Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nâng cao năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với hàng xuất khẩu việt nam hàng dệt may và điện tử tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.75 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------

NGUYỄN HỒNG THU

NÂNG CAO NĂNG LỰC THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ
TOÀN CẦU ĐỐI VỚI HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM
– HÀNG DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ

Chuyên ngành

: Kinh tế quốc tế

Mã số

: 9.31.01.06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Ngô Xuân Bình
2. PGS. TS. Nguyễn Thanh Đức
Phản biện 1: PGS. TS. Đinh Văn Thành
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Danh Tốn
Phản biện 3: PGS.TS. Đào Ngọc Tiến
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Khoa học xã hội 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân,
Hà nội
Vào hồi ……giờ……phút, ngày……tháng…….năm ……
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, và đang trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Thông qua
xuất khẩu hàng hóa, Việt Nam đã tham gia tích cực vào chuỗi giá trị (CGT)
toàn cầu, đặc biệt kể từ sau khi gia nhập WTO. Trong số các mặt hàng xuất
khẩu, hàng dệt may và điện tử là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực thuộc nhóm
hàng công nghiệp chế biến chế tạo đang được Việt Nam tập trung nâng cao
năng lực cạnh tranh để có thể tham gia sâu vào CGT toàn cầu. Dù kim ngạch
xuất khẩu liên tục gia tăng, nhưng những nỗ lực bỏ ra của cả nhà nước lẫn
các doanh nghiệp trong hai ngành này vẫn chưa mang lại kết quả như mong
muốn, các mặt hàng xuất khẩu của hai ngành này vẫn chủ yếu là hàng gia
công, lắp ráp; phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên phụ liệu để xuất khẩu;
giá trị gia tăng thu về chưa tương ứng với tăng trưởng xuất khẩu và cũng
đang gặp phải những hạn chế và thách thức đến từ bên trong và bên ngoài
nền kinh tế khi tham gia vào CGT toàn cầu. Tất cả điều này phản ánh năng
lực hạn chế tham gia vào CGT toàn cầu của Việt Nam. Song đây vẫn là hai
mặt hàng được đánh giá có nhiều tiềm năng và cơ hội để tham gia vào CGT
toàn cầu, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.

Chính vì vậy, việc triển khai đề tài luận án “Nâng cao năng lực tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với hàng xuất khẩu Việt Nam – hàng dệt
may và điện tử” nhằm luận giải những vấn đề liên quan tới CGT toàn cầu,
năng lực tham gia CGT toàn cầu và đánh giá năng lực tham gia CGT toàn
cầu đối với hàng xuất khẩu thông qua ngành hàng dệt may và điện tử của
Việt Nam để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tham gia
CGT toàn cầu để giúp Việt Nam tránh “bị kẹt” ở bẫy giá trị gia tăng thấp và
phát triển lên các nấc thang cao hơn trong CGT là hết sức cấp thiết, có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Phân tích đánh giá năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng dệt
may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam, từ đó chỉ ra các vấn đề cần giải
quyết và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tham gia vào CGT
toàn cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng
lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất khẩu, cụ thể là hàng dệt may và
điện tử.


2

- Đánh giá thực trạng năng lực tham gia vào CGT toàn cầu đối với hàng
dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực tham gia vào CGT
toàn cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính
sách của nhà nước và giải pháp của doanh nghiệp để nâng cao năng lực tham

gia vào CGT toàn cầu đối với hàng hàng dệt may và điện tử xuất khẩu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung phân tích thực trạng tham gia vào các
công đoạn trong CGT và các nhân tố ảnh hưởng để đánh giá điểm mạnh, hạn
chế và chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu đối
với ngành hàng dệt may và điện tử xuất khẩu. Qua đó đề xuất các giải pháp
nâng cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng dệt may và điện tử
xuất khẩu.
- Về không gian: Nghiên cứu năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng điện tử và dệt may thông qua đánh giá năng lực tham gia các công đoạn
chính trong CGT toàn cầu (thiết kế, cung ứng nguyên phụ liệu, sản xuất và
lắp ráp, phân phối xuất khẩu và marketing) của Việt Nam.
Tác nhân tham gia vào CGT toàn cầu được luận án tập trung nghiên cứu
là doanh nghiệp trong ngành hàng dệt may và điện tử. Các doanh nghiệp này
bao gồm doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp FDI và cả các doanh
nghiệp liên doanh.
Nghiên cứu kinh nghiệm, luận án chọn các nước có nhiều điểm tương
đồng về xuất phát điểm tham gia CGT dệt may và điện tử toàn cầu, đó là các
nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Malaysia.
- Về thời gian: Số liệu sử dụng trong luận án từ khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 đến 2016. Các giải pháp nâng
cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất
khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam được đề xuất đến năm 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng kết hợp cách tiếp cận phân tích CGT và đánh giá năng
lực cạnh tranh dựa trên mô hình kim cương mở rộng của M. Porter và J.H.
Dunning. Theo khung phân tích của M. Porter, CGT là tập hợp các hoạt động
tạo ra giá trị ở mỗi công đoạn trong chuỗi. Và để tham gia CGT phải có năng
lực cạnh tranh. Như vậy việc sử dụng phối hợp cách tiếp cận CGT và năng

lực cạnh tranh sẽ giúp phân tích được các công đoạn tham gia có hiệu quả,
cũng như xác định được vị thế của Việt Nam trong CGT toàn cầu, đồng thời


