Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.95 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỒNG THÁI

BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỒNG THÁI

BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Hưng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi tên là Nguyễn Hồng Thái, mã số học viên 7701261001A, là học viên lớp
Cao học Luật Khóa 26 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Bảo
vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc” (sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê
Văn Hưng. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Nguyễn Hồng Thái


MỤC LỤC
Trang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
KIẾN TRÚC .............................................................................................................. 4
1.1. Tổng quan về vấn đề Quyền tác giả ..................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền tác giả .............................................................. 4
1.1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quyền tác giả ................................................ 6
1.1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả .................................................................... 10

1.1.4. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả .............................................................. 11
1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc .......................................................... 12
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm ....................................................................................... 12
1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hộ .......................................................................... 14
1.2.3. Chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ....................... 25
1.2.4. Hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ......................... 32
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 37
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
KIẾN TRÚC: KIẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN .................................. 38
2.1. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................................. 38
2.1.1. Thực trạng đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ........................ 38
2.1.2. Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc - Các trường hợp tranh chấp điển hình ............................................ 40
2.2. Nguyên nhân ...................................................................................................... 50


2.3. Giải pháp, kiến nghị và hướng hoàn thiện ......................................................... 55
2.3.1. Giải pháp ......................................................................................................... 55
2.3.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ................. 58
2.3.3. Những vấn đề cần lưu ý để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
thông qua hợp đồng ................................................................................................... 63
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS


Bộ Luật dân sự

BLTTDS

Bộ Luật tố tụng dân sự


TT

Nghị định
Thông tư

TTLT

Thông tư liên tịch

NQ

Nghị quyết

VHTTDL
BXD
SHTT

Văn hóa thể thao và Du lịch
Bộ Xây dựng
Sở hữu trí tuệ

QHPLDS

GCN
QTG
KTS

Quan hệ pháp luật dân sự
Giấy chứng nhận
Quyền tác giả
Kiến trúc sư


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Quyền tác giả là vấn đề không mới, tuy nhiên thời gian vừa qua rộ lên nhiều
tranh cãi liên quan đến bản quyền. Trong lĩnh vực kiến trúc, vấn đề quyền tác giả
đang được nhắc đến và ngày càng có nhiều kiến trúc sư quan tâm đến lĩnh vực của
mình. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng phải coi kiến trúc là tác phẩm để làm cơ sở
cho việc bảo vệ quyền tác giả và xa hơn là giữ gìn di sản kiến trúc.
Vậy làm thế nào để hiểu rõ hơn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
qua đó hiểu được các nội dung thường xảy ra trong tranh chấp quyền tác giả đối với
tác phẩm kiến trúc, thực trạng hiện nay của việc đăng ký quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc và áp dụng các biện pháp nào để bảo vệ các tác phẩm kiến trúc.
Với các nội dung giới hạn mà Luận văn đề cập hy vọng rằng giải quyết phần
nào các vấn đề cơ bản nói trên, luận văn được trình bày trong 02 chương, cụ thể:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
- Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại
Việt Nam - kiến nghị và hướng hoàn thiện.
Từ khóa: Tác phẩm, tác giả, kiến trúc, quyền tác giả, sở hữu trí tuệ


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, sự phát triển như vũ bão của khoa
học và công nghệ, việc bảo vệ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung
đang là một vấn để ngày càng trở nên nóng bỏng. Đứng trước yêu cầu đó và thực tế
phát triển kinh tế xã hội của nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền
tác giả, các quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây
trồng) đang được Nhà nước ta quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong đó quyền sở hữu trí
tuệ là một bộ phận quan trọng trong các nội dung được đem ra đàm phán và Việt Nam
ta cần phải cam kết thực hiện.
Bên cạnh đó, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả đang ngày
càng gia tăng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đang gây ra những hậu quả
và hệ lụy xấu cho sự phát triển của đất nước.
Hiện nay, tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, hội họa, văn
học, khoa học kỹ thuật được đề cập đến khá nhiều, tuy nhiên bên cạnh đó việc vi
phạm quyền tác giả ở một số mảng sáng tạo khác có thể rất ít được đề cập đến, có thể
kể ra đây chính là các tác phẩm kiến trúc.
Hiện nay, pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam ghi nhận vấn đề bảo hộ quyền
tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng trong nhiều
văn bản pháp lý như Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và các Nghị định, Thông tư
liên quan…, bên cạnh đó Việt Nam cũng đã rất nổ lực trong việc tham gia vào nhiều
điều ước quốc tế đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan như công ước Berne,
Genever, Brussels, TRIPs… nhưng thực tiễn cho thấy việc vi phạm quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc còn khá phổ biến không ít chủ đầu tư sử dụng lại bản vẽ
thiết kế cho công trình này để xây dựng nên một công trình khác, tác giả sử dụng lại
bản vẽ thiết kế kiến trúc cho chủ đầu tư này để phân phối cho chủ đầu tư khác, chụp
ảnh một tác phẩm kiến trúc và sử dụng ảnh chụp đó mà không được phép của chủ sở
hữu quyền tác giả; Chủ đầu tư sửa chữa, cắt xén tác phẩm kiến trúc,…



