Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học triết học hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.45 KB, 18 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học Hy Lạp cổ đại là một di sản vĩ đại không chỉ của dân tộc Hy
Lạp mà còn cả của nhân loại. Trong di sản ấy chứa rất nhiều điều bổ ích. Hơn
thế, triết học Hy Lạp cổ đại còn chứa đựng mầm mống thế giới quan tồn tại
cho đến ngày nay.
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại là lịch sử đấu tranh giữa đường lối
Đêmôcrít và đường lối Platông. Những vấn đề đặt ra và giải quyết trước hết
với đề tài trên là những vấn đề thế giới quan. Đó là hệ thống quan điểm, quan
niệm con người về thế giới xung quanh, về bản thân con người, về vị trí cuộc
sống con người trong thế giới đó cũng như những phương pháp luận về những
nguyên tắc, nguyên lý chủ đạo mà con người tìm tòi, lựa chọn vận dụng để
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Triết học ra đời từ thời cổ đại từ đó đến nay triết học trải qua nhiều giai
đoạn phát triển. Trong quá trình phát triển đó, những khái niệm, đối tượng, vai
trò, phương pháp luận của triết học cũng thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia lao động chân tay và trí óc, tri
thức loài người còn ít, chưa có sự phân chia giữa triết học và các khoa học
khác thành các khoa học độc lập. Ở Trung hoa triết học gắn liền với vấn đề
chính trị xã hội, ở Ấn độ gắn liền với tôn giáo, ở Hy lạp triết học gắn liền với
tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên, cũng vì vậy triết học nghiên cứu mọi lĩnh
vực tri thức. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa về sau dẫn đến quan niệm triết
học là khoa học của mọi khoa học.
Thời kỳ này triết học đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đặt nền móng về sau
không chỉ đối với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Triết học Hy Lạp
được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và một trong những điểm xuất
phát của lịch sử triết học thế giới. Theo chữ Hy lạp triết học là philosophia, có
nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có
khả năng nhận thức chân lý, làm sáng tỏ được sự vật. Về Triết học Hy Lạp cổ

1



đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa trào lưu duy vật, duy tâm, biện
chứng và siêu hình, hữu thần và vô thần.
Trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrit và
trào lưu duy tâm của Platon. Để hoàn thiện tư duy lý luận xây dựng đất nước theo
định hướng chủ nghĩa xã hội thì chúng ta cần thiết nghiên cứu toàn bộ triết học
trước đó đặc biệt là triết học Hy lạp cổ đại và đường lối Đêmôcrít. Người đã đặt
nền móng cho triết học chủ nghĩa duy vật, đã đóng vai trò tích cực đối với sự phát
triển của khoa học với đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

2


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội và các đặc điểm cơ bản:
1.1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội:
Hy lạp cổ đại là quốc gia có khí hậu ôn hòa rộng lớn bao gồm miền nam
bán đảo Bancang, miền ven biển tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê. Có
điều kiện tự nhiên rất thuận lợi với nhiều dãy núi ngang dọc, đồng bằng rộng
lớn, trù phú phì nhiêu với vùng bờ biển phía đông khúc khuỷu với nhiều vịnh
và đảo thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển giao thương với các nước Tiểu
Á và Bắc Phi.
Hy Lạp cổ đại cũng bước qua những bước thăng trầm lịch sử cũng đấu
tranh và phát triển; cũng chuyển từ thời đại đồ đồng sang đồ sắt từ đó năng suất
lao động được tăng cao, của cải vật chất dồi dào cộng với điều kiện thuận lợi Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành quốc gia chiến hữu nô lệ có nền công thương nghiệp
phát triển, có chế độ dân chủ có nền văn hóa phát triển rực rỡ lúc bấy giờ.
Người Hy Lạp đã xây dựng nền văn minh vô cùng sán lạn với những
thành tựu rực rỡ trong các lĩnh vực khác nhau . Chúng là cơ sở hình thành nên