3

nhận diện được các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực tham gia CGT toàn cầu
đối với ngành hàng dệt may và điện tử.
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu như: phân tích - tổng hợp, phân tích thống kê, phân tích so sánh, diễn
giải, quy nạp, lý luận kết hợp với thực tiễn. Ngoài ra, luận án còn sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm chuyên gia thông qua tham dự các hội thảo, tọa
đàm trong nước và quốc tế về các vấn đề liên quan đến luận án.
Nguồn thông tin và dữ liệu: Luận án sử dụng những tài liệu công bố
chính thức, các xuất bản phẩm của một số trường đại học, viện nghiên cứu
của các nước châu Á; Tư liệu của các tổ chức quốc tế như WB, UNCTAD,
ADB, WTO…; tư liệu của Hiệp hội Dệt may Việt Nam; Hiệp hội doanh
nghiệp điện tử Việt Nam; Tư liệu của các học giả có uy tín trong và ngoài
nước; Số liệu thống kê chính thức của chính phủ Việt Nam cũng như của các
tổ chức uy tín quốc tế. Luận án phân tích CGT và năng lực cạnh tranh chủ
yếu dựa trên cơ sở các dữ liệu sẵn có này
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, luận án đã chỉ ra được khoảng
trống cần tiếp tục nghiên cứu.
- Dựa trên lý thuyết lợi thế cạnh tranh và CGT của M. Porter, luận án đưa
ra được khái niệm riêng có, xây dựng được các tiêu chí đánh giá và những
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất
khẩu. Đặc biệt, luận án đã đưa thêm nhân tố đầu tư nước ngoài vào để phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu cho phù hợp
với sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.

- Nghiên cứu kinh nghiệm tham gia CGT dệt may và điện tử toàn cầu của
một số nước châu Á, luận án đã rút ra các bài học hữu ích cho Việt Nam.
- Luận án đã đưa ra bức tranh tổng quát về thực trạng năng lực tham gia
CGT toàn cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam. Qua
đó, chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng của nó.
- Luận án đưa ra quan điểm phát triển ngành dệt may và điện tử theo cách
tiếp cận CGT. Đồng thời trên cơ sở luận giải có căn cứ khoa học và thực tiễn,
luận án đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tham gia CGT toàn
cầu đối với ngành hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận: Luận án đã hệ thống hóa, và góp phần phát triển lý
luận về CGT toàn cầu, và năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất
khẩu. Trong đó luận án đã tập trung vào việc xây dựng khung lý luận cho
việc nghiên cứu năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất khẩu một
cách hệ thống, từ khái niệm đến xây dựng các tiêu chí đánh giá và các nhân
tố ảnh hưởng.


4

6.2. Về mặt thực tiễn: Những đóng góp mới về khoa học của luận án là
tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy ở các cơ sở
đào tạo; là tài liệu có giá trị tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách,
cho các doanh nghiệp không chỉ đối với nâng cao năng lực tham gia CGT
toàn cầu nhằm gia tăng giá trị gia tăng đối với ngành hàng dệt may và điện tử
mà còn có giá trị tham khảo đối với nhiều ngành hàng công nghiệp xuất khẩu
khác của Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm
4 chương như sau:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực tham gia vào chuỗi
giá trị toàn cầu
Chương 3. Năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với hàng
dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam
Chương 4. Giải pháp nâng cao năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về chuỗi giá trị toàn cầu
Các nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm CGT và CGT toàn cầu, phân
loại chuỗi giá trị. Các nghiên cứu cũng đã sử dụng khái niệm CGT như là
công cụ để để phân tích, đánh giá và chỉ ra cách cách thức nâng cấp CGT
toàn cầu, đặc biệt là cách thức hòa nhập các DNVVN vào CGT toàn cầu. Các
nghiên cứu về ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 càng
khẳng định việc tham gia vào CGT toàn cầu của mỗi nước, mỗi nền kinh tế là
một lựa chọn và là quy luật tất yếu.
1.2. Tổng quan các nghiên cứu về CGT dệt may và điện tử toàn cầu
Các nghiên cứu đã sử dụng CGT toàn cầu để giải thích sự dịch chuyển
ngành dệt may và điện tử từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển châu Á trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Các nghiên cứu đã cho
thấy tầm quan trọng của việc tham gia CGT dệt may và điện tử toàn cầu
trong phát triển kinh tế thế giới, nhất là sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2008.
1.3. Tổng quan các nghiên cứu về năng lực tham gia CGT toàn cầu
Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã cho thấy năng lực tham gia
CGT toàn cầu phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh
nghiệp, ngành và quốc gia, đồng thời nhấn mạnh đến khả năng duy trì và
nâng cao lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Các nghiên



