Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tieu luan triet hoc vận dụng quan điểm trong triết học mác lênin để phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.44 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển, trải qua các hình thái kinh tế và
luôn gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra
của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Nếu ngừng lao động sản xuất ra
của cải vật chất thì sự sống trên tồn cầu bị huỷ diệt. Bên cạnh đó sản xuất vật
chất cịn là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần
của xã hội. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng to lớn của kinh tế trong sự tồn tại
và phát triển của xã hội bởi vì kinh tế chính là kết quả của q trình lao động sản
suất của cải, vật chất. Không vượt khỏi quy luật khách quan, nền kinh tế nước ta
cũng là nên tảng cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Tháng 12 năm 1986,
đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp và đề ra đường lối đổi mới kinh
tế. Đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Gần 30
năm đổi mới, việc chuyển đổi kinh tế luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của xã
hội. Chính vì lý do đó em quyết định chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm trong
triết học Mác - Lê Nin để phân tích q trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong nước
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần (gồm 5 thành phần kinh tế) với các hình thức sở hữu tương ứng
như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư
bản và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác. Trong đó, mỗi hình thức sở hữu lại có
trình độ và cách thức thể hiện khác nhau vì chúng được hình thành dựa trên trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, của các thành phần kinh tế khác nhau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Đề tài nhằm tìm ra những ưu điểm, hạn chế của nền kinh tế thị
trường trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục


những mặt trái khi con người bị ảnh hưởng quá nhiều của nền kinh tế thị trường


dễn đến có lối sống vô cảm, thờ ơ với cuộc sống xung quanh, coi trọng đồng tiền.
Nhiệm vụ: Để thực hiện, phạm vi đề tài này tập trung các nhiệm vụ chính
sau đây:
- Cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
- Việc chuyển đổi kinh tế thị trường ở Việt Nam
- Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: phân tích các hoạt động của nền kinh tế thị trường
Việt Nam thời gian qua.
Phạm vi nghiên cứu: Các kết quả kinh tế-xã hội Việt Nam trong gần 30
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa MácLêNin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về
chuyển đổi nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Phương pháp nghiên cứu:
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu được dùng để nghiên cứu các văn kiện và
tài liệu liên quan nhằm hình thành khung lý thuyết.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các kết quả kinh tế-xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn
Khẳng định vai trò quan trọng của việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê nin
trong chuyển đổi nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
- Cung cấp những thơng tin, tình hình của nền kinh tế thị trường Việt Nam
hiện nay.


- Thơng qua đề tài, góp phần hiểu rõ hơn trong việc thực hiện chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, những mâu thuẫn nảy sinh cần được giải
quyết.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao
gồm các chương sau đây:
Chương I: Cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
I. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lê nin
II. Khái niệm về kinh tế thị trường.
III. Việc vận dụng quan điểm trong triết học Mác-Lê nin vào hoạt động
kinh tế thị trường
Chương II: Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
I. chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi
sang nền kinh tế thi trường.
1.Một số nét nổi bật của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường.
2-Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và nhà nước ta.
II- Nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước Việt Nam
Chương III: Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1 Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
2 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người
XHCN
8. Phần nội dung
Chương I :Cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
I. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lê nin


Triết học Mác- Lênin đã trở thành cơ sở lý luận cho mọi khoa học khác và
là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tích cực của xã hội. Những quy luật mà triết
học Mác-Lê nin phát hiện, nó đã giúp con người nhận thức đúng đắn hơn về thế

giới khách quan. Từ đó tích cực lao động cải tạo thế giới nhằm mục đích phục vụ
cho cuộc sống con người. Mặc dù sự tồn tại phát triển của thế giới rất phức tạp
nhưng cũng không thể vượt qua những quy luật khách quan của chủ nghĩa Mác.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin đưa ra luôn được chứng minh là
đúng thông qua những hoạt động sản xuất vật chất của toàn bộ thế giới. Một
trong những quan điểm đúng đắn đó phải kể đến quan điểm trong triết học MácLê nin. Nội dung của quan điểm là: “ Khi con người xem xét sự vật hoạt động thì
phải tìm ra được các mối liên hệ vốn có của nó và đánh giá vai trị của từng mối
liên hệ một. Từ đó thấy rõ được tất cả các mặt, các yếu tố, các thuộc tính khác
nhau”. Quan điểm đó là phép duy vật biện chứng, là sự thống nhất hữu cơ giữa
thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy quan điểm
này đã góp phần to lớn khắc phục những hạn chế trước đây trong cách nhìn nhận,
đánh giá sự vật và mở đường cho đánh giá đúng đắn kể từ khi nó ra đời. Sự đúng
đắn của phép duy vật biện chứng được chứng minh bằng việc con người ln vận
dụng nó vào thực tiễn. Vận dụng quan điểm vào hoạt động lao động sản xuất và
hoạt động kinh tế-chính trị-văn hố nghiên cứu khoa học... Từ đó đẩy nhanh sự
phát triển mọi mặt đời sống xã hội.
II. Khái niệm về kinh tế thị trường.
“Một nền kinh tế mà trong đó các vấn đề cơ bản của nó do thị trường
quyết định được xem là nền kinh tế thị trường”. Cơ chế thị trường được hiểu là
cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của quy luật kinh tế vốn
có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái gì?
như thế nào? cho ai? cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung- cầu
và giá cả thị trường.
III. Việc vận dụng quan điểm trong triết học Mác-Lê nin vào hoạt
động kinh tế thị trường


Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để
huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
đó nhằm sản xuất ra hàng hố để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Chính vì

vậy, vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế là làm thế nào để áp dụng các nguồn lực
và tổ chức sản xuất tốt nhất, việc phân phối hàng hoá sản xuất ra phù hợp nhất,
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội. Theo quy luật trung của tồn tại thì lĩnh vực
kinh tế cũng biện chứng đó là: kinh tế ln địi hỏi các nhà hoạt động kinh tế phải
tuân theo nguyên tắc toàn diện phát triển và lịch sử cụ thể trong vấn đề sản suất
như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Tức hoạt động sao
cho hiệu quả kinh tế đem lại là lớn nhất. Vậy làm thế nào để đáp ứng được yêu
cầu đó. Ta biết, khi lý luận của triết học Mác-Lênin chưa ra đời đã có những hoạt
động kinh tế nhưng do chưa nắm bắt được các quy luật khách quan của thế giới
nên các hoạt động kinh tế còn mò mẫm và bị các quy luật tự nhiên chi phối dẫn
đến năng suất lao động đạt được không cao. Từ khi triết học Mác-Lênin ra đời
các quan điểm đúng đắn của nó đã trở thành cơ sở lý luận làm kim chỉ nam cho
lĩnh vực hoạt đông kinh tế. Các nhà hoạt động kinh tế trên thế giới đã áp dụng
quan điểm trong triết học Mác-Lênin hay chính là phép duy vật biện chứng vào
thực tiễn hoạt động của mình. Nhờ có quan điểm này, họ đã nắm bắt các quy luật
khách quan của giới tự nhiên. Từ đó làm chủ các quy luật và biến các quy luật đó
từ chỗ chi phối các hoạt động kinh tế đến chỗ bị các hoạt động kinh tế chi phối.
Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành yếu tố phục vụ con người. Việc vận
dụng vào tổ chức quản lý kinh tế gồm một số nguyên lý sau:
Một là: trong nền kinh tế khơng có một sự kiện nào ở trạng thái cơ lập tách
rời với sự kiện khác .
Hai là: Các thị trường hàng hố cụ thể khơng tồn tại ở trạng thái cơ lập tách
rời. Do đó cần phân loại, đánh giá các mối liên hệ có thể điều chỉnh cho nền kinh
tế đi đúng hướng.
Ba là : Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà
trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế-chính trị-ngoại


giao- khoa học công nghệ ..... Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại trong biểu hiện
với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Như vậy sự hình

thành, phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển của xã hội. Quan
điểm trong triết học Mác-Lê nin là hoàn tồn đúng đắn và vai trị to lớn đối với
lĩnh vực hoạt động kinh tế của con người, đặc biệt vai trị đó đã được phát huy
tích cực trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
I. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển
đổi sang nền kinh tế thi trường.
1.Một số nét nổi bật của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường.
Sau năm 1975 do vừa trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp va chống
Mỹ nền kinh tế của nưóc ta đã bị tàn phá nặng nề về cơ sở hạ tầng. Kinh tế của
đất nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng nông nghiệp lại nghèo nàn lạc hậu.
Hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày đi sau” đặc biệt là phương thức “hợp tác hoá,
tập thể hố” đã tạo nên sức ỳ và sự trì trệ lớn.Việc phân phối lao động theo khẩu
hiệu “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” dẫn đến sự ỷ lại của người lao
động mà không quan tâm đến năng suất lao động. Bên cạnh nền nông nghiệp
nghèo nàn, lạc hậu là các ngành nghề hoạt động yếu kém, thiếu thốn về cơ sở vật
chất, về nền tảng khoa học do đó khơng thể làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế,
một hạn chế rõ nhất đó là sản phẩm được phân phối bằng tem phiếu. Nền kinh tế
của đất nước đã như vậy cộng thêm cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp
mà đất nước ta còn mất đi sự viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN cũ, cấm
vận kinh tế, đặc biệt là lệnh cấm vận kinh tế của Mĩ. Chính vì vậy, giai đoạn
1975-1985 nền kinh tế của nước ta chậm phát triển. Những mâu thuẫn nội tại từ
nền kinh tế nước ta địi hỏi phải đổi mới kinh tế để thốt khỏi khủng hoảng và
thúc đẩy các yếu tố hàng hoá phát triển.