văn minh phương tây hiện đại, vì vậy Ăngghen đã nhận xét: “không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và Đế quốc La Mã thì không có nền văn minh Châu Âu
hiện đại được”. Người Hy Lạp đã để lại một kho tàng thần thoại rất phong
phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh
cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại tự
nhiên – xã hội…của người Hy lạp.
Về nghệ thuật, Người Hy lạp đã để lại các công trình kiến trúc điêu khắc,
hội họa có giá trị, về luật pháp đã xây dựng một nền pháp luật và thực hiện
khá nghiêm ở thành bang Aten, về thành tựu toán học, thiên văn, vật lý được
các nhà khoa học như Talet, Pytago, Ácximet, ƠcLit … sớm phát hiện ra đặc
biệt Người Hy lạp để lại một di sản triết học đồ sộ và sâu sắc.

3


1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại:
Triết học Hy Lạp được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và một
trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có
những đặc điểm sau:
Một là: Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và
phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ của giai cấp
này duy trì trật tự xã hội và củng cố vai trò thống trị của mình.
Hai là trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng
giữa trào lưu duy vật, duy tâm, biện chứng và siêu hình, hữu thần và vô thần.
Trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrit và
trào lưu duy tâm của Platon, giữa trường phái siêu hình của Pácmênit và
trường phái biện chứng của Hêcraclit.
Ba là triết học Hy lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để
tổng hợp mọi hiểu biết về lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật hiện tượng xảy ra

trong nó. Do trình độ nhận thức, phân tích tự nhiên chưa đạt trình độ chưa sâu
sắc, chưa đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó chỉ nghiên cứu tự nhiên trong tổng
thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy các nhà triết học đồng
thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự
nhiên để rút ra kết luận triết học.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất
phác. Các nhà triết học đã xây dựng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật
hùng biện, để bảo vệ những quan điểm triết học của mình, để tìm chân lý. Họ
phát hiện ra phép biện chứng nhưng chưa trình bày chúng như một hệ thống
lý luận chặt chẽ .
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học
Hy lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố lý giải
linh hồn và thể xác, về đạo đức - chính trị - xã hội của họ. Tuy còn nhiều bất
đồng nhưng nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa
cao nhất của tạo hóa.

4


Chương 2: GIỚI THIỆU TRIẾT HỌC ĐÊMÔCRÍT VÀ PLATON
2.1. Giới thiệu triết học Đêmôcrít
2.1.1. Tiểu sử, tác phẩm, đường lối triết học Đêmôcrít.
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của
Hy Lạp cổ đại. Đêmôcrit sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa
của Hy Lạp ở xứ Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê. Đêmôcrit là người
đầu tiên giải thích cơ cấu của tự nhiên là nguyên tử. Theo ông đó là những hạt
nhỏ mà mắt người không thấy được, không thể phân chia được nữa và sự vận
động của các hạt là sự vận động của tự nhiên.
Ông nói rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là kết quả do sức hấp dẫn
của các nguyên tử ảnh hưởng lẫn nhau mà sinh ra. Ông cho rằng mọi biến

động trong thế giới vật chất đều là những hiện tượng tự nhiên và hợp với quy
luật. Đêmôcrit đã áp dụng học thuyết nguyên tử của mình vào toán học. Ông
cho rằng mọi đại lượng hình học đều gồm những đại lượng - ban đầu là những
"nguyên tử hình học".
Cống hiến của Đêmôcrit trong lịch sử toán học: Ông là một trong những
người đầu tiên nghiên cứu vấn đề thể tích và chủ trương sử dụng một phương
pháp nghiên cứu toán học, mà sự phát triển tiếp theo của nó đ ã đưa đến việc
sáng lập lý thuyết các đại lượng vô cùng bé. Đêmôcrit đã có nhiều công trình
về khoa học tự nhiên. Luận văn "Về bản chất con người của ông" có những
kiến thức giải phẫu sinh lý con ng ười rất có giá trị. Ông đã thu nhập được
những tài liệu phong phú về động vật học và thực vật học.
Các Mác đánh giá Đêmôcrit là "trí thuệ vạn năng đầu tiên trong những
người Hi Lạp". Đêmôcrit là người không tin có thần thánh. Ông bác bỏ nguồn
gốc thần thánh của vũ trụ. Ông cho bản chất của vạn vật là các nguyên tử và
các khoảng chân không. Ông cho nguồn gốc của những quan niệm tôn giáo là
sự sợ hãi và dốt nát của con người. Đêmôcrit đã giải quyết được những thiếu
sót của các nhà duy vật trước ông và đã căn bản phê phán được học thuyết
duy tâm cổ đại.
5