5

cứu cũng đã đưa ra các tiêu chí đánh giá khác nhau, và chỉ ra các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia.
1.4. Tổng quan các nghiên cứu về thực tiễn tham giá CGTdệt may
và điện tử toàn cầu
Các nghiên cứu đã cho thấy một bức tranh khái quát về quá trình tham
gia CGT dệt may và điện tử của một số nước châu Á. Qua đó cho thấy một
số nhân tố thúc đẩy tham gia vào CGT toàn cầu, cách thức nâng cấp ngành
của các nước này, cũng như chỉ ra các cơ hội và thách thức khi tham gia vào
CGT toàn cầu.
1.5. Tổng quan các nghiên cứu về tham gia CGT dệt may và điện
tử toàn cầu của Việt Nam
Các nghiên cứu cũng đã khái quát được thực trạng tham gia CGT dệt
may và điện tử toàn cầu của Việt Nam. Qua đó cho thấy Việt Nam chủ yếu
tham gia vào công đoạn gia công lắp ráp và vẫn đang nằm ở vị trí đáy của
CGT toàn cầu. Các nghiên cứu cũng đã phân tích các cơ hội và thách thức
đối với dệt may và điện tử của Việt Nam hiện nay. Qua đó đưa ra các giải
pháp, cũng như đề xuát các chính sách hỗ trợ để nâng cấp quá trình sản xuất,
chất lượng sản phẩm dệt may và điện tử.
1.6. Nhận xét các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Các nghiên cứu trong nước phần lý thuyết về các công đoạn trong
CGT dệt may và điện tử toàn cầu mới chỉ khái quát sơ lược, chưa được phân
tích sâu. Và chưa có nghiên cứu về cách thức nâng cao năng lực tham gia vào
CGT toàn cầu.
- Chưa có nghiên cứu nào phân tích và đánh giá năng lực tham gia
CGT dệt may và điện tử toàn cầu của các nước này để rút ra các bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
- Các nghiên cứu về dệt may và điện tử mới chỉ đề cập đến một hoặc

một số khía cạnh, nên mang tính rời rạc và không có hệ thống, hơn nữa chưa
có nghiên cứu nào phân tích đánh giá năng lực tham gia vào CGT dệt may và
điện tử toàn cầu của Việt Nam, nên chưa đưa ra các giải pháp sát thực trong
việc nâng cao năng lực cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tích
cực tham gia các FTA thế hệ mới hiện nay.
1.7. Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án
Thứ nhất, hệ thống hóa lý luận về CGT toàn cầu nói chung và CGT dệt
may và điện tử nói riêng: khái niệm, phân loại chuỗi, các phương thức sản
xuất trong chuỗi, lợi ích của việc tham gia chuỗi, các nhân tố tác động đến sự
hình thành CGT; đồng thời đưa ra cơ sở lý luận về năng lực tham gia CGT
toàn cầu đối với hàng xuất khẩu: khái niệm, các tiêu chí đánh giá, các nhân tố
ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu.


6

Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm ở một số khía cạnh trong nâng cao năng lực tham gia CGT dệt
may và điện tử toàn cầu cho Việt Nam.
Thứ ba, phân tích thực trạng năng lực tham gia CGT toàn cầu hàng xuất
khẩu dệt may và điện tử Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng, từ đó đánh giá
điểm mạnh và hạn chế, cũng như đưa ra các vấn đề cần giải quyết.
Thứ tư, đề xuất một số hàm ý chính sách và giải pháp cụ thể nâng cao
năng lực tham gia CGT toàn cầu trong thời gian tới để phát huy các thế
mạnh, khắc phục các hạn chế, đồng thời tận dụng được các cơ hội và giảm
thiểu những thách thức nhằm tăng giá trị gia tăng và lợi nhuận cho Việt Nam
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NĂNG LỰC THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
2.1. Cơ sở lý luận về chuỗi giá trị toàn cầu

