy định rõ cả 4 cấp hành chính trong cả nước phảo lập quy hoạch sử
dụng đất. Điều 26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất. Điều 29 thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Ngày 01/7/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực. Luật quy định rõ
về công tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung, công tác quản lý quy hoạch
sử dụng đất.
Ngày 01/11/2004 Chính Phủ ban hành nghị định số 181/2004/NĐ-CP về
việc thi hành luật đất đai.
Ngày 01/11/2004 Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư số
30/2004/TT-BTNMT về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
1.3.3. Quy hoạch lâm nghiệp

15


16

Quy hoạch lâm nghiệp là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt không
gian tài nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo các
cấp quản lý lãnh thổ và các cấp quản lý sản xuất khác nhau, làm cơ sở cho việc lập
kế hoạch định hớng cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản
cho nền kinh tế quốc dân, cho kinh tế địa phơng, đồng thời phát huy những tác
dụng có lợi khác của rừng.
Ở nước ta quy hoạch lâm nghiệp được áp dụng ngay từ thời kì Pháp thuộc.
Nhờ việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng
Thông theo phương pháp hạt đều...
Trong những năm 1955 - 1957 chúng ta tiến hành sơ thám và mô tả ước
lượng tài nguyên rừng. Đến năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng
miền Bắc. Và mãi đến năm 1960 - 1964 chúng ta mới áp dụng công tác quy hoạch

lâm nghiệp ở miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp
ngày càng được tăng cường, mở rộng và phát triển. Công tác quy hoạch được Viện
điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy hoạch của các
Sở Lâm nghiệp (nay là sở Nông Nghiệp và PTNT) không ngừng cải tiến phương
pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của các nước cho phù hợp với trình độ và điều
kiện tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước
khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều.
Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng
làm cơ sở cho công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa nghiên cứu và áp
dụng.
1.3.3.1. Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp
- Địa bàn quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng ven
biển, trung du, núi cao và biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia cắt phức
tạp, giao thông đi lại khó khăn và ó nhiều ngành kinh tế hoạt động.
- Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp,
kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp nhiều khó

16


17

khăn. Đối tượng của công tác quy hoạch lâm nghiệp là rừng và đất lâm nghiệp, từ
bao đời nay là “của chung” của đồng bào các dân tộc, nhưng thực chất là vô chủ.
- Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài 40-100 năm).
Người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn sẽ có lợi.
- Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp cũng rất đa dạng: Quy hoạch rừng
phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường); Quy
hoạch rừng đặc dụng (các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu di
tích văn hoá - lịch sử - danh thắng) và quy hoạch phát triển các loại rừng sản xuất.

- Quy mô của công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và vi
mô: Quy hoạch toàn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, xí nghiệp, lâm
trường, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
- Lực lượng tham gia làm công tác quy hoạch lâm nghiệp thường luôn phải
lưu động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn về mọi mặt... Đội
ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao gồm cả lực lượng
của Trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng tham gia làm quy
hoạch lâm nghiệp (nông nghiệp, công an, quân đội...); Trong đó, có một bộ phận
được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm
hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp
1.3.3.2. Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm nghiệp phục vụ chuyển
đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn.
Quy hoạch lâm nghiệp là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt không
gian tài nguyên và bố trí các hạng mục sản xuất kinh doanh các cấp quản lý lãnh
thổ và các cấp quản lý sản xuất khác nhau làm cơ sở cho việc lập kế hoạch cho sản
xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân,
cho nền kinh tế địa phương, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi từ rừng.
Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ trương,
chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội và chính quyền các cấp trên
từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm nghiệp phải đạt được:

17


18

- Hoạch định rõ ràng ranh giới đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất do các
ngành khác sử dụng. Trong đó, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được quan tâm
hàng đầu vì hai ngành chính sử dụng đất đai.
- Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định tiến hành hoạch định 3 loại

rừng (phòng hộ, đặc dung, sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm sinh thích
hợp với từng loại rừng và đát rừng (bảo vệ, làm giàu, khoanh nuôi phục hồi, trồng
mới, nuôi dưỡng, nông lâm kết hợp, khai thác lợi dụng rừng…).
- Tính toán nhu cầu đầu tư (chủ yếu nhu cầu lao động, vật tư thiết bị và nhu
cầu vốn). Vì phương án quy hoạch nên việc tính toán nhu cầu đầu tư chỉ mang tính
khái quát, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất ở những bước tiếp theo.
- Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy hoạch
(giải pháp lâm sinh, khoa học công nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp về vốn, lao
động …).
- Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn (cấp vùng, tỉnh) và đề
xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước tiếp theo là lập dự án
đầu tư quy hoạch báo cáo nghiên cứu khả thi.
1.3.3.3. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính: Từ
toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thành phố trực thuộc
tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển, mỗi đơn vị đều phải xây dựng
phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các
ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát triển xã hội…
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch lâm
nghiệp là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất nghề rừng
nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên địa bàn.
a) Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc
Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc là quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp
trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản, bao gồm:

18


19


Xác định phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp toàn quốc. Quy
hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (sản xuất, phòng hộ và đặc
dụng). Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có. Quy
hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng), thực hiện nông lâm
kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ.
Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội.
Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải. Xác định tiến độ thực hiện.
Do đặc thù khác với những ngành kinh tế khác, cho nên thời hạn quy hoạch
lâm nghiệp thường được thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội dung quy
hoạch được thực hiện tuỳ theo các vùng kinh tế lâm nghiệp.
b) Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh
Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh giải quyết những vấn đề: Xác định phương
hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong phạm vi tỉnh căn cứ vào phương
hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ quy hoạch lâm nghiệp
toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh. Tiến
hành quy hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo ba chức năng: Rừng sản xuất,
rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ vào điều kiện đất đai tài nguyên rừng, đồng thời căn
cứ vào nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác. Quy hoạch bảo vệ, nuôi
dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái
sinh tự nhiên và trồng rừng), thực hiện nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng
rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất,
phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ
tầng, giao thông vận tải. Xác định tiến độ thực hiện.
c) Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp tỉnh, tuy nhiên nó được thực hiện

19



20

cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện. Quy hoạch lâm
nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau:
- Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của
huyện, căn cứ vào phương án phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều kiện tự nhiên
kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để xác định
phương hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.
- Căn cứ phương hướng phát triển lâm nghiệp huyện và điều kiện đất đai tài
nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác. Tiến hành quy hoạch
đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng.
- Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng tài nguyên rừng hiện có.
- Quy hoạch các biện pháp tái sinh rừng: Trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi
rừng tự nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ trên đất
lâm nghiệp.
- Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền với thị
trường tiêu thụ.
- Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho các
thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội.
- Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
- Xác định tiến độ thực hiện.
Thời gian quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện thường là 10 năm. Các nội dung
quy hoạch lâm nghiệp cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế
- xã hội chung của từng tiểu vùng trong huyện.
Ngoài ra hiện một số địa phương đã thực hiện việc xây dựng quy hoạch lâm
nghiệp cấp xã và quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh.
1.3. 4. Quản lý rừng bền vững (QLRBV)
Việt Nam tham gia Chương trình QLRBV từ năm 1998 tới nay, tuy mới hình
thành nhưng được sự hưởng ứng của các cấp chính quyền, sự hăng hái tự nguyện

của các chủ rừng, các doanh nghiệp kinh doanh gỗ, tiến trình quản lý rừng bền

20


21

vững đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, đặc biệt là tại các vùng khai thác gỗ, chế
biến gỗ xuất khẩu. Ngày nay, biến đổi khí hậu đang đe doạ sự tồn vong của loài
người thì QLRBV là biện pháp chủ động của con người để ngăn chặn giảm thiểu
nguyên nhân thay đổi khí hậu.
Tháng 2/1998, Bộ NN&PTNTcùng 3 tổ chức quốc tế phát động 1 phong trào
QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước, thông qua Hội thảo quốc gia ngày 1012/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC
ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm 12 thành viên thực hiện chương trình
hành động, đồng thời xây dựng tổ chức để hoạt động lâu dài trong hệ thống thành
viên của FSC nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại Việt Nam. Ban đầu
NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp thuộc Bộ NN&PTNT. Từ năm 2001, theo quy
chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận
thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện Quản lý rừng bền vững và
Chứng chỉ rừng-Viện QLRBV&CCR).
Các hoạt động chủ yếu của NWG là:
- Dựa trên cơ sở 10 tiêu chuẩn và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự thảo
tiêu chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam, song vẫn
đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9c đã lấy ý kiến
nhiều chủ rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên gia FSC sang
dự hội thảo góp ý. Đang chờ ý kiến FSC thẩm định.
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên liên
quan và cộng đồng dân cư sống trong rừng, gần rừng.
- Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho chuyên
gia Viện QLRBV và cán bộ lâm nghiệp.

- Đánh giá chất lượng QLR.
- Tổ chức mạng lưới các mô hình QLRBV tự nguyện.
Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010 đã
xác định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ chốt.