2.1.2. Quan điểm và tư tưởng nổi bật:
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được nữa, hoàn toàn nhỏ bé
và không thể cảm nhận được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu không thay
đổi trong lòng nó không có cái gì xảy ra nữa. Nguyên tử có vô vàn hình dạng.
Theo quan niệm của Đêmôcrít, các sự vật là do các nguyên tử liên kết lại
với nhau tạo nên. Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế
giới các sự vật. Nguyên tử tự thân, không vận động, nhưng khi kết hợp với
nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng.
Linh hồn, theo Đêmôcrít, cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các

nguyên tử đặc biệt có hình cầu, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn, luôn
luôn động và sinh ra nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Do đó linh
hồn có một chức năng quan trọng là đem lại cho cơ thể sự khởi đầu vận động.
Trao đổi chất với môi trường bên ngoài cũng là một chức năng của linh hồn
và được thực hiện thông qua hiện tượng thở của con người. Như vậy linh hồn
là không bất tử, nó chết cùng với thể xác.
Đêmôcrít phân nhận thức con người thành dạng nhận thức do các cơ
quan cảm giác đem lại và nhận thức nhờ lý tính. Nhận thức đem lại do cơ
quan cảm giác là loại nhận thức mờ tối, chưa đem lại chân lý. Còn nhận thức
lý tính là nhận thức thông qua phán đoán và cho phép đạt chân lý, vì nó chỉ ra
cái khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, tính đa dạng của thế giới là do sự
sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Đêmôcrít đã có những quan điểm tiến
bộ về mặt đạo đức.
Theo ông, phẩm chất con người không phải ở lời nói mà ở việc làm. Con
người cần hành động có đạo đức. Còn hạnh phúc của con người là ở khả năng
trí tuệ, khả năng tinh thần nói chung, đỉnh cao của hạnh phúc là trở thành nhà
thông thái, trở thành công dân của thế giới.
Ảnh hưởng của đường lối Democrit lên xã hội đương đại: Chủ nghĩa duy
vật của Đêmôcrit đã ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát triển tiếp theo của tư
tưởng triết học tự nhiên phương Tây.
6


2.2. Giới thiệu triết học Platôn
2.2.1.Tiểu sử, quan điểm và tư tưởng nổi bật Platôn (427 - 347 tr. CN):
Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống
triết học duy tâm của Platôn là học thuyết về “ý niệm”. Trong học thuyết này,
Platôn đưa ra quan niệm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biết và thế
giới ý niệm.
Theo ông, thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng

đắn, vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận
động, trong chúng không có cái gì ổn định, bền vững, hoàn thiện.
Còn thế giới ý niệm là thế giới của những cái phi cảm tính, phi vật thể, là
thế giới của đúng đắn, chân thực và các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý
niệm. Nhận thức của con người, theo Platôn không phải là phản ánh các sự
vật cảm biết của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý
niệm có trước thế giới các vật cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết.
Từ quan niệm trên, Platôn đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại".
"Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái được nhận biết bằng trí tuệ siêu
nhiên, là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ
hai so với cái tồn tại phi vật chất.
Như vậy, học thuyết về ý niệm và tồn tại của Platôn mang tính chất duy
tâm khách quan rõ nét. Lý luận nhận thức của Platôn cũng có tính chất duy
tâm. Theo ông tri thức, là cái có trước các sự vật cảm biết mà không phải là
sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Do vậy
nhận thức con người không phải là phản ánh các sự vật của thế giới khách
quan, mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã lãng
quên trong quá khứ. Trên cơ sở đó, Platôn phân hai loại tri thức: tri thức hoàn
toàn đúng đắn, tin cậy và tri thức mờ nhạt.
Loại thứ nhất là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào
thể xác và có được nhờ hồi tưởng.