2-Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Tháng 2 năm 1986 Đại hội toàn quốc lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam
đã tự phê phán nghiêm túc và đề ra đổi mới toàn diện xã hội. Đặc biệt là đổi mới

về mặt kinh tế đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường đồng thời cho chúng ta
thấy rõ một nhận thức. Không thể tách rời các mục tiêu kinh tế xã hội ra khỏi các
mục tiêu kinh tế của bất cứ một chính sách kinh tế xã hội nào, các yếu tố xã hội
được xem như là sức mạnh nội sinh. Không nên xem các mục tiêu xã hội chỉ tuỳ
thuộc vào các thành tựu kinh tế, ngược lại phải thấy rõ mối tương tác biện chứng
giữa các mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế. Nói đến mục tiêu xã hội, chính là
nói tới con người, từng lợi ích của con người và từng cộng đồng xã hội. Con
người vừa là nguồn lực quan trọng nhất vừa là đối tượng hướng tới hành vi kinh
tế. Người ta ngày càng thấy rõ kinh tế học gắn bó mật thiết với xã hội học. Trên ý
nghĩ đó, Đảng ta có xu hướng cho rằng chính sách kinh tế tức là chính sách xã
hội trên lĩnh vực kinh tế. Đương nhiên, làm được điều đó khơng dễ. Bởi lẽ nếu
trong những quyền của con người hướng tới quyền kinh tế là cơ bản nhất, quyền
chính trị là quyền quyết định nhất và quyền xã hội là quyền cao nhất nếu được
nhận thức một cách đích thực, các thành phần kinh tế đều xuất phát từ thực tế xã
hội đang vận hành theo quy luật của nó. Cần nhớ lời khuyên của Mác: “một xã
hội ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên vận động của nó, cũng khơng
thể nào nhẩy qua các giai đoạn tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xố bỏ những giai
đoạn đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm xoa dịu bớt cơn đau...”. Qua đó Đảng
ta đã rút ra một bài học đau đớn của chủ nghĩa duy ý chí “muốn đốt cháy giai
đoạn, khơng tính đến tình hình nước ta”. Phải làm gì ngay bây giờ đây ? Phải đổi
mới tư duy, đổi mới giải pháp chiến lược tình thế và chiến lược lâu dài nhằm giải
phóng sức sản xuất. Biện chứng của sự vật sản sinh ra biện chứng của tư duy chứ
không thể là ngược lại đẽo chân vừa giày.Tự chúng ta phải tự tạo ra sức mạnh
cho mình, phải tự tháo gỡ những ách tắc trong tư duy. Một lần nữa xin được cầu
viện đến Mác “yêu cầu từ bỏ tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình
cảnh đang cần có ảo tưởng”. Trên ý nghĩ đó nghị quyết 8 của Đảng chỉ rõ: “Vận


dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà
nước, đồng thời xác lập tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhằm phát