2.1.1. Khái quát chung về chuỗi giá trị toàn cầu
- Chuỗi giá trị: Theo M. Porter, CGT là một tập hợp những hoạt động
để đưa một sản phẩm từ khi còn lý ý tưởng đến khi được sản xuất, đưa vào
sử dụng và thải loại. CGT gồm có 2 nhóm: Hoạt động cơ bản và hoạt động
hỗ trợ. Các hoạt động này có mối liên kết chặt chẽ, tương tác với nhau trong
một chuỗi thống nhất. Giá trị tạo ra của chuỗi bao gồm tổng các giá trị tạo ra
tại mỗi công đoạn hoạt động của chuỗi.
- Chuỗi giá trị toàn cầu: Theo Kaplinsky R. và Morris M. (2001):
“CGT toàn cầu là dây chuyển sản xuất kinh doanh theo phương thức toàn cầu
hóa, trong đó có nhiều nước tham gia, chủ yếu là các doanh nghiệp tham gia
vào các công đoạn khác nhau từ thiết kế chế tạo tiếp thị đến phân phối và hỗ
trợ người tiêu dùng”. CGT toàn cầu có 5 công đoạn chính: R&D – thiết kế sản xuất – phân phối – tiêu thụ. Trong đó giá trị gia tăng được tạo ra nhiều
nhất ở khâu R&D và marketing; tiếp đến là khâu thiết kế và phân phối; khâu
sản xuất, gia công và lắp ráp tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi.
- Phân loại CGT toàn cầu: (1) CGT toàn cầu được dẫn dắt bởi nhà sản
xuất; (2) CGT toàn cầu được dẫn dắt bởi nhà bán hàng; (3) Chuỗi liên kết
theo mô hình cụm.
- Các phương thức tham gia vào CGT toàn cầu
. Đối với doanh nghiệp gồm có: Sản xuất theo hợp đồng (CM); Sản
xuất theo thiết bị gốc (OEM); Sản xuất theo thiết kế gốc (ODM); Sản xuất
theo thương hiệu gốc (OBM). Trong đó, phương thức sản xuất CM đem lại
giá trị gia tăng thấp nhất, và OBM thu được giá trị gia tăng cao nhất.
. Đối với sản phẩm: Nguyên liệu thô; nguyên phụ liệu; sản phẩm; và dịch
vụ.


7

- Lợi ích của việc tham gia vào CGT toàn cầu: Nâng cao tính chuyên
môn hóa trong từng công đoạn; Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh;

Tăng thu nhập cho các doanh nghiệp trong chuỗi; Cải tiến công nghệ, kỹ
thuật và tri thức.
- Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển CGT toàn cầu:
Nhu cầu của thị trường toàn cầu; Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế; Sự phát
triển của khoa học công nghệ; Sức ép cạnh tranh toàn cầu.
2.1.2. Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Dệt may là đặc trưng của CGT toàn cầu được dẫn dắt bởi nhà bán hàng.
Việc tham gia CGT dệt may tương đối dễ dàng ở các công đoạn công nghệ
đơn giản và thấp, nhưng lại có nhiều rào cản lớn từ các nước phát triển đối
với các công đoạn thâm dụng tri thức, có giá trị gia tăng cao. Điều này dẫn
đến sự đa dạng hóa chưa từng có của các nhà xuất khẩu dệt may trong thế
giới thứ ba.
CGT dệt may gồm có 5 công đoạn chính: Thiết kế, sản xuất nguyên
phụ liệu, sản xuất may, phân phối và marketing. Trong đó, giá trị gia tăng thu
được nhiều nhất ở khâu thiết kế, marketing và phân phối sản phẩm, tiếp đến
là khâu sản xuất nguyên phụ liệu, khâu cắt và may tạo ra giá trị gia tăng thấp
nhất trong CGT toàn cầu.
2.1.3. Chuỗi giá trị điện tử toàn cầu
Điện tử là ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ, nó là đặc
trưng cho CGT toàn cầu được dẫn dắt bởi nhà sản xuất như các TNCs và
MNCs. Giống như CGT của nhiều ngành hàng khác, CGT điện tử cũng bao
gồm 5 công đoạn cơ bản sau: cung ứng nguyên liệu và linh kiện, thiết kế và
R&D, sản xuất lắp ráp, phân phối, marketing.
2.2. Cơ sở lý luận về năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng
xuất khẩu
2.2.1. Khái niệm
Theo cách tiếp cận CGT của M. Porter và những khái niệm về năng lực
cạnh tranh, luận án cho rằng, năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng
xuất khẩu là khả năng khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm duy
trì, và nâng cao lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm để sản phẩm đó có khả

năng tham gia vào một/ nhiều mắt xích hay hoạt động nào đó trong chuỗi.
Năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất khẩu được tạo
thành bởi: Các yếu tố thuộc về sản phẩm; các yếu tố thuộc về doanh
nghiệp/ngành; các yếu tố thuộc về chính phủ.
2.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực tham gia vào các công đoạn
trong CGT toàn cầu
- Tiêu chí đánh giá năng lực tham gia công đoạn R&D và thiết kế thể hiện
qua các tiêu chí: phương thức sản xuất; khả năng tạo sản phẩm mới; vốn đầu