7


Loại thứ hai lẫn lộn đúng sai, là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức
cảm tính, ở đó không có chân lý.
Những quan niệm về xã hội của Platôn thể hiện tập trung trong quan
niệm về nhà nước lý tưởng. Ông đã phê phán ba hình thức nhà nước trong lịch
sử và xem đó là những hình thức xấu.

Một là, nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên sự khát vọng giàu có,
ham danh vọng đưa tới sự cướp đoạt.
Hai là, nhà nước quân phiệt là nhà nước của số ít kẻ giàu có áp bức số
đông, nhà nước đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới các tội ác.
Ba là, nhà nước dân chủ là nhà nước tồi tệ, quyền lực thuộc về số đông,
sự đối lập giàu - nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt.
Còn trong nhà nước lý tưởng sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý
tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các
ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu cầu xã hội.
2.2.2. Nhận xét của Arixtốt về đường lối Platon.
Aríxtốt với phương châm Platôn là thầy nhưng chân lý còn quý hơn
nhiều, đã tiến hành phê phán Platôn trước hết là thuyết ý niệm.
Về mặt bản thể luận việc Platôn chia thế giới thành thế giới ý niệm và
thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn; bời vì ý niệm là cái tồn tại bên
ngoài và độc lập với sự vật làm sao có thể coi sự vật là cái bóng của ý niệm
được hơn nữa ý niệm là cái trừu tượng phi cảm tính thì làm sao làm khuôn
mẫu cho sự vật cảm tính được.
Về mặt nhận thức luận, việc Platôn coi ý niệm là cái có trước và độc lập
với so với sự vật là vô dụng và ngược đời; bởi vì nếu ý niệm có trước và độc
lập so với sự vật thì làm sao ý niệm có thể dùng để nhận thức được sự vật.
Theo Arixtốt, sai lầm của Platôn là ở chỗ Ông tách bản chất của sự vật ra
khỏi sự vật; biến cái chung, đáng lẽ là cái được khái quát từ sự vật riêng lẽ và
thể hiện trong khái niệm chung thành cái riêng nằm bên trên có trước quyết
định thế giới sự vật cảm tính, theo Arixtốt bản chất sự vật phải nằm ngay
8


trong bản thân bên trong sự vật và phải được con người nhận thức khái quát
thành cái chung dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù.
Về mặt đạo đức, chính trị: Arixtốt không cho rằng Hành vi hướng thiện là

dùng lý trí khám phá ý niệm tuyệt đối khách quan trên trời. Theo Ông cho rằng
không phải hy vọng vào Thượng đế áp đặt để người công dân hoàn thiện về
đạo đức mà việc phát hiện ra nhu cầu trên trái đất, phát triển những quyền lợi,
chính trị khoa học mới tạo ra con người hoàn thiện trong chính trị đạo đức.
Về mặt xây dựng nhà nước lý tưởng của Platôn là khó thực hiện. Theo
Arixtốt nhà nước phải thực hiện sứ mạng trên 3 lĩnh vực lập pháp, hành chính
và xét xử. Chính quyền không thuộc về người giàu, không thuộc về người
nghèo, chính quyền thuộc về tầng lớp chủ nô trung lưu. Chế độ tốt nhất không
thuộc về chế độ dân chủ hay chế độ quân chủ mà thuộc về chế độ cộng hòa
quý tộc.
Theo ông công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng
xã hội và bình đẳng các cá nhân trong cộng đồng.