huy tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn chặn hạn chế và khắc phục những
mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, cơ chế,
kế hoạnh, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế
Nhà nước”. Tại sao nền kinh tế thị trường lại phải có sự quản lý của nhà nước.
Chúng ta đã biết, cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường rất phức tạp bởi nó
bị chi phối bởi hàng loạt các quy luật kinh tế đan xen chằng chịt. Cơ chế thị
trường với những ưu điểm: Kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo
các điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Từ đó làm cho nền kinh tế năng
động và huy động được các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế. Sự cạnh
tranh trong kinh tế thị trường phải áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến vào sản xuất để từ đó nâng cao năng suất lao động. Lịch sử phát triển của sản
xuất đã chứng minh rằng: Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng
hoá đạt hiệu quả cao. Song nó cũng khơng phải là hồn hảo mà nó vốn có những
khuyết tật, đặc biệt là về mặt xã hội. Có thể kể ra một số khuyết tật của nền kinh
tế thị trường như lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường, đặc
biệt là gây ra các tệ nạn xã hội làm tổn hại đến truyền thống đạo đức của dân tộc .
Đảng và nhà nước ta đã nhận thức rõ điều đó.Trên cơ sở lý luận thực tiễn, bằng
biện pháp áp dụng quan điểm trong triết học Mác-Lênin, đã xem xét cơ chế thị
trường một cách tổng thể, nhìn nhận dưới mọi góc độ, đánh giá những ưu điểm,
nhược điểm, từ những thành tựu đến những thiếu sót trong nền kinh tế thị trường.
Đặc biệt Đảng và Nhà nước ta đã đặt nền kinh tế thị trường vào hoàn cảnh của
Việt Nam nhận thức so sánh giữa cái được và cái mất, nắm vững bản chất của
kinh tế thị trường với đầy đủ các yếu tố và thuộc tính của nó. Do vậy, trong quan
điểm của Đảng ta thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: “Dân giầuNước mạnh-Xã hội công bằng-Dân chủ-Văn minh” Cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau:


Trước hết, Trong kinh tế thị trường dưới CNXH sở hữu quốc doanh và tập
thể phải dữ vai trò chủ thể (định lượng) và chủ đạo (định tính). Đặc trưng này đã
phân biệt kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ

nghĩa. Mặt khác, phải khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư nhân trong các
ngành nghề. Nhà nước chỉ can thiệp khi có những biểu hiện tiêu cực. Chính vì
vậy mà kinh tế thị trường ở nước ta phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Để áp dụng vào thực hiện nền kinh tế thị trường của CNXH Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra một số biện pháp sau: đảm bảo ổn định chính trị xã hội cần thiết lập hệ
thống pháp luật đây là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài. Bởi vì xã hội ổn định về thể
chế chính trị là nền tảng để phát triển kinh tế, mà xã hội muốn đảm bảo công
bằng thì phải có sự quản lý của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật khiến cho mọi
người yên tâm lao động và hoạt động kinh tế.
II- Nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước Việt Nam
Những mục tiêu, thành tựu - hạn chế và biện pháp khắc phục nhờ chuyển
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong gần 30 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn trong tất cả các ngành, các thành phần kinh tế.
Về nông nghiệp: Từ một nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu hiện nay
nơng nghiệp nước ta có nhiều đổi mới. Sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố
đưa máy móc vào sản xuất nơng nghiệp đã giải phóng dần dần sức lao động của
người dân.Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các
giống lúa mới, kỹ thuật canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng suất lao
động. Sản lượng nông nghiệp khơng những đáp ứng nhu cầu của người dân mà
cịn dư thừa để xuất khẩu.
Về công nghiệp: Từ một nền cơng nghiệp nhỏ bé, hiện nay cơng nghiệp đã
đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế của đất nước. Nhiều nhà máy lớn với thiết bị
máy móc hiện đại được xây dựng và phát triển mạnh. Nếu như trước đây chỉ có
ngành cơng nghiệp khai khống, đóng tầu, dệt may... thì nay đã phát triển thêm
các nghành cơng nghiệp mới như các nghành; chế tạo máy, chế biến thực phẩm,


công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, công nghiệp điện tử... đặc biệt là nhà máy
chế biến dầu thô ở Dung Quất - Quảng Ngãi, đây là nhà máy lọc dầu vào loại lớn