8

tư cho hoạt động R&D; trình độ công nghệ; trình độ nhân lực hoạt động
R&D và thiết kế; Khả năng nắm bắt nhu cầu tiêu dùng; Khả năng liên kết
giữa trường, viện nghiên cứu với các nhà sản xuất.
- Tiêu chí đánh giá năng lực tham gia công đoạn sản xuất nguyên phụ
liệu, linh kiện được đánh giá qua số lượng và quy mô sản xuất của các nhà
cung ứng sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ có liên quan trực tiếp đến việc cung cấp
đầu vào sản xuất, và liên quan đến việc cung ứng, phân phối đầu ra sản phẩm
của ngành; công nghệ và thiết bị; khả năng liên kết với các nhà sản xuất, thiết
kế, phân phối xuất khẩu.
- Tiêu chí đánh giá năng lực tham gia công đoạn sản xuất thể hiện ở quy
mô và phương thức sản xuất; năng suất lao động, chi phí lao động; trình độ
công nghệ; số lượng và chất lượng lao động; trình độ quản lý; sự đa dạng về
sản phẩm; giá trị gia tăng của sản phẩm; khả năng liên kết với các nhà cung
ứng, các nhà phân phối xuất khẩu.
- Tiêu chí đánh giá năng lực tham gia công đoạn phân phối xuất khẩu thể
hiện ở khả năng tham gia vào các kênh phân phối trực tiếp hay gián tiếp; Khả
năng tiếp cận các nhà nhập khẩu.
- Tiêu chí đánh giá năng lực tham gia công đoạn marketing thể hiện ở

việc tạo dựng thương hiệu sản phẩm, danh tiếng doanh nghiệp; khả năng mở
rộng thị trường xuất khẩu; hoạt động xúc tiến thương mại.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực tham gia CGT toàn cầu đối
với hàng xuất khẩu
- Cơ sở lý luận
Luận án sử dụng mô hình kim cương mở rộng của M. Porter và J.H
Dunning làm cơ sở lý luận cho việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất khẩu vì phù hợp với điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ của Việt Nam hiện nay.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu
đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu.
- Các điều kiện yếu tố sản xuất: các nhân tố liên quan đến nguồn vốn,
nguồn nhân lực, công nghệ máy móc của ngành hàng dệt may và điện tử.
- Điều kiện cầu thị trường: quy mô, cấu trúc và sự phức tạp của cầu thị
trường trong nước và ngoài nước đối với hàng dệt may và điện tử.
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) và có liên quan: thực trạng các
nhà cung ứng và phân phối hỗ trợ ngành có liên quan trực tiếp đến cung cấp
nguyên nhiên liệu đầu vào sản xuất và liên quan đến việc cung ứng, phân
phối đầu ra sản phẩm của ngành. Nó bao gồm: Khả năng liên kết với các
ngành CNHT liên quan; Sự hợp tác và liên kết giữa ngành – cơ sở đào tạo;
Dịch vụ hỗ trợ về tài chính, marketing, vận tải, logistic.


9

- Bối cảnh chiến lược và cạnh tranh trong nước bao gồm: chiến lược, cấu
trúc của các doanh nghiệp trong nước; mục tiêu của doanh nghiệp; ảnh
hưởng của các chiến lược chính sách của quốc gia; sự thành lập doanh
nghiệp mới, số lượng và sự đa dạng của các doanh nghiệp cũng tác động đến
mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành.

- Đầu tư nước ngoài: tập trung vào nhân tố thu hút đầu tư từ nước ngoài
vào ngành dệt may và điện tử thông qua quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn
FDI, các dự án FDI, các nhà đầu tư FDI, các lĩnh vực thu hút FDI, tác động
lan tỏa của FDI.
- Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc tạo nên những lợi thế cạnh
tranh vượt trội của quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định và tạo lập
các giá trị của các công đoạn trong CGT toàn cầu thông qua các thể chế
chính sách.
2.3. Kinh nghiệm nâng cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của một số nước châu Á
Qua phân tích kinh nghiệm của một số nước châu Á (Trung Quốc, Hàn
Quốc và Malaysia), luận án rút ra một số bài học kinh nghiệm để phát triển
và nâng cao năng lực tham gia vào CGT dệt may và điện tử toàn cầu như sau:
Hoạch định chiến lược phát triển cụ thể, định hướng rõ ràng đối với từng
ngành công nghiệp theo cách tiếp cận toàn cầu, phù hợp với từng giai đoạn,
từng thời kỳ của đất nước; Phát huy các lợi thế cạnh tranh; Phát triển công
nghiệp hỗ trợ; thúc đẩy liên kết giữa các nhà cung ứng trong nước với các
TNCs và các doanh nghiệp trong nước; Đầu tư phát triển nguồn nhân lực; Có
chính sách hỗ trợ kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các
DNNVV, khuyến khích các DNNVV tham gia vào liên kết với các doanh
nghiệp FDI; Tích cực ký kết các FTA song phương và đa phương để tạo điều
kiện cho xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường toàn cầu.
Trong đó, đối với dệt may, nâng cao năng lực cạnh tranh tập trung vào mở
rộng quy mô sản xuất để hạ giá thành sản phảm, còn phát triển điện tử, tập
trung vào đổi mới công nghệ, hoạt động R&D để tạo ra sản phẩm mới có
hàm lượng công nghệ cao.
Chương 3
NĂNG LỰC THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU ĐỐI VỚI
HÀNG DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
3.1. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may và điện tử của Việt Nam