9


Chương 3. SỰ ĐẤU TRANH GIỮA ĐƯỜNG LỐI ĐÊMÔCRÍT VÀ
ĐƯỜNG LỐI PLATON NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ ĐẾN CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC
3.1. Sự đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrit và đường lối Platon
3.1.1. Đấu tranh trong quan điểm về bản nguyên.
Đêmôcrit: Thuyết nguyên tử của Đêmôcrit:
Nguyên tử là hạt vật chất không phân chia hay biến đổi, luôn vận động
giống nhau về chất khác nhau về lượng.
Chân không, không có kích thước và hình dáng vô tận duy nhất là điều
kiện để nguyên tử vận động.
Nguyên tử vận động theo luật nhân quả, tất nhiên tuyệt đối; khi chúng tụ
lại thì sự vật được tạo thành khi chúng tách ra thì sự vật biến mất.
Platon: Thuyết ý niệm và linh hồn.
Thế giới ý niệm tồn tại trên trời mang tính phổ biến, chân thực tuyệt đối,

bất biến, vĩnh hằng và duy nhất.
Thế giới sự vật tồn tại dưới đất mang tính cá biệt, ảo giả, t ơng đối, khả
biến thoáng qua và đa tạp.
Ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, bản chất, khuôn mẫu của sự vật.
Sự vật là cái có sau, là cái bóng được mô phỏng, sao chép lại từ ý niệm,
xuất hiện từ ý niệm và sao chép từ ý niệm, xuất hiện từ ý niệm và có quan hệ
ràng buộc với ý niệm.
Sự ra đời của thế giới vật chất gắn liền với 4 yếu tố cơ bản : Tồn tại,
không tồn tại, con số, sự vật cảm tính.
Con người là sự kết hợp của thể xác khả tử ( đất, nước, lửa, không khí là
nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn) với linh hồn bất tử.
Linh hồn con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được thượng đế tạo
ra từ lâu; chúng ngự trị trên các vì sao, sau đó dùng cánh bay xuống ngự trị
vào thể xác con người. Khi đó nó quên hết mọi quá khứ. Linh hồn con người
gồm 3 bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí bất tử.
10


3.1.2. Đấu tranh trong quan điểm về đạo đức chính trị:
Đêmôcrit: Đêmôcrit nhà triết học duy vật xuất phát từ bản chất con
người để định nghĩa về đạo đức. Ông cho rằng hài lòng và không hài lòng là
động lực của mọi hành vi. Cảm giác dễ chịu là tiêu chuẩn của điều tốt. Ngược
lại cảm giác khó chịu gây nên sự đau khổ là tiêu chuẩn của điều xấu. Vì thế
con người tìm những cảm giác dễ chịu và tránh cảm giác khó chịu, cũng có
nghĩa là con người vượt tới điều thiện tránh điều ác.
Ông cho rằng không giữ điều độ thì cái dễ chịu nhất cũng trở thành cái
khó chịu nhất. Đêmôcrít cho rằng để hoàn thiện đạo đức là có thể được nhưng
phải dưới sự chỉ đạo của lý trí. Lý trí hướng con người vào mục tiêu đúng
đắn. Do đó phải trao dồi lý trí và tiếp thu những vấn đề quy luật của tự nhiên,
quy luật hành động của con người. Ông cho rằng con người hành động không