2

Tuy nhiên, số liệu thực tế cho thấy tranh chấp tại Tòa án và Trung tâm bảo vệ
quyền tác giả chỉ đếm trên đầu ngón tay, hoặc vì một lý do nào đó mà các tranh chấp
này bị đình chỉ một cách khó hiểu. Cơ chế pháp luật bảo vệ quyền tác giả chưa được
hoàn thiện, cũng là nguyên nhân không nhỏ ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ
quyền tác giả trong lĩnh vực còn khá mới mẻ này.
Cũng chính từ bối cảnh và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền tác
giả đối với tác phẩm kiến trúc”, các thực trạng, nguyên nhân và giải pháp đưa ra
trong đề tài vẫn mang tính chủ quan, không tránh khỏi đánh giá một chiều, không thể
tránh khỏi thiếu sót.
2. Giả thiết, câu hỏi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện bản luận văn này, tác giả đã đi tìm, sưu tầm tài liệu
nhưng hầu như, rất ít. Văn phòng đại diện của Cục bản quyền tác giả tại Tp.HCM,
Hội kiến trúc sư Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Tòa án nhân dân các cấp tại
Tp.HCM hầu như không cung cấp được nhiều số liệu liên quan đến đề tài. Chính vì
vậy, trong khuôn khổ đề tài luận văn, chỉ mong muốn làm rõ các câu hỏi sau:
Thứ nhất: Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là gì? Các nội dung
thường xảy ra tranh chấp trong quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc?”.
Thứ hai: Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc?” và Giải pháp nào để tăng cường bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc?”.
Luận văn đã nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc. Trên cơ sở lý luận kết hợp với việc nghiên cứu thực tiễn xử lý của
các cơ quan tài phán để đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền
tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
Nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan dẫn đến sai sót trong việc
cấp bản quyền về tác giả, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Luận văn cũng đề ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng liên
quan tới giải quyết tranh chấp về quyền tác giả.


3

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bản luận văn này tác giả tập trung vào vấn đề bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc ở Việt Nam theo những quy định của pháp luật trong nước trong mối
tương quan về nội dung pháp lý với các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
tham gia và một số văn bản pháp lý liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tác giả lựa chọn xuất phát từ nguyên tắc chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, và cố gắng kết hợp thêm những phương pháp của logic hình thức như so sánh, tổng hợp, phân tích, loại trừ, phương pháp nghiên cứu Luật
đã được học, phương pháp Roccipi… Về việc tìm tài liệu, ngoài các tài liệu được
giáo viên hướng dẫn cung cấp, tác giả dựa vào một nguồn quan trọng là internet, giáo
trình, sách về quyền tác giả, và một phương pháp thu thập thực tế tại các cơ quan tòa
án, trung tâm trọng tài,... đây là một phương pháp mất nhiều thời gian và công sức,
nhiều khi lại không có được những kết quả ưng ý về mặt pháp lý nhưng là những số
liệu thực tiễn rất quý giá, một điểm nhấn của bản luận văn. Việc tác giả cố gắng sáng
tạo để tìm một phương pháp tiếp cận mới - khía cạnh chuyên môn, nó có thế sẽ không
được đánh giá cao về chuyên môn luật học nhưng thể hiện được một góc nhìn khác
gắn với thực tiễn nghiên cứu của đề tài.
5. Ứng dụng khoa học và tính thực tiễn của đề tài
Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Đăng ký với Sở Quy hoạch kiến trúc
Tp.HCM, Đại học Kiến trúc Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Tp.HCM thực hiện hội thảo,
bàn giải pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc thông qua những dữ
liệu trong đề tài luận văn đã được hoàn thiện, qua đó giúp cho các KTS nói riêng và
giới kiến trúc nói chung trang bị các biện pháp bảo vệ thành quả lao động sáng tạo

nghệ thuật của mình.


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

1.1. Tổng quan về vấn đề Quyền tác giả
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền tác giả
Hiến pháp Việt Nam 2013, có quy định “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa
học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động
đó”1. “Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu,
phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo
đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” 2 và
“Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu”3.
Quyền tác giả được hiểu theo nghĩa hẹp là tác giả, chủ sở hữu, người được sử
dụng tác phẩm, các chủ thể có quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của
pháp luật. Hiểu theo nghĩa rộng, Quyền tác giả được hiểu là một chế định pháp luật
tổng hợp các quy phạm pháp luật xác nhận và bảo hộ các quyền nhân thân, quyền tài
sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học; quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm hại.
Như vậy, hiểu theo cách đơn giản nhất thì quyền tác giả cho phép tác giả và
chủ sở hữu Quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm chống lại việc sao chép
bất hợp pháp4.
Quyền tác giả đã khuyến khích nhiều nhà văn, nghệ sĩ, nhà khoa học sáng tạo,
nói như vậy không có nghĩa là phải một nhà văn, đạo diễn nổi tiếng mới có quyền tác
giả. Quyền tác giả xuất hiện không phụ thuộc vào nội dung hay chất lượng của tác

phẩm, Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm ra đời mà không cần đơn yêu cầu
công nhận, không phải trải qua bất kỳ thẩm định nào của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, hay bất kỳ thủ tục đăng ký nào (trừ một vài ngoài lệ). Thí dụ: Bài thi của

Điều 40, Hiếp pháp 2013
Khoản 2, Điều 62, Hiến pháp 2013
3
Khoản 2 Điều 4 Luật SHTT 2005, Sửa đổi bổ dung 2009
4
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, tr.49.
1
2