nhất ở khu vực Đông Nam Á. Ngành du lịch và dịch vụ trong những năm gần đây
đem lại phát triển thu nhập lớn cho nền kinh tế nước ta. Các khu du lịch nổi tiếng,
di tích lịch sử được bảo tồn, tôn tạo hàng năm thu hút lượng du khách rất lớn cả
trong nước và trên quốc tế. Ngành giao thông vận tải đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu
của nền kinh tế. Hệ thống cầu đường được nâng cấp và sửa chữa nhiều. Xây dựng
nhiều tuyến đường và cầu phà, đảm bảo lưu thông được nhanh chóng, phù hợp
với tốc độ vận động của kinh tế thị trường, không những phát triển giao thông
đường bộ mà cả giao thông đường thuỷ, đường hàng không cũng phát triển đáng
kể .
Trong thương nghiệp: những năm gần đây còn mở rộng các quan hệ kinh
tế. Đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á .Luật đầu tư nước ngồi với
những điểm tạo điều kiện cho phía đầu tư đã ngày càng thu được những hợp đồng
kinh tế quan trọng. Bên cạnh việc chỉ đạo đổi mới và phát triển kinh tế Đảng và
Nhà nước ta cũng khơng qn tính khách quan, tính duy vật của kinh tế. Vì vậy
Đảng ln đặt nền kinh tế vào trung tâm và so sánh với các hoạt động khác. Để
trong sự tồn tại phát triển của xã hội có sự đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh vực
đảm bảo sự phát triển vững vàng, an toàn và hiệu quả. Ta đã biết, công bằng xã
hội là một đặc trưng cơ bản của xã hội mới, là ước mơ khát vọng của nhân dân, là
động lực thúc đẩy mọi người vươn lên trong cuộc sống. Muốn như vậy, các nhà
lãnh đạo của nước ta phải luôn vạch ra đường lối chỉ đạo cho các hoạt động diễn
ra theo đúng quy luật. Một số giải pháp mà nhà nước ta đã thực hiện là: bên cạnh
việc phát triển kinh tế thị trường là chính sách đẩy mạnh khoa học kĩ thuật,
khuyến khích tài năng sáng chế, phát minh bảo vệ môi trường, chống buôn lậu và
làm hàng giả. Xây dựng hệ thống pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng cho các
doanh nghiệp, mà pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, pháp luật
nói chung và pháp luật hành chính nói riêng có mối quan hệ biện chứng với kinh
tế. Đồng thời, nền kinh tế thị trường đã quyết định sự hiện diện của pháp luật


hành chính với những quy định mới, quyết định tồn bộ nội dung và tính chất

cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp luật hành chính đã tạo ra hành lang pháp lý
mới đảm bảo tính quyền lực nhà nước đồng thời đảm bảo nguyên tắc tự do, dân
chủ. Vai trị của pháp luật hành chính đối với nền kinhtế thị trường thể hiện ở các
mặt sau: Về cơ cấu sở hữu; cơ chế kinh tế; về xác định địa vị pháp lý hành chính
của cơ quan nhà nước trong nền kinh tế thị trường; về cơ chế giải quyết khiếu lại
tố cáo của công dân. Như vậy, để quản lý xã hội bằng pháp luật nhất là trong bối
cảnh có sự chuyển đổi kinh tế xã hội, địi hỏi Nhà nước phải thường xuyên củng
cố, hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của pháp luật. Quá trình cải cách kinh tế không
chỉ thành công trong việc thúc đẩy kinh tế mà cịn mang lại lợi ích thiết thực cho
các tầng lớp dân cư Việt Nam. Các mặt xã hội trong vài năm gần đây được nâng
cao và cải thiện đặc biệt việc giáo dục đã đạt đưọc những thành tựu đáng kể trong
giai đoạn phát triển.
Dù có những thành cơng nêu trên, song Việt Nam cũng đang đứng trước
nhiều thách thức lớn với những nhiệm vụ nặng nề trước các yêu cầu mới về phát
triển kinh tế. Những cản ngại và thách thức trong giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
bao gồm: hiến pháp và các chính sách của Việt Nam đều khuyến khích mọi cơng
dân đều có bình đẳng và ngang nhau về cơ hội học hành nhưng trên thực tế vẫn
cịn sự bất bình đẳng về cơ hội học hành giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông
thôn, giữa giàu và nghèo; chất lượng nguồn lực lại chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển; chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp vẫn còn thấp chưa đáp ứng nhu
cầu đổi mới giáo dục; đầu tư về giáo dục vẫn còn hạn chế và quản lý giáo dụcđào tạo còn những bất cập trong phân cấp quản lý các nguồn tài chính cho giáo
dục- đào tạo. Khơng những phát triền kinh tế, giáo dục, hệ thống pháp luật... mà
cần phải coi trọng đến hệ thống quốc phòng. Trong điều kiện địa hình dài hẹp dễ
bị chia cắt như nước ta, nếu sự phát triển của kinh tế chỉ tập trung vào một số
ngành, địa bàn thuận lợi mà nhà nước thiếu sự định hướng phát triển bằng một
chiến lược, kế hoạnh, quy hoạnh tổng thể sẽ tạo ra sự phát triển thiếu cân đối giữa
các ngành, các vùng. Từ đó thế trận bảo đảm kinh tế cho quốc phịng khơng được