đúng là không hiểu cái đúng. Cho nên, theo ông xét cho cùng vấn đề đạo đức
là làm sao cho con người đạt được những tri thức cần thiết… Những cái gì là
tiêu chuẩn của đúng và không đúng, của cái tốt và xấu? Đêmôcrit chưa trả lời
được đây là chỗ trống để sau đó chủ nghĩa duy tâm tấn công .
Platon: Đối lập với Đêmôcrit, Platon là nhà duy tâm khách quan ông cho
rằng bản chất đạo đức con người không phải trong bản chất con người mà là
linh hồn vĩnh cửu, độc lập với con người cụ thể; rằng nguồn gốc của thế giới
hiện tại là sự sai lầm và tội ác.
Tri thức đúng đắn chỉ thông qua sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới lý
tưởng mà nó nẩy sinh từ đó. Ông chia linh hồn thành 3 bộ phận: Phần khôn
ngoan, phần mãnh liệt và phân khao khát.
Phần thứ nhất là cơ sở của sự thông thái, phần thứ hai cơ sở của sự dũng
cảm, phần thứ ba là cơ sở của sự trân trọng hay sự chừng mực.
Kết hợp ba bộ phận ấy sẽ đạt được đức hạnh, chính nghĩa và cái thiện.
Ông coi thượng đế là quan tòa tối cao của hành vi con người. Vì vậy tôn giáo
phải che chở cho nhà nước lý tưởng giáo dục công dân sự sùng tín tôn giáo.

11


3.1.3. Đấu tranh trong quan điểm về nhà nước.
Đêmôcrít: Đứng trên lập trường dân chủ chủ nô, kịch liệt chống lại phái
chủ nô quý tộc. Ông ca ngợi tình thân ái, tính ôn hòa, lợi ích chung, quyền lợi
chung của công dân tự do. Ông muốn duy lý hóa nhà nước, muốn tất cả người
điều hành nhà nước phải có tri thức, phải có sự hiểu biết. Ông ủng hộ nền dân
chủ nhưng không hạ thấp vai trò của lý trí.
Platon: Nhà nước lý tưởng của platon được xây dựng trên các tầng lớp
công dân khác nhau. Sự xác định tầng lớp căn cứ vào sự phân chia linh hồn.
Trước hết các triết gia, hay đẳng cấp vàng tương ứng với phần lý trí của
linh hồn.

Thứ hai các chiến binh hay đẳng cấp bạc ứng với phần dũng cảm của
linh hồn.
Thứ ba những người mua bán, lao động chân tay hay đẳng cấp đồng sắt
ứng với phần dục vọng của linh hồn.
Bản chất nhà nước lý tưởng là sự công bằng. Platon muốn xây một thiết
chế nhà nước vừa đảm bảo bình đằng xã hội, vừa cho phép sự bất bình đẳng
về hình thức trong quan hệ giữa các đẳng cấp, nhằm duy trì những bậc thang
của xã hội cần thiết, tránh tình trạng vô chính phủ như trong nền dân chủ.
Nhà nước lý tưởng của Platon là sự thống nhất thực thể không bản sắc
hoàn thành những chức năng xã hội của mình không yêu cầu quyền lợi, nhu
cầu cá nhân. Trong nhà nước các công việc của công dân được thực hiện theo
sự phân công chung đạt tới sự hài hòa, thống nhất. Trong nhà nước lý tưởng,
giáo dục được giành một vị trí xứng đáng hướng con người tới lẽ công bằng
và cái thiện.
Như vậy nhà nước lý tưởng của Platon hình dung là một tổ chức chính trị
hoàn hảo, giải quyết các nhiệm vụ sau: an ninh xã hội cho mọi thành viên và chủ
quyền xứ sở; đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho con người và xã hội; định hướng và
khuyến khích sang tạo khoa học. Khi nhiệm vụ ấy giải quyết thì con người hướng

12


đến cái thiện. Nguyên lý căn bản nhà nước là sự công bằng, mục tiêu của nhà
nước là hướng đến cái thiện tối cao, phương tiện của nó là giáo dục.
3.1.4. Đấu tranh trong quan điểm về nhận thức:
Đêmôcrít:Chia nhận thức thành hai loại nhận thức trong sáng và nhận
thức mờ tối. Ông thừa nhận mối liên hệ qua lại sâu sắc giữa hiện thực và chân
lý, giữa cảm giác tư duy lý luận và cảm giác của tư duy cảm tính.
Cảm tính không thể đạt tới nhận thức chân lý về hiện thực, nhưng chúng
ta nhận thức được sức mạnh xác thực từ cảm tính. Trong lĩnh vực nhận thức