3.1.1. Xuất khẩu hàng dệt may
Giai đoạn 2010-2015, tốc độ tăng trưởng trung bình của toàn ngành dệt
may đạt khá cao là16,4%, đóng góp 10-15% GDP/năm. Hiện Việt Nam là
nước xuất khẩu may mặc đứng thứ 4 trên thế giới, chiếm 5,5% thị phần toàn
cầu. Các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ lệ lớn trong kim ngạch xuất khẩu dệt


10

may. Hàng dệt may xuất khẩu đã có mặt tại 180 thị trường trên thế giới, các
thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các sản
phẩm xuất khẩu khá đa dạng, trong đó sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là áo
jacket, áo thun, áo sơ mi… Đây là các mặt hàng Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Việt Nam đã và đang bỏ lỡ nhiều cơ hội hưởng
thuế quan ưu đãi từ các FTA đối với hàng dệt may xuất khẩu.
3.1.2. Xuất khẩu hàng điện tử
Từ 2013 đến nay, kim ngạch xuất khẩu điện tử luôn giữ vị trí xuất khẩu số
1. Năm 2014, Việt Nam đã vượt trên Philippines và Thái Lan, vươn lên trở
thành nhà xuất khẩu điện tử lớn thứ 3 trong ASEAN và lớn thứ 12 trên thế
giới. Tuy nhiên, xuất khẩu điện tử của Việt Nam phụ thuộc lớn vào các
doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp FDI chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tổng
số doanh nghiệp điện tử ở Việt Nam nhưng lại chiếm gần 90% thị trường
trong nước và đến 95% kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng điện tử của Việt
Nam đã xuất khẩu sang hơn 100 thị trường trên thế giới. Các thị trường xuất
khẩu chủ yếu là ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, và đã xuất khẩu vào được
các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Trung Đông… Các sản phẩm xuất khẩu
phần lớn mới chỉ dừng lại ở khâu lắp ráp và chưa hoàn chỉnh thành sản
phẩm, hàng điện tử xuất khẩu nguyên chiếc chiếm tỷ trọng còn khá thấp. Việt
Nam chưa tận dụng được các cơ hội từ các FTA để xuất khẩu hàng điện tử.
3.2. Thực trạng năng lực tham gia CGT dệt may và điện tử toàn cầu

3.2.1. Thực trạng năng lực tham gia các công đoạn trong CGT dệt may
toàn cầu
- Công đoạn cung ứng nguyên phụ liệu. Hiện mới chỉ cung cấp được 2030% nguyên phụ liệu cho dệt may, số còn lại 70-80% phải nhập khẩu từ bên
ngoài, chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan khiến cho dệt may
Việt Nam khó tận dụng được ưu đãi từ các FTA về quy tắc xuất xứ. Năm
2016, tỷ lệ nội địa hóa dệt may đạt hơn 51,46%, nhưng vẫn còn thấp xa so
với mức 90% của Ấn Độ và 95% của Trung Quốc.
- Công đoạn thiết kế. Hàng dệt may xuất khẩu phần lớn vẫn phải sản xuất
theo mẫu thiết kế của những người mua nước ngoài. Có tới 87,8% các doanh
nghiệp cho rằng năng lực thiết kế của họ chỉ ở mức trung bình thấp và khó có
khả năng để thực hiện việc đổi mới thường xuyên sản phẩm. Đội ngũ thiết kế
thời trang Việt Nam vẫn thiếu cả về chất và lượng. Vì thế dệt may Việt Nam
chưa có những thiết kế, mẫu mã tạo được thương hiệu đủ sức cạnh tranh với
thời trang các nước.
- Công đoạn sản xuất may. Dệt may xuất khẩu theo hình thức gia công
đơn giản CMT - chiếm tới 70%, làm FOB (tự chủ nguyên phụ liệu) chiếm
20%, ODM (tự thiết kế, sản xuất) chiếm 9% và OBM (làm tất cả các khâu
sản xuất ra thành phẩm và tự phân phối) chỉ chiếm 1%. Đây cũng là công


11

đoạn có máy móc thiết bị đã được đổi mới và hiện đại hóa đến 90%, có trình
độ công nghệ khá cao, khả năng vận hành thiết bị của công nhân ngành may
cũng đạt mức tương đương với các nước trong khu vực. Tuy nhiên xét về
tổng thể thì năng suất của dệt may Việt Nam mới chỉ đạt mức trung bình khá.
Số doanh nghiệp ứng dụng công cụ công nghệ năng suất chất lượng chưa
nhiều, tỷ lệ thành công chưa cao.
- Công đoạn phân phối xuất khẩu hàng dệt may. Phần lớn các sản phẩm
dệt may của Việt Nam xuất khẩu được tiến hành thông qua một trung gian