5

sinh viên cũng được bảo hộ quyền tác giả, cho dù kết quả thi có như thế nào đi chăng
nữa.
Ngoài những đặc điểm chung giống như quyền SHTT như:
- Đối tượng của quyền tác giả là thành quả của lao động sáng tạo, là sản
phẩm của hoạt động trí tuệ của con người.
- Đối tượng của quyền tác giả là tài sản vô hình phi vật chất chỉ có thể được
thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức vật chất hữu hình nhất định.
Thì quyền tác giả còn có hai đặc điểm riêng:
- Thứ nhất, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội
dung sáng tạo. Không ai bảo hộ một câu nói, hay một động tác đơn giản thể hiện
trong sinh hoạt hằng ngày. Cùng một nội dung như nhau có thể được thể hiện dưới
nhiều hình thức sáng tạo khác nhau, và mỗi hình thức thể hiện khác nhau đó đều có
thể được bảo hộ quyền tác giả. Nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với nội
dung ý tưởng đó thì hình thức cũng không được bảo hộ, ví dụ câu nói đơn giản “anh

yêu em”, “tôi đang ăn cơm” sẽ không được bảo hộ quyền tác giả. Quyền tác giả chỉ
tập trung bảo vệ hình thức thể hiện, không bảo hộ nội dung tác phẩm. Vì thế, quyền
tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình
thức vật chất nhất định5, thậm chí, tác phẩm được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả bất
chấp chất lượng hay giá trị của tác phẩm, ví dụ: bức tranh của bé mẫu giáo vẽ cũng
được bảo hộ quyền tác giả đầy đủ. không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức,
phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”6.
Việc đăng ký quyền tác giả không tạo nên giá trị pháp lý xác lập quyền nhưng có giá
trị chứng cứ trong trường hợp xảy ra tranh chấp liên quan, nghĩa là tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả đã đăng ký được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh tác phẩm đã đăng
ký đó là thuộc về mình.
- Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không sao
chép, bắt chước tác phẩm khác. Sự sao chép, bắt chước ở đây chỉ giới hạn về mặt
hình thức của tác phẩm, chứ không đề cập đến sự sao chép, bắt chước về ý tưởng hay
nội dung của tác phẩm. Bởi vì, theo đặc điểm quyền đã nêu, quyền tác giả chỉ bảo hộ
hình thức sáng tạo chứ không bảo hộ nội dung hay ý tưởng sáng tạo, nên việc tác giả
5
6

Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam,tr.51.
Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung 2009


6

này ngẫu nhiên có cùng ý tưởng, sao chép, phát triển ý tưởng của tác giả khác là hành
vi được phép. Từ đó, có thể khẳng định nếu tác giả có những lao động trí óc, lao động
sáng tạo nhất định của riêng mình để hình thành nên tác phẩm nguyên gốc về mặt
hình thức, thì tác phẩm đó vẫn được bảo hộ quyền tác giả.
“Tác phẩm gốc được hiểu là bản vật thể hóa tác phẩm do chính tay tác giả làm

ra hoặc các bản được tác giả cho phép và trực tiếp giám sát làm ra, cụ thể trong thể
loại tác phẩm nghệ thuật tạo hình, tác phẩm gốc rất dễ bị nhầm lẫn, được hiểu nó
chính là tác phẩm của nghệ thuật tạo hình. Các tòa nhà công trình kiến trúc, xây dựng
là những bản vật thể hóa của tác phẩm kiến trúc, xây dựng. Khi chúng được tạo bởi
những người được chính tác giả ủy quyền giám sát việc xây dựng, thì cũng được coi
là tác phẩm gốc và được hưởng sự bảo hộ đặc biệt dành cho tác phẩm gốc”7.
1.1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quyền tác giả
1.1.2.1. Chủ thể
Khoản 1 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có tác
phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở
hữu quyền tác giả”. Như vậy, có hai loại chủ thể tham gia vào QHPLDS về quyền tác
giả là:
(i) Tác giả
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học8. Điểm mấu chốt trong việc xác định một người có phải là tác
giả của một tác phẩm hay không, là ở chỗ người đó có trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm
hay không. Một người chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi mà người đó trực
tiếp sáng tạo. Do đó, vì không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nên những người làm
công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác
phẩm không được công nhận là tác giả. Vấn đề trực tiếp sáng tạo trong khái niệm tác
giả và khái niện nguyên gốc có liên quan đến nhau. Khi tác giả sáng tạo một tác phẩm
thì đương nhiên tác phẩm được sáng tạo đó mang tính nguyên gốc, trừ khi tác giả sao
chép từ một tác phẩm khác.
Cho rằng việc tác giả phải trực tiếp sáng tạo không có nghĩa là tác giả không có
Nguyễn Vân Nam (2016), Quyền tác giả: Đường hội nhập không trải hoa hồng, NXB Trẻ, tr.79.
Khoản 2 Điều 8 Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 9 năm 2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;
7
8