bố chí hợp lý để tạo ra lực cộng hưởng giữa các thành phần kinh tế. Mặc dù đang

là nhà nước độc lập, tự do nhưng nhà nước vẫn phải củng cố quốc phịng tồn
dân. Cảnh giác với mọi thế lực thù địch ln tìm cách chống phá cách mạng và
lật đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không ngừng tuyên truyền giáo dục cách
mạng cho nhân dân, xây dựng lòng tin cho nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và sự quản lý có hiệu lực của nhà nước. Như vậy tính chất bảo đảm
quốc phịng trong nền kinh tế thị trường cũng chở nên phức tạp, địi hỏi phải có
sự kết hợp của nhiều lực lượng từ Trung ương đến cơ sở, thông qua một cơ chế
đảm bảo đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước không chỉ là hoạt động kinh tế bó hẹp trong nước mà
cịn phải tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Muốn làm được điều đó ta
phải xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng, tìm ra mối quan hệ vốn có của nó
đồng thời có sự phân loại, đánh giá vai trị cuả từng mối quan hệ để thấy rõ các
thuộc tính của nó (ví dụ: xuất khẩu, nhập khẩu, vay vốn nước ngoài.......). Những
thành tựu kể trên là kết quả to lớn trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở nước ta, chúng ta luôn tự hào về điều này song vẫn còn là quá nhỏ bé so
với sự phát triển của thế giới. Từ đó địi hỏi tồn Đảng và toàn dân ta phải tiếp
tục phát huy trong thời gian tới. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường phải có
một nhà nước pháp quyền mạnh, nhưng thể chế chính trị cịn chưa hồn hảo,
chưa thực hiện cơng bằng xã hội. Nạn tham nhũng, lợi dụng chức quyền làm sói
mịn niềm tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước. Nạn thất nghiệp làm cho
nhiều người khơng có việc làm dẫn đến nẩy sinh các tệ nạn xã hội .....
Vì vậy Đảng ta cần vận dụng quan điểm, lý luận của triết học Mác-Lênin
để khắc phục những hạn chế nói trên. Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã đề ra
hàng loạt các biện pháp thực hiện nhằm định hướng cho nền kinh tế thị trường
đạt được kết quả cao nhất mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội như: xã hội định rõ
nội dung-mục tiêu và bước đi của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
vẫn giữ đúng chủ nghĩa xã hội. Phát huy đầy đủ vai trị của các địn bẩy kinh tế.
Nhanh chóng giải quyết vấn đề việc làm trong xã hội. Đẩy lùi các tệ nạn, thực



hiện công bằng hoạt động và phát triển. Ngày nay, kinh tế thị trường chịu sự tác
động tích cực của Nhà nước, do Đảng đứng đầu. Nhận thức rõ điều đó Đảng và
Nhà nước ln từng bước xem xét, đánh giá những kết quả đạt được. Đồng thời
rút ra kinh nghiệm, phương hướng và mục tiêu phát triển sau này. Để giải quyết
những vấn đề đó quản lý kinh tế cần xuất phát từ các quan điểm sau: Cần phát
triển đồng bộ các thành phần kinh tế, tuân thủ theo nguyên tắc tự do giá cả bên
cạnh luôn coi trọng thị trường nông thôn và lấy hoạt động xuất nhập khẩu làm
địn bẩy. Khuyến khích phát triển nơng nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, áp dụng
nguyên lý lợi thế trong quan hệ trao đổi quốc tế. Tiếp tục đổi mới sự quản lý của
Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Đặc biệt chú trọng mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hướng tới mục tiêu xã hội:
“dân giàu – nước mạnh - xã hội công bằng văn minh”.
Chương III: Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1. Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội lồi người khơng
phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị, chẳng hạn trong xã hội nguyên thuỷ chưa
có giai cấp, chưa có nhà nước nên cũng chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có
giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện, bởi vấn đề chính
trị là vấn đề thuộc về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của các vấn đề
chính trị là đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm dành và giữ
chính quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hồn tồn do kinh tế quyết định.
Chính trị khơng phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích
kinh tế, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh
tế trái lại là mục đích”. Và trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “để thoả thuận những lợi ích kinh tế
thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”.



Quyền lực chính trị là cơng cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự
thống trị về chính trị của một giai cấp là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực
hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp về thực chất là đấu tranh về
lợi ích kinh tế, được thực hiện thơng qua đấu tranh chính trị. Theo Ph.Ăngghen
“bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay
quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trị của chính trị V.I
Lênin đã khẳng định chính trị cũng chiếm vị trí quan trọng hàng đầu như kinh tế.
Tuy nhiên, khẳng định của Lênin khơng có nghĩa phủ định vai trị quyết định của
kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối
với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị, mà nó được xem
xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền
cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục
vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng (hay sai)
sẽ thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của nền kinh tế.V.I Lênin còn khẳng
định: “khơng có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó,
khơng thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng khơng thể nào
hồn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính
trị khơng phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở
đường cho chính chị thay đổi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp
với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát
triển. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất
biện chứng với nhau trên ngun tắc kinh tế đóng vai trị quyết định. Đây là cơ sở
phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, và nhận thức
cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Trong gần 30 năm qua, việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị cũng ngày càng chính xác hơn. Tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII (6/1991) Đảng ta đã khẳng định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở



vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời đổi mới kinh tế phải
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của chính trị phát huy
quyền làm chủ và nâng cao tính sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hố xã hội.
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào cũng luôn tồn tại những mâu thuẫn cần
giải quyết như:
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất (LLSX) - quan hệ
sản xuất (QHSX) là một vấn đề hết sức phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng
này và những biểu hiện của nó cần được xem xét trên phương diện triết học của
chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo đó, LLSX là nội dung của sự vật còn QHSX là ý
thức của sự vật. LLSX quyết định QHSX. LLSX là yếu tố động, luôn luôn thay
đổi. Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định thì QHSX khơng cịn phù
hợp nữa, và trở thành yếu tố kìm hãm LLSX. Để mở đường cho LLSX phát triển,
cần phải thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của LLSX. Đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của mọi
thời đại và mọi xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa LLSX tiên tiến với QHSX lạc hậu kìm hãm nó
diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách
nào? đó chính là cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Một nhiệm vụ cực kì quan
trọng thể hiện rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam
là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia cơng nghịêp hố, hiện đại hố
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”



Cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước là chủ trương, biện pháp vừa
mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng CNXH. Nói đến cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó
chính là LLSX và QHSX. Nói đến khoa học, đến sự anh minh trí tuệ, là nói đến
một phương thức tối ưu để thốt khỏi tình trạng sản xuất nhỏ lạc hậu, nhằm
tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được phát triển. Khơng thể ăn đói mặc
rách với cái cuốc trên tay cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới đúng đắn tự bản thân nó
đã bao gồm ý nghĩa phủ định, gạt bỏ quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách
thức xây dựng CNXH ở nước ta. Trước đây, chúng ta đã chưa quan tâm đúng mức
đến vai trị của khoa học cơng nghệ, cũng như việc tạo lập cơ sở vật chất - kỹ
thuật trong công cuộc xây dựng CNXH. Do vậy, nền kinh tế của nước ta chậm
phát triển, đất nước khơng thốt khỏi nền sản xuất nhỏ lẻ thủ công, công nông
nghiệp lạc hậu và càng khơng thể nói đến cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
- Mâu thuẫn trong vấn đề sở hữu:
Gần 30 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, chúng ta đã
chứng tỏ được rằng đường lối đổi mới là đúng đắn. Với định hướng đa dạng hoá
các loại hình sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế, chứ khơng phải chỉ có
một hình thức sở hữu toàn dân như trước đây, Đảng ta đã khơi dậy tiềm năng,
động lực phát triển của mọi cá nhân cũng như của toàn dân.
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần (gồm 5 thành phần kinh tế) với các hình thức sở hữu tương ứng
như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư
bản và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác. Trong đó, mỗi hình thức sở hữu lại có
trình độ và cách thức thể hiện khác nhau vì chúng được hình thành dựa trên trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, của các thành phần kinh tế khác nhau.
+ Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên
ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu là sự thể hiện quyền sở hữu ở
khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.



+ Về sở hữu tập thể: Ở nước ta trước đây, sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại
dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp) với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là
của chung, tập thể xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà, với hình thức sở hữu
này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất
và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất
thường rất hạn chế, song đơi khi lại có tình trạng lạm quyền. Do khơng xác định
rõ ràng, cho nên có sự “nhập nhằng” giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Để
thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần
phải xác định rõ hơn nữa quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối
với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể
trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đều biết hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng
cho chủ nghĩa xã hội, mà nó cịn là một hình thức sở hữu kinh tế và tiến bộ trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta cần phải duy trì và phát
triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin
đã khẳng định “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội
chủ nghĩa”.
2. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người
XHCN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người XHCN. Như vậy, yếu tố con người được Người xác định là
giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của
mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hố. Con người phát triển
cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH.
Chúng ta phải bắt đầu từ con người và lấy con người làm điểm xuất phát.
Thế nhưng, trong nền kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế giữa con
người với con người cũng được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua



việc mua - bán, trao đổi hàng hoá, tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ
hàng hoá, tiền tệ phát triển mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ
biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một
cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản
ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản
xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường
cũng có những hạn chế tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh
lạnh lùng dẫn đến sự phá sản thất nghiệp, hay khủng hoảng chu kỳ…
Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta thấy xây dựng và phát triển con người
trong giai đoạn hiện nay không thể nằm ngoài kinh tế thị trường. Nhưng do hậu
quả của nhiều năm chiến tranh, với nền kinh tế kém phát triển của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp… nên nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với
khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan
trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản
xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Bởi kinh tế thị
trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt nên con người buộc phải năng
động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích
để thích nghi và hành động có hiệu quả. Điều đó đã nâng cao năng lực hoạt động
thực tiễn của con người, góp phần làm giảm đi sự chậm chạm và trì trệ vốn có của
người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời ở Việt Nam. Kinh tế thị
trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ,
giao lưu bn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hố, đạo đức mới theo
tiêu chí thị trường như: chữ tín trong chất lượng, chữ tín trong giao dịch… Đây
cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giá trị của con người
Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng khơng phải xây dựng được kinh tế thị
trường là những phẩm chất tốt đẹp của con người tự hình thành trong xã hội. Có
những lúc, những nơi, kinh tế thị trường khơng những không làm cho con người

ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại làm tha hoá bản chất con người, biến


con người thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng
sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp nên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức,
luân lý… Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng gây ra những
tác động xấu như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư
trọng đạo. Quan hệ hàng hố - tiền tệ làm sơi động thị trường nhưng cũng xói
mịn nhân cách và hạ thấp phẩm giá con người. Ngoài ra đi kèm với kinh tế thị
trường là hàng loạt tệ nạn xã hội dễ đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia
đình - tế bào của xã hội. Nạn cờ bạc rượu chè, mại dâm, ma tuý, buôn lậu, hối lộ,
tham nhũng… những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong kinh tế thị
trường. Như vậy, chúng ta có thể hình dung kinh tế thị trường như là con dao hai
lưỡi, nếu dùng khơng cẩn thận thì rất dễ bị
9. Phần kết luận
Từ những vấn đề đã nêu ở trên ta có thể khẳng định: Việc vận dụng quan
điểm trong triết học Mác- Lênin vào sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở
nước ta là một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Cơ sở lý luận là một
chân lý được chứng minh trong suốt quá trình phát triển của xã hội. Bên cạnh đó
khi áp dụng vào Việt Nam lại được lãnh đạo Đảng xem xét, đánh giá toàn diện,
khách quan. Đặt điều kiện hoàn cảnh của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và
phát triển phù hợp . Hơn 20 năm qua lĩnh vực kinh tế của đất nước đã đạt những
kết quả và thành tựu to lớn, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định và vững
bước đi lên. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên trong lòng bản
chất của nền kinh tế thị trường được ví như con dao hai lưỡi, nó cũng có những
khuyết tật riêng, những khuyết tật đó cũng được biểu hiện trong nền kinh tế ở
Việt Nam. Nhưng chính sách của Đảng ln ln được đề ra để khắc phục những
hạn chế một cách tốt nhất. Đồng thời, phương hướng đổi mới và phát triển cũng
được đặt ra tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định nền kinh tế của đất nước trong
tương lai . Trên đây một số ý kiến phân tích quá trình chuyển đổi sanh nền kinh

tế thị trường ở Việt Nam mà em đã tiếp thu được trong quá trình học tập và tham
khảo tài liệu.


Qua đây em cũng hiểu được vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt
động của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh quá
trình cơng nghiệp hố-hiện đại hố với chiến lược hướng ra xuất khẩu. Nhưng
hiện nay đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất là tiềm lực
kinh tế còn non yếu. Chắc chắn rằng trong tương lai Đảng và Nhà nước ta sẽ có
những chính sách tốt nhất để khắc phục các hạn chế.

Mục lục
1. Lý do chọn đề tài................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài…........................................ 1
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu liên quan đến đề tài…………………...1
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………....2
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………………………...2
6. Ý nghĩa thực tiễn………………………………………………………...2
7. Kết cấu đề tài……………………………………………………………2
8. Phần nội dung…………………………………………………………...3
Chương I: Cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường .............3
I. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lê nin................................... 3
II. Khái niệm về kinh tế thị trường. ...................................................... 4
III. Việc vận dụng quan điểm trong triết học Mác-Lê nin vào hoạt
động............. 4
Chương II: Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam............................................................................................................... 5
I. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi
sang nền kinh tế thi trường ................................................................................... 5
1.Một số nét nổi bật của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang nền

kinh tế thị trường. ................................................................................................. 5



×