lý luận Đêmôcrít trở thành đại biểu cho phép biện chứng cổ đại với tính cách
là về sự phát triển của tư duy trên cơ sở mặt đối lập của nó là cảm giác.
Platon: Đã phủ định quan điểm của các nhà duy vật về vai trò của cảm
giác. Ông coi đối tượng của nhận thức chân lý không phải là đối tượng của
giới tự nhiên mà là những thực thể tinh thần, còn những vật cảm tính là đối
tượng nhận thức theo dư luận, nghĩa là không phải là tri thức mà là cái tương
tự tri thức. Muốn hiểu biết chân lý phải gạt bỏ mọi cái hữu hình, cảm tính,
phải nhắm mắt bịt tai, phải đi sâu vào quan sát bản thân mình, phải cố gắng
“hồi tưởng’’ lại những gì mà linh hồn bất tử trước đó đã quan sát được trong
thế giới ý niệm.
3.1.5. Đấu tranh trong quan điểm về thế giới quan:
Các nhà triết học cổ đại cả duy vật và duy tâm đều xây dựng thế giới
quan triết học là hệ thống quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về
bản thân, cuộc sống và của con người trong thế giới ấy. Thế giới quan triết
học xuất hiện khi nhận thức con người đạt trình độ cao và xã hội có nhu cầu
chỉ đạo cuộc sống bằng tư tưởng, thế giới quan triết học được thể hiện qua các
phạm trù.
Đêmôcrit: Xây dựng thế giới quan duy vật nhưng là duy vật chất phát, đó
là hệ thống quan điểm, quan niệm ngây thơ về thế giới con người. Tuy nhiên
do hoạt động thực tiễn của con người còn quá thấp, đơn giản chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm đời thường chủ yếu dựa vào thuyết nguyên tử để xây dựng.
13


Platon: Xây dựng thế giới quan duy tâm khách quan, cho rằng thượng
đế sáng tạo ra thế giới và bản chất thế giới là cái tinh thần; các yếu tố tinh
thần quyết định đời sống vật chất, các lực lượng tinh thần chi phối cuộc sống
con người trong hiện thực.
3.2. Những giá trị của cuộc đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrit và
đường lối Platon và ảnh hưởng đến các trường phái triết học

3.2.1. Đã xây dựng được cơ sở của phép biện chứng:
Các Mác và Ph.Ăngghen đã viết nhiều về phép biện chứng Hy lạp cổ đại
và xác định nguồn gốc lịch sử và cho rằng những nhà triết học Hy lạp cổ đại là
những nhà biện chứng tự phát bẩm sinh và dường như những phép biện chứng
của LêNin đưa ra đều xuất phát từ nghiên cứu triết học Hy lạp cổ đại “ Với
quan điểm trên phép biện chứng Hy lạp cổ đại được hiểu là giai đoạn đầu tiên
trong lịch sử nhận thức mang tính biện chứng về sự phát triển của hiện thực”.
Tuy nhiên phép biện chứng ở giai đoạn này là phép biện chứng khách
quan tự phát có nghĩa khi phát triển các phép biện chứng trên thực tế các nhà
Triết học Hy lạp cổ đại về chủ quan không ý thức được nó, không xây dựng
thành hệ thống. Như phép biện chứng logic học của Platôn, phép biện chứng
phổ biến của Đêmôcrít trong thuyết nguyên tử.
3.2.2. Xây dựng thế giới quan duy vật:
Đường lối Đêmôcrít dựa thế giới quan duy vật, tuy là duy vật chất phát
nhưng trên cơ sở là lý trí, lẽ sống đời thường của chính con người để lý giải
thế giới và đời sống hiện thức. Đêmôcrít không dựa vào cái siêu nhiên hay
lòng tin, đức tin tôn giáo mà dựa tự nhiên, đã đặt ra những vấn đề mà triết học
và khoa học đời sau phải giải đáp; do vậy nó thúc đẩy hoạt động nhận thức v
à hoạt động thực tiễn con người phát triển, nó góp phần cũng cố lực lượng
tinh thần cho lực lượng chính tiến bộ cho trong xã hội.
Hạn chế thế giới quan duy vật chất phát thường đồng nhất với vật chất
với vật thể cụ thể; do đó thường mang tính trực quan, phỏng đoán, thiếu