7

quyền kế thừa sáng tạo của người khác. Pháp luật Việt Nam cũng công nhận người
dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể từ những tác phẩm khác cũng được coi là tác giả.
Sáng tạo hay nguyên gốc trong khái niệm về quyền tác giả không là phải mới
như trong quyền sở hữu công nghiệp. Như vậy khi thấy hai tác phẩm giống nhau đừng
vội xác định ngay đó là có việc sao chép hay không, biết đâu lại là ngẫu nhiên.
Bên cạnh khái niệm tác giả chúng ta còn có đồng tác giả. Đó là những cùng
trực tiếp sáng tạo ra một tác phẩm được công nhận là các đồng tác giả của tác phẩm
đó. Dựa trên tính chất phần sáng tạo của các đồng tác giả vào tác phẩm chung, đồng
tác giả được phân thành hai loại:
- Thứ nhất: Các đồng tác giả cùng sáng tạo ra một tác phẩm nhưng phần sáng
tạo của mỗi người không thể tách ra thành từng phần riêng biệt để sử dụng độc lập.
Trường hợp này tương ứng với khái niệm sở hữu chung hợp nhất đối với quyền
sở hữu thông thường. Khi quyết định bất cứ vấn đề gì liên quan đến tác phẩm cần
phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng tác giả.
- Thứ hai: Các đồng tác giả cùng sáng tạo ra một tác phẩm nhưng phần sáng
tạo của mỗi người có thể tách ra thành từng phần riêng biệt để sử dụng độc lập mà
không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác.
Trường hợp này tương ứng với khái niệm sở hữu chung theo phần đối với
quyền sở hữu thông thường. Khi quyết định các vấn đề liên quan đến tác phẩm, ví dụ
chuyển nhượng hay chuyển giao quyền tác giả, nếu không đạt được sự đồng thuận
của các đồng tác giả đồng thời là đồng chủ sở hữu khác thì đồng tác giả vẫn có toàn
quyền quyết định đối với phần tác phẩm do mình sáng tạo ra.
Mỗi người có đầy đủ các quyền tài sản, quyền nhân thân của mình đối với
phần riêng biệt đó.
(ii) Chủ sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn
bộ các quyền tài sản9 đối với tác phẩm như sao chép, phân phối, nhập khẩu tác phẩm,

làm tác phẩm phái sinh... Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người độc quyền sử dụng,
định đoạt tác phẩm10.
9

Điều 36 Luật SHTT 2005
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.59.

10


8

Các căn cứ để xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả:
- Tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật của mình để
sáng tạo ra tác phẩm thì tác giả đó cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo ra tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ
chức mình là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ
sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả trong các trường hợp như đối với tác
phẩm khuyết danh; tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả
chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được
quyền hưởng di sản; tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao cho nhà
nước11.
Điểm quan trọng xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả, là sự đầu tư tài
chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật…để tạo nên tác phẩm. Cũng từ đó, chủ sở hữu quyền
tác giả được hưởng các quyền tác giả có liên quan đến tài sản để thu lại những lợi ích
vật chất tương ứng với sự đầu tư đã bỏ ra trước đó.

Việc phân biệt giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả rất quan trọng, vì chủ
sở hữu quyền tác giả mới là người có quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm, xét về gốc
độ kinh tế thì vai trò của chủ sở hữu quyền tác giả quan trọng hơn vai trò tác giả, vì
khi sử dụng hay trình diện tác phẩm các chủ thề khác phải xin phép hoặc trả thù lao
cho chủ sở hữu quyền tác giả.
1.1.2.2. Nội dung
Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân (Điều 19 Luật SHTT
2005) và quyền tài sản (Điều 20 Luật SHTT 2005).
(i) Quyền nhân thân
Là quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm,
được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; công bố tác
11

Điều 37,39,40,41,42 Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi bổ sung 2009,


9

phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc sản phẩm dưới bất kỳ hình
thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả12.
(ii) Quyền tài sản
Là quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao
chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bảo sao tác phẩm; truyền đạt tác
phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử
hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm13.
Tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả có toàn bộ các quyền nhân thân,
quyền tài sản như liệt kê trên đây.
Trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, các quyền
nhân thân phi tài sản gồm quyền đặt tên cho tác phẩm, đứng tên trên tác phẩm và bảo

vệ sự toàn vẹn của tác phẩm là thuộc về tác giả, còn các quyền tài sản và quyền công
bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm hay còn gọi là quyền nhân thân gắn
với tài sản thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả.
Các quyền nhân thân phi tài sản được bảo hộ vô thời hạn, còn các quyền tài
sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và 50
năm tiếp theo kể từ ngày tác giả hoặc đồng tác giả cuối cùng chết. Riêng đối với các
tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh
thì thời hạn bảo hộ quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản là 50 năm kể từ
ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Sự quy định thời hạn bảo hộ như trên là nhằm dung hòa lợi ích giữa một bên là
các chủ thể quyền tác giả và bên kia là cộng đồng xã hội nói chung. Bảo hộ quyền tác
giả nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền tác giả, kích thích sự sáng
tạo nhằm tạo ra ngày càng nhiều giá trị tinh thần đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên nếu
bảo hộ vô thời hạn hoặc thời hạn bảo hộ quá dài thì sẽ ngăn cản những người còn lại
trong xã hội tiếp cận, sử dụng, khai thác…các tác phẩm đó, làm cho mục đích tạo ra
nhiều giá trị tinh thần đóng góp cho xã hội vì thế không thể thực hiện được. Vì vậy,
pháp luật quy định một thời hạn hợp lý để các chủ thể quyền tác giả khai thác lợi ích
từ lao động sáng tạo của chính mình, hết thời hạn đó, tác phẩm thuộc về công chúng.
12
13