thứ ba là các nhà buôn hoặc các nhà sản xuất khu vực ở Hồng Kông, Đài
Loan, Hàn Quốc… Rất ít doanh nghiệp có được các hợp đồng trực tiếp từ các
nhà bán lẻ để cung cấp sản phẩm của mình. Một số doanh nghiệp thì thông
qua các văn phòng đại diện ở Việt Nam của các thương hiệu nổi tiếng để
cung cấp sản phẩm.
- Công đoạn marketing hàng dệt may. Dệt may Việt Nam vẫn chưa tạo
được thương hiệu trong khu vực và thế giới. Điều này khiến cho việc mở
rộng thị trường khó phát triển. Xuất khẩu dệt may vẫn chủ yếu phụ thuộc vào
các thị trường truyền thống là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Riêng 4
thị trường này đã chiếm tới 85% tổng giá trị xuất khẩu dệt may của Việt
Nam.
3.2.2. Thực trạng năng lực tham gia các công đoạn trong CGT điện tử
toàn cầu
- Công đoạn thiết kế, R&D điện tử. Hầu hết các sản phẩm điện tử đều sản
xuất theo bản quyền thiết kế của nước ngoài. Song năng lực thiết kế điện tử
Việt Nam được đánh giá đứng thứ hai khối ASEAN về trình độ và năng lực
thiết kế vi mạch. Tuy nhiên, số sản phẩm này tìm được đầu ra còn khá ít, liên
kết sản xuất với các doanh nghiệp ứng dụng vi mạch trong nước gần như
chưa có. Hiện Việt Nam vẫn chưa có nhà máy sản xuất vi mạch nào. Hơn
nữa, vấn đề đào tạo nhân lực cho lĩnh vực vi mạch vẫn còn chưa đáp ứng đủ
cầu.
- Công đoạn cung ứng nguyên liệu, linh phụ kiện điện tử. Số lượng nhà
cung ứng Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ, và chủ yếu là cung ứng các
nguyên liệu đơn giản, giá trị gia tăng thấp hoặc linh kiện đơn giản như phụ
trợ về cơ khí, nhựa, cao su, mạch in, bao bì…. Những linh kiện này thường
được cung ứng cho các doanh nghiệp FDI trong nước, xuất khẩu rất hạn chế.
Chỉ có 1/4 số doanh nghiệp tham gia sản xuất phụ tùng, linh kiện, phần lớn
trong số này là doanh nghiệp FDI, sản xuất phục vụ xuất khẩu là chủ yếu.
Tính trung bình tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam rất
thấp chỉ đạt 12%, còn lại là 88% nhập từ nước ngoài.

- Công đoạn sản xuất và lắp ráp điện tử. Việt Nam vẫn ở giai đoạn nhập
linh kiện về gia công lắp ráp tích hợp thành sản phẩm cụm linh kiện để xuất


12

khẩu. Số doanh nghiệp nội sản xuất bằng thiết kế và thương hiệu của mình
(ODM và OBM) chiếm tỷ trọng nhỏ. Giá trị gia tăng của sản phẩm thấp chỉ
đạt 10-15%, và khiến ngành điện tử Việt Nam thiếu hẳn tính cạnh tranh và bị
mất cân đối nghiêm trọng giữa sản phẩm điện tử tiêu dùng (chiếm gần 67%)
và sản phẩm điện tử chuyên dụng (chỉ chiếm hơn 11,5%). Các nhà đầu tư
nước ngoài cũng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng điện tử gia
dụng chiếm tới 66%, sản xuất linh phụ kiện chỉ chiếm 22%. Tương tự cơ cấu
sản phẩm cũng bị mất cân đối. Hàng điện tử công nghiệp gồm các linh kiện
điện tử và phụ tùng liên quan chỉ chiếm khoảng 3% sản phẩm điện tử và tin
học.
- Công đoạn phân phối và marketing hàng điện tử. Các doanh nghiệp điện
tử FDI chiếm gần 90% thị trường trong nước và đến 95% kim ngạch xuất
khẩu của ngành nên hoạt động xuất khẩu chủ yếu do FDI nắm giữ. Các
doanh nghiệp hầu hết sử dụng kết hợp cả phân phối trung gian và phân phối
trực tiếp đến khách hàng cuối cùng. Chi phí cho marketing của các doanh
nghiệp điện tử trong nước còn yếu kém nên dù các doanh nghiệp điện tử Việt
Nam có tỷ trọng hoạt động trong lĩnh vực phân phối lớn hơn tỷ trọng doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, song trong hoạt động xuất khẩu
mức độ giao dịch với các công ty phân phối nước ngoài khá thấp.
3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu
đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu
3.3.1. Những nhân tố chung ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT
toàn cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu
Phần này, Luận án tập trung vào phân tích các chính sách và hiệp định