14


chứng cứ khoa học, chưa triệt để do trình độ còn hạn chế chỉ giải thích thế
giới chứ chưa thật sự góp phần cải tạo thế giới.
3.2.3. Đặt nền tảng vấn đề cơ bản của triết học
Không chỉ xác định được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các

vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế
giới quan của các triết gia và học thuyết của họ. Vấn đề cơ bản của triết học
có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có
sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các
trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.

15


C. PHẦN KẾT LUẬN
Trong điều kiện hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
đạt được những thành tựu to lớn và làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời
sống xã hội, tình hình thế giới có nhiều biến đổi phức tạp thì nắm vững thế
giới quan duy vật biện chứng càng có ý nghĩa quan trong nhằm hoàn thiện tư
duy lý luận xây dựng đất nước theo con đường phát triển chủ nghĩa xã hội thì
không có cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học trước đó đặc biệt
là triết học Hy lạp cổ đại nói chung và đường lối Đêmôcrít Người đã đặt nền
móng cho triết học chủ nghĩa duy vật, đã đóng vai trò tích cực đối với sự phát
triển của khoa học với đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nghiên cứu Lịch sử triết học có ý nghĩa to lớn trong nhận thức và đời
sống thực tiễn xã hội. Đặc biệt là nghiên cứu Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platôn. Trong quá
trình đấu tranh đó, các trường phái triết học vừa gạt bỏ nhau, kế thừa nhau lẫn
nhau, và mỗi trường phái đều không ngừng phát triển, các học thuyết triết học
sau kế thừa những tư tưởng nhất định của triết học giai đoạn trước và cải biến
phát triển cho phù hợp với yêu cầu lịch sử của giai đoạn mới nhằm:
Cho ta khả năng hiểu biết và khái quát sự phát triển lịch sử tư tưởng triết

học của nhân loại, nó không chỉ hình thành và phát triển của những phương
pháp nhận thức khoa học, nó dạy ta phương pháp nghiên cứu đánh giá các học
thuyết triềt học trong lịch sử, góp phần xây dựng những tư duy đúng đắn.
Giúp ta nắm bắt những kinh nghiệm trong nhận thức khoa học, trí tuệ
của mỗi thời đại lịch sử được kết tinh trong triết học, nhằm tăng thêm sự hiểu
biết của mỗi con người.
Góp phần to lớn trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, cũng như việc
xây dựng thế giới quan duy vật và tính hạn chế sai lầm của thế giới quan duy
tâm; nó khằng định chỉ có triết học nào gắn liền mật thiết với thực tiễn và
khoa học mới giúp con người tìm ra được chân lý khách quan.
Giúp chúng ta hiều rằng sự xuất hiện triết học Mácxít là tất yếu lịch sử,
phù hợp với lôgic khách quan của sự phát triển tư tưởng nhân loại, thấy rõ
tính khoa học của nó.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học Hy Lạp cổ đại, NXB Lý luận chính trị - Hà nội, 2006
2. Triết học Phương Tây Trung cổ, Phục hưng, Cận đại; NXB Lý luận
chính trị - Hà nội, 2007
3. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Lý luận chính trịHà nội, 2006.
4. Giáo trình Kinh tế chính trị, Nhà xuất bản Lý luận chính trị- Hà nội, 2006.
5. Giáo trình Triết học, Nhà xuất bản Lý luận chính trị- Hà nội, 2007.
6. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin, NXB Đại học
kinh tế quốc dân, Hà nội, 2008.
7. Mác- Angghen Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1995.
8. Tạp chí Cộng sản.

17



MỤC LỤC

18



×