Điều 19 Luật SHTT 2005
Điều 20 Luật SHTT 2005


10

1.1.2.3. Đối tượng
Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo Luật SHTT 2005 và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2009 quy định tại Điều 14

và được hướng dẫn rõ thêm tại Nghị định 100/2006/NĐ-CP và số 85/2011/NĐ-CP,
cụ thể như sau:
“Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a)……………….;…
i) Tác phẩm kiến trúc;
…………………….”14.
Ngoài ra, còn quy định các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác
giả gồm tin tức thời sự thuần túy đưa tin; văn bản quy phạm pháp luật,
văn bản
hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản
đó; quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, nguyên lý, số liệu 15 ... Bởi vì hoặc
chúng không phải là thành quả của lao động sáng tạo hoặc chúng là những thông tin
cơ bản cần thiết mà bất cứ cá nhân, tổ chức nào trong xã hội cũng có quyền tiếp cận,
nếu bảo hộ quyền tác giả cho những đối tượng này sẽ gây phương hại đến quyền được
thông tin của những người khác trong xã hội, không đảm bảo được sự dung hòa lợi
ích giữa các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với cộng đồng xã hội nói chung.
1.1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
Các hành vi sử dụng tác phẩm nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự
đồng ý của chủ thể quyền tác giả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác là hành
vi xâm phạm quyền tác giả.
Các hành vi này còn gọi là hành vi ăn cắp bản quyền hay sao chép lậu16, Điều
28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 liệt kê đầy đủ các hành vi xâm phạm quyền tác giả, là
các hành vi vi phạm một trong các quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền
nhân thân gắn với tài sản và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Tuy nhiên, trên thực tế việc liệt kê hành vi xâm phạm quyền tác giả vẫn chưa
14
15
16


Điều 14 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009;
Điều 15 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009;
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.32.


11

phải là phương pháp tối ưu nhất xét về khía cạnh lập pháp thì việc liệt kê 16 hành vi
tại Điều 28 Luật SHTT không thể bao quát hết các hành vi xâm phạm quyền tác giả,
đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
Ngoài ra, vẫn có các trường hợp ngoại lệ: cũng như tất cả mọi lĩnh vực khác
trong đời sống xã hội, việc bảo hộ quyền tác giả cũng có một số trường hợp ngoại lệ
tuy có hành vi sử dụng không xin phép, không trả thù lao đối với tác phẩm đã công
bố của người khác vẫn không bị coi là vi phạm, như “Tự sao chép một bản nhằm mục
đích nghiên cứu khoa học của cá nhân; Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng
dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã
được công bố để giảng dạy; Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin; Tổ
chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát
sóng”17.
Các ngoại lệ này còn được gọi là hành vi sử dụng hạn chế, là một giới hạn
quan trọng của quyền tác giả, theo đó mọi người đều được sử dụng một tác phẩm mà
không phải xin phép chủ thể quyền nếu việc sử dụng nói trên đáp ứng các điều kiện
nhất định. Cụ thể, các điều kiện cần và đủ để các hành vi sử dụng không xin phép,
không trả thù lao nói trên không bị coi là xâm phạm quyền tác giả:
Tác phẩm được sử dụng phải là tác phẩm đã công bố;
- Việc sử dụng tác phẩm như trên không làm ảnh hưởng đến việc khai thác
bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả; và
- Khi sử dụng phải thông tin về tên tác giả, nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
1.1.4. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả

1.1.4.1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả
Loại hợp đồng này được hiểu là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao
quyền sở hữu đối với các quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản của mình theo
hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan.
Đối với chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả chuyển nhượng toàn bộ các quyền mà mình có được đối với tác phẩm, cụ thể
là quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản. Không được chuyển nhượng các quyền
17

Điều 32, Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009


12

nhân thn khác không phải là quyền công bố tác phẩm như quyền đặt tên tác phẩm,
đứng tên trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, vì những quyền này thuộc
về tác giả chứ không thuộc về chủ sở hữu tác phẩm.
Đối với chủ sở hữu đồng thời là tác giả, các quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên
trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm cũng không được chuyển giao vì
đó là những quyền nhân thân phi tài sản, không gắn cũng như không mang lại bất kỳ
một giá trị thương mại nào mà chỉ gắn với giá trị tinh thần của chính người sáng tạo
ra tác phẩm bằng lao động trí óc của mình. Do đó, những quyền này phải luôn được
gắn với chính người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm mà không thể chuyển giao cho
người khác.
1.1.4.2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả
Trong trường hợp này chủ sở hữu không chuyển giao toàn bộ quyền tài sản và
quyền công bố tác phẩm của mình cho người khácâ, mà chỉ cho phép người khác sử
dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm của
mình. Tất nhiên, vì những lý do đã phân tích ở trên, các quyền nhân thân phi tài sản
cũng không thể chuyển quyền sử dụng cho người khác.