21


22

Vào đầu năm 2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã
được ban hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc gia với năm
chương trình lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm
của chiến lược với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng trồng sản xuất đến
năm 2020 được cấp chứng chỉ.
Như vậy, các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách,
chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam.
1.3.4.1. Một số công trình nghiên cứu về QLRBV
Các công trình nghiên cứu về QLRBV ở Việt nam chưa nhiều nhưng một số
công trình nghiên cứu về QLRBV có thể kể đến là:
- Công trình nghiên cứu về Xây dựng các bước đánh giá QLRBV để cấp
CCR theo tiêu chuẩn của FSC. Công trình nghiên cứu thuộc cấp Bộ NN&PTNT
quản lý, Trường Đại học Lâm nghiệp là cơ quan chủ trì và do PGS.TS Vũ Nhâm
làm chủ nhiệm. Đề tài tiến hành từ năm 2001 đến 2002 kết thúc. Sản phẩm chính
của đề tài là Thiết lập được tiến trình đánh giá QLRBV cho một chủ rừng ở Việt
Nam.
- Một số đề tài nghiên cứu Đánh giá QLRBV cho một số Công ty lâm
nghiệp do các nghiên cứu viên tiến hành để xây dựng luận văn Thạc sĩ;
1.3.4.2. Các hoạt động về QLRBV.
- Hoạt động của NWG về QLRBV.

+ Tuyên truyền tập huấn đào tạo về QLRBV do NWG thực hiện với sự hỗ
trợ Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính của GTZ, WWG Đông
Dương tại các hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh.
+ Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động QLRBV thể hiện trong
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2010.
+ Xây dựng lộ trình thực hiện QLRBV theo hai giai đoạn 2006-2010 và sau
năm 2010.

22


23

Dựa trên thực tiễn, NWG tiến hành các khảo sát nhằm xem xét tính khả thi
của bộ tiêu chuẩn quốc gia đang dự thảo, đồng thời đánh giá trình độ quản lý của
các đơn vị.
- Hiện nay một số chương trình dự án về CCR đã và đang được thực hiện:
+ Dự án điều tra xây dựng kế hoạch QLRBV tại huyện KonPlong (KonTum)
2000- 2002 do JICA tài trợ.
+ Chương trình lâm nghiệp của GTZ, hợp phần QLRBV đang hỗ trợ 5 lâm
trường quốc doanh quản lý rừng tự nhiên là MaDrak và Nam Nung (Đắc Lắk) đã
mở rộng ra 3 lâm trường khác tại Quảng Bình, Ninh Thuận, Yên Bái từ 20072009....
+ Tổng công ty Giấy Việt nam, với sự hỗ trợ của Viện QLRBV&CCR, cùng
với sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên, trong 4 năm từ 2008-2011 Tổng
công ty đã được tổ chức SmartWood đến đánh giá và cấp Chứng chỉ rừng FM-CoC
cho 5 Công ty: Xuân Đài, Đoan Hùng, Sông Thao, Yên Lập, Thanh Hòa và đang
tiến hành đánh giá để cấp CCR cho Công ty LN Tam Thắng và Công ty LN Cầu
Ham...
1.4. Thảo luận
- Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng dù ở thế giới hay

ở Việt Nam cũng đều hình thành từ rất sớm và đều có những quan điểm chung; đều
hướng tới hiệu quả trong hoạt động kinh doanh rừng;
- Phương án quy hoạch lâm nghiệp có được đánh giá là bền vững hay không
phải được nhìn nhận, đánh giá trên cả ba lĩnh vực: Môi trường, kinh tế và xã hội.
Đối với các nước phát triển thì tiêu chuẩn bền vững được dựa trên 3 yếu tố trên
được áp dụng từ rất sớm nhưng đối với các nước chậm phát triển và các nước đang
phát triển như Việt Nam quan điểm bền vững dựa trên 3 yếu tố mới được nhìn
nhận gần đây;
- Xây dựng phương án quy hoạch lâm nghiệp đảm bảo tính khả thi và đạt kết
quả thì việc sử dụng phương pháp phân tích quy hoạch có sự tham gia thay thế cho

23


24

các phương pháp truyền thống (chủ yếu do các chuyên gia lập). Để nhấn mạnh vai
trò tham gia của người dân, tổ chức và chủ rừng trong xây dựng phương án quy
hoạch lâm nghiệp;
- Áp dụng và bổ sung vào xây dựng phương án quy hoạch lâm nghiệp huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá đến 2020.

24


25

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Quy hoạch lâm nghiệp phát triển ổn định, bền vững cho huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng được cơ sở khoa học cho Quy hoạch Lâm nghiệp huyện Như
Xuân.
- Xác định được phương hướng, mục tiêu phát triển lâm nghiệp ổn định, bền
vững đến năm 2020 và đề xuất những nội dung cơ bản của Quy hoạch Lâm nghiệp
huyện Như Xuân.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các văn bản và tài liệu có liên quan đến hoạt động phát triển lâm nghiệp
trên địa bàn huyện Như Xuân;
- Điều kiện cơ bản của huyện Như Xuân tác động đến phát triển lâm nghiệp;
- Trọng tâm nghiên cứu hoạt động phát triển lâm nghiệp trên địa bàn huyện
Như Xuân;
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ diện tích rừng và đất lâm nghiệp thuộc huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hoá;
2.3. Nội dung nghiên cứu
1) Xây dựng cơ sở khoa học cho quy hoạch lâm nghiệp huyện Như Xuân
đến năm 2020.

25


×