Khác với chuyển giao quyền tác giả, sau khi chuyển quyền sử dụng quyền tác
giả, người chuyển giao vẫn là chủ sở hữu quyền tác giả, người nhận chuyển giao chỉ
là người sử dụng hợp pháp chứ không có tư cách chủ sở hữu.
Hợp đồng ghi nhận thỏa thuận giữa các bên về việc chuyển quyền sử dụng
quyền tác giả được gọi là hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả hay hợp
đồng sử dụng tác phẩm và phải được lập thành văn bản. Ngoài các điều khoản cơ bản,
trong hợp đồng sử dụng tác phẩm các bên có thể thỏa thuận rằng chủ sở hữu quyền
tác giả chỉ được chuyển quyền sử dụng cho một người sử dụng độc quyền hay có thể
chuyển cho nhiều người khác nhau, và người sử dụng có thể chuyển giao lại quyền
sử dụng cho bên thứ ba hay không.
1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
Từ khái niệm chung về quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được
hiểu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm kiến trúc do sáng tạo ra hoặc sở


13

hữu. Là một dạng của quyền tác giả nói chung, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến
trúc cũng có hai đặc điểm:
- Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không
bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng tạo;
- Tác phẩm kiến trúc được bảo hộ là tác phẩm có tính nguyên gốc, do chính
tác giả sáng tạo ra, không bắt chước hay sao chép của người khác.
Mối quan hệ giữa quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc nói riêng là mối quan hệ biện chứng giữa hai cặp phạm trù cái chung và cái
riêng. Cái chung là cái sâu sắc, bản chất hơn cái riêng vì nó phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại
trong các cái riêng cùng loại. Ngược lại cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì

ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng
biệt mà chỉ riêng nó có. Do đó bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp
riêng cũng cần được cá biệt hóa.
Từ mối quan hệ cái chung - cái riêng trên đây ta thấy quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc ngoài những đặc điểm chung của quyền tác giả, còn có những điểm
riêng biệt mà chỉ riêng nó mới có. Những điểm riêng biệt này xuất phát từ những
điểm khác biệt về bản chất của đối tượng bảo hộ là tác phẩm kiến trúc so với các tác
phẩm thông thường khác. Từ đó, khi áp dụng quyền tác giả với tư cách là cái chung
vào trường hợp riêng là đối với tác phẩm kiến trúc, thì quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc cũng cần phải được cá biệt hóa để phù hợp với đối tượng mà nó áp dụng.
Luận văn này tập trung nghiên cứu về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
như một cách thức góp phần giúp cho quá trình cá biệt hóa quyền tác giả vào trường
hợp riêng đối với tác phẩm kiến trúc được diễn ra đúng đắn và hiệu quả, phù hợp với
các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Trong việc nghiên cứu quá trình cá
biệt hóa này, điểm mấu chốt được tập trung phân tích khái niệm và bản chất của tác
phẩm kiến trúc với tư cách là đối tượng của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc,
từ những điểm khác biệt về khái niệm và bản chất của tác phẩm kiến trúc sẽ dẫn đến
những yêu cầu, đặc điểm khác biệt của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.


14

1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hộ
1.2.2.1. Tác phẩm kiến trúc hiểu theo chuyên môn về kiến trúc
Kiến trúc là khoa học và nghệ thuật xây dựng công trình, trang hoàng nhà cửa
và tổ chức không gian sống. Kiến trúc được xem như là một lĩnh vực hoạt động sáng
tạo chủ yếu của con người từ khi có xã hội loài người, nhằm cải tạo hoặc kiến tạo
mới môi trường sống phục vụ các quá trình sống của con người và xã hội.
Kiến trúc là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo đặc biệt và khá phức tạp của
con người, nó bao hàm nhiều khái niệm: nghệ thuật, kỹ thuật, xã hội, kinh tế… và

luôn vận động biến đổi theo thời đại18
Từ điển tiếng Việt định nghĩa “kiến trúc” như sau: “1. Xây dựng các công
trình, thường là nhà cửa, theo những kiểu mẫu mang tính chất nghệ thuật. 2. Kiểu
mẫu, thiết kế, trang trí nhà cửa”19. Đây rõ ràng là một khái niệm cụ thể, thông thường
như cách những người bình thường hiểu về kiến trúc.
Từ điển mở Wikipedia định nghĩa về kiến trúc như sau: “Kiến trúc là một
ngành nghệ thuật và khoa học về sắp xếp không gian, thiết kế các công trình kiến
trúc, rộng hơn có thể bao gồm việc thiết kế môi trường xây dựng tổng thể, từ vĩ mô
như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị và kiến trúc cảnh quan, kiến trúc công trình, đến
vi mô như thiết kế nội thất, thiết kế sản phẩm hay tạo dáng công nghiệp”20.
Trong lĩnh vực chuyên môn về kiến trúc, kiến trúc thường được hiểu là nghệ
thuật và khoa học thiết kế, xây dựng các công trình và các tổ hợp công trình theo
những tiêu chuẩn thẩm mỹ và chức năng. Kiến trúc có khi còn được hiểu là công trình
được xây dựng lên sau khi đã nghiên cứu thiết kế và xây dựng. Tác phẩm kiến trúc
không chỉ là những công trình riêng lẻ mà còn có thể là một tập hợp nhiều công trình
phối hợp với nhau và với môi trường xung quanh tạo nên một tổ hợp, một tổng thể
như một đường phố, một khu nhà, một thị trấn, một thị xã hay một thành phố.
Như vậy, tổng hợp các ý kiến trên, ta thấy:
- Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về thiết kế gắn liền với xây
dựng, có hai chức năng là tính thẩm mỹ và tính công năng.
- Theo nghĩa hẹp, kiến trúc là thiết kế hình dáng bên ngoài và bố trí sắp xếp
18
19
20

KTS Nguyễn Hữu Trí (2009), Giáo trình Kiến trúc nhập môn, NXB, tr.19
Nguyễn Như Ý (2012), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,
/>

15


không gian chức năng bên trong công trình (thiết kế công trình).
- Theo nghĩa rộng, thiết kế kiến trúc còn bao gồm cả thiết kế ở tầm vĩ mô (thiết
kế quy hoạch) hay ở tầm vi mô (thiết kế nội thất).
(i) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế quy hoạch
Quy hoạch là công việc tổ chức không gian kiến trúc và bố trí các công trình
trên một khu vực lãnh thổ trong từng thời kỳ, làm cơ sở pháp lý cho việc chuẩn bị
đầu tư xây dựng, quản lý xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Thiết kế quy hoạch
được phân loại dựa trên tính chất của khu vực lãnh thổ được quy hoạch, bao gồm
thiết kế quy hoạch đô thị và thiết kế quy hoạch khu dân cư nông thôn.
Ngoài ra, trong lĩnh vực thiết kế kiến trúc ở tầm vĩ mô còn có một phân ngành
khá mới mẻ liên quan đến quy hoạch đô thị, đó là thiết kế đô thị.
(ii) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế công trình
Các công trình kiến trúc nhìn chung được chia thành 3 loại: công trình dân
dụng, công trình công nghiệp và công trình công cộng.
- Kiến trúc công trình dân dụng là xây dựng các loại nhà ở cho các cá nhân,
phục vụ các chức năng nảy sinh từ những yêu cầu cụ thể của con người: nhà ở riêng
biệt, nhà ở tập thể, ký túc xá, nhà chung cư, khách sạn, …
- Kiến trúc công trình công nghiệp là xây dựng nhà, công trình kỹ thuật, các
quần thể kiến trúc (xí nghiệp công nghiệp, khu, cụm công nghiệp), các đối tượng liên
quan đến dây chuyền phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp.
Các công trình công nghiệp bao gồm nhà máy, xưởng sản xuất, công trình phụ trợ,
nhà kho, công trình kỹ thuật phụ thuộc…
- Kiến trúc công trình công cộng: là xây dựng những công trình hay tổ hợp
công trình để đáp ứng, thỏa mãn mọi nhu cầu của hoạt động vật chất, tinh thần của
các loại thành viên trong xã hội, như: công trình trụ sở; công trình giáo dục; công
trình văn hóa xã hội; công trình giao thông; công trình thương mại; công trình du lịch;
công trình thể dục thể thao; công trình chăm sóc sức khoẻ;
(iii) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế nội thất
Nội thất là nghệ thuật xử lý không gian bên trong ngôi nhà. Nó là phần hồn

trong kiến trúc, nó tôn bật dáng vẻ của kiến trúc. Thiết kế nội thất bao gồm quy hoạch,


16

bố trí và thiết kế các không gian bên trong của công trình. Mục đích của thiết kế nội
thất là sự hoàn thiện các chức năng, làm phong phú tính thẩm mỹ và nâng cao tâm lý
đối với không gian bên trong.
1.2.2.2. Tác phẩm kiến trúc theo quy định của Điều ước quốc tế và Luật
về quyền tác giả của một số quốc gia khác trên thế giới.
(i) Công ước Berne
Công ước Berne ngày 24/7/1971 (Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 07 năm 1971
sửa đổi ngày 28 tháng 09 năm 1979) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
mà Việt Nam là thành viên chính thức từ ngày 26/10/2004 mặc dù không định nghĩa
trực tiếp thế nào là tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên qua các quy định khác nhau của
công ước, ta có thể nhận thấy những loại hình được Công ước Berne thừa nhận như
là một tác phẩm kiến trúc.
Công ước Berne 1971 quy định: “Thuật ngữ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật,
bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hoặc dưới hình thức nào, chẳng hạn như
sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và
các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và
kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm
được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự với điện ảnh, các tác phẩm đồ họa, hội họa,
kiến trúc, điêu khắc, chạm trổ, in thạch bản; các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm
được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự như nhiếp ảnh; các tác phẩm nghệ thuật ứng
dụng, minh họa, địa đồ, đồ án, bản phác họa và các tác phẩm tạo hình liên quan đến
địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học”21 .
Các quy định khác của Công ước Berne có liên quan đến tác phẩm kiến trúc như:
"Tác phẩm đã công bố" là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý

của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là các bản đó
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Không được
coi là công bố: trình diễn một tác phẩm sân khấu, nhạc kịch hay hoà tấu, trình chiếu
tác phẩm điện ảnh, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát thanh hay
truyền hình một tác phẩm văn học hay nghệ thuật, triển lãm một tác phẩm nghệ thuật

21

Điều 2.1 Công ước Berne 1971


17

hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc.22;
“Được Công ước này bảo hộ mặc dù không đáp ứng được những điều
kiện: Các tác giả của tác phẩm kiến trúc được xây dựng tại một nước thuộc Liên hiệp
hoặc những tác phẩm tạo hình gắn liền với một tòa nhà được xây dựng tại một nước
thuộc Liên hiệp”23;
“Nếu là một tác phẩm kiến trúc được dựng lên tại một nước thuộc Liên hiệp
hay những tác phẩm hội họa hoặc tạo hình gắn liền với một tòa nhà hoặc cấu trúc đặt
tại một nước thuộc Liên hiệp thì nước này sẽ là nước gốc của tác phẩm”24.
Như vậy, bằng những quy định này, Công ước Berne mặc nhiên thừa nhận tác
phẩm kiến trúc có thể được thể hiện dưới dạng công trình xây dựng trên thực tế. Hơn
thế nữa, giả sử tác phẩm kiến trúc được sáng tạo thông qua các bản vẽ tại một nước
khác, các bản vẽ lần đầu tiên được công bố tại một nước khác, tác giả và chủ sở hữu
lại mang các quốc tịch khác, thì quốc gia mà tại đó công trình kiến trúc được xây
dựng mới là quốc gia gốc của tác phẩm kiến trúc.
Như vậy, trong mối liên quan giữa các hình thức thể hiện khác nhau của tác
phẩm kiến trúc như bản vẽ, công trình xây dựng… thì công trình xây dựng vẫn chiếm
ưu thế hơn. Bên cạnh đó, các quy định này của công ước Berne cũng giúp làm rõ khái

niệm nên tác phẩm tạo hình liên quan đến kiến trúc có thể được hiểu là tác phẩm tạo
hình gắn liền với một tòa nhà, ví dụ: bức tượng nữ thần công lý (tác phẩm tạo hình)
trên mái nhà của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (tác phẩm kiến trúc).
Như vậy, Công ước Berne thừa nhận rằng tác phẩm kiến trúc có thể được biểu
hiện bất kỳ theo phương thức hoặc dưới hình thức nào, không loại trừ hình thức thể
hiện của tác phẩm kiến trúc là một công trình được xây dựng trên thực tế.
(ii) Luật Quyền tác giả của Hoa Kỳ
Luật quyền tác giả của Hoa kỳ ra đời rất sớm từ những nam 1790, sau nhiều
lần sửa đổi bổ sung vào năm 1909 và sau này được thay thế bởi Luật quyền tác giả
năm 1976. Sau khi gia nhập công ước Berne, Luật về quyền tác giả của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ đã có chỉnh sửa cho phù hợp trong đó định nghĩa rất cụ thể và chi tiết
về tác phẩm kiến trúc như sau: “Tác phẩm kiến là thiết kế của một tòa nhà được thể
22
23
24

Điều 3.3 Công ước Berne 1971
Điểm b, Điều 4 Công ước Berne 1971
Điểm ii.c khoản 4 Điểu 5 Công ước Berne 1971


18

hiện dưới mọi hình thức trung gian hữu hình, bao gồm tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay
bản vẽ. Tác phẩm kiến trúc bao gồm toàn bộ hình dáng cũng như là sự sắp xếp và sự
cấu thành của không gian và các yếu tố trong thiết kế, nhưng không bao gồm đặc
điểm tiêu chuẩn cá nhân”25.
Luật về Quyền tác giả của Hoa Kỳ không chỉ xác định được ngoại diên của
khái niệm tác phẩm kiến trúc thông qua việc liệt kê các loại hình thức thể hiện của
tác phẩm kiến trúc được bảo hộ (tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay bản vẽ) mà còn nêu rõ

nội hàm của khái niệm tác phẩm kiến trúc (toàn bộ hình dáng cũng như là sự sắp xếp
và sự cấu thành của không gian và các yếu tố trong thiết kế). Điều này tạo nên sự dễ
dàng, thuận lợi trong việc đánh giá, xác định một cách toàn diện một đối tượng có
được xem là tác phẩm kiến trúc hay hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc hay
không.
Ngoài ra, còn quy định cụ thể về phạm vi quyền độc quyền đối với tác phẩm
kiến trúc: Quyền tác giả đối với một tác phẩm kiến trúc mà đã được xây dựng không
bao gồm quyền ngăn cấm việc tạo ra, phân phối, trình bầy tranh, hoạ, ảnh, hoặc các
trình bầy khác của tác phẩm, nếu công trình mà trên đó biểu hiện tác phẩm được đặt
trong, hoặc trong tầm nhìn từ, một nơi công cộng; Sửa đổi và dỡ bỏ công trình xây
dựng: Không trái với các quy định của Điều 106(2), chủ sở hữu công trình thể hiện
một tác phẩm kiến trúc có thể, không cần sự cho phép của tác giả hoặc chủ chủ sở
hữu quyền tác giả của tác phẩm kiến trúc đó, thực hiện hoặc cho phép thực hiện sự
sửa đổi đối với công trình này, và dỡ bỏ hoặc cho phép phá hủy công trình này26.
(iii) Luật Quyền tác giả của Nhật Bản
Luật Quyền tác giả của Nhật Bản (Luật số 48 ngày 06/05/1970) không định
nghĩa trực tiếp thế nào là tác phẩm kiến trúc, nhưng có đề cập như sau:
“Tác phẩm được cho là đã công bố nếu được phát hành hoặc diễn kịch, trình
tấu, trình chiếu, truyền tải đến công chúng, kể chuyện hoặc trưng bày cho công chúng
xem (bao gồm trường hợp tác phẩm kiến trúc được xây dựng bởi chủ sở hữu quyền
tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép”27.
Ngoài ra Luật cũng quy định rõ rằng: “Tác giả có quyền bảo vệ sự toàn vẹn

25
26
27

Điều 101 Luật quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Điều 120 Luật quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Điều 4 Luật Quyền tác giả Nhật Bản



×