thương mại tự do có ảnh hưởng tới hàng dệt may và điện tử xuất khẩu, cụ thể
là: Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ; Chính sách phát triển nguồn
nhân lực; Chính sách công nghệ; Chính sách thu hút đầu tư; Chính sách thuế,
hải quan và cải cách thủ tục hành chính; Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp;
Hiệp định CPTPP và EVFTA.
3.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu
đối với hàng dệt may xuất khẩu
- Các điều kiện của nhân tố sản xuất ngành hàng dệt may
+ Nguồn vốn: Giai đoạn 2015-2015, vốn sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong toàn ngành dệt may tăng cao đạt 2,35 lần. Tuy nhiên
nguồn vốn tăng chủ yếu là nhờ vào nguồn vốn FDI. Các doanh nghiệp dệt
may trong nước phần lớn là DNVVN, số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ
đồng chiếm đa số.
+ Nguồn nhân lực: Ngành đang sử dụng 2,5 triệu lao động, trong đó 80%
là lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật, trung cấp nghề gần 16%, trình độ
cao đẳng đại học và trên đại học chỉ chiếm 4,67%. Trình độ lao động ngành


13

dệt may thấp nên năng suất lao động cũng rất thấp. Khâu may năng suất chỉ
bằng 60% của các nước trong khu vực, ngành dệt năng suất bằng 90% Trung
Quốc, 85% Thái Lan. Phân theo quy mô lao động, số DNVVN chiếm 85,2%
trong ngành may và chiếm tới 94% trong ngành dệt.
+ Công nghệ, thiết bị máy móc: Đánh giá chung toàn ngành đối với các
yếu tố kỹ thuật đạt 4,28/10 vẫn thuộc loại yếu. Theo đánh giá của UNDP,
ngành dệt may Việt Nam đang ở trình độ 2/7 của thế giới. Các thiết bị công
nghệ chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc nên trình độ công nghệ chỉ ở mức
trung bình. Số doanh nghiệp ứng dụng công cụ công nghệ vào sản xuất chưa
nhiều, tỷ lệ thành công chưa cao.

+ Chi phí sản xuất kinh doanh: chi phí lao động dệt may của Việt Nam
thấp, nhưng chi phí bình quân cho 1 đơn vị sản phẩm lại cao do năng suất lao
động thấp và đang phải đối mặt với chính sách tăng tiền lương tối thiểu liên
tục. Giá cước vận chuyển có xu hướng tăng, chỉ tính riêng khâu vận tải đã
chiếm đến khoảng 40-60% chi phí trong chuỗi vận chuyển logistics, cũng
làm tăng chi phí, làm giảm khả năng cạnh tranh của dệt may xuất khẩu.
- Các điều kiện về cầu hàng dệt may
+ Thị trường trong nước nhiều tiềm năng nhưng chưa được chú trọng.
Nếu so với năng lực sản xuất của ngành dệt may, thì sức tiêu thụ nội địa là
quá nhỏ và không có vị trí để có thể điều hòa được sản xuất khi xuất khẩu
suy giảm. Thị phần của ngành dệt may Việt Nam ở đô thị chiếm 55-60%,
trong khi ở các vùng nông thôn chỉ chiếm 20%.
+ Nhu cầu thế giới về hàng dệt may vẫn tiếp tục tăng trưởng ổn định.
Năm 2016, giá trị của thị trường may mặc toàn cầu đạt được 842,7 tỷ USD,
tăng 5,5% so với năm trước. Dự đoán thị trường may mặc toàn cầu sẽ đạt
1.004,5 tỷ USD vào năm 2021, tăng 19,2% kể từ năm 2016. Nhu cầu dệt may
tăng kéo theo sự tăng nhu cầu trong nhập khẩu hàng may mặc trên toàn cầu.
Ở các thị trường xuất khẩu truyền thống, tỷ trọng hàng nhập khẩu từ Việt
Nam chiếm tỷ lệ chưa cao.
- Các ngành CNHT và có liên quan ngành hàng dệt may
+ Lĩnh vực sợi - dệt - nhuộm: do thiếu liên kết và chất lượng chủng loại
sợi chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp dệt may hàng cao cấp dẫn
đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu của ngành sợi. Hiện số doanh nghiệp dệt,
nhuộm chênh lệch rất lớn với số doanh nghiệp may. Doanh nghiệp may
chiếm tới 70% tổng số doanh nghiệp ngành dệt may. Trong khi cụm công
nghiệp dệt may ít, quy mô lại nhỏ lẻ nên chi phí sản xuất cao.
+ Các ngành liên quan đến ngành dệt may. Về mặt lý thuyết, ngành dệt
may phải kết nối chặt chẽ với một số ngành liên quan gần gũi như máy móc
và thiết bị dệt may, hóa chất, thời trang, da giày, nội thất… Song thực tế cho



14

thấy những mối liên kết này nhìn chung rất lỏng lẻo, thậm chí trong một số
trường hợp hầu như không có liên kết.
+ Dịch vụ hỗ trợ dệt may: Chi phí logistic cao, so với Thái Lan cao hơn
6%, Trung Quốc 7%, Malaysia 12% và cao gấp 3 lần Singapore. Thời gian
sản xuất hàng may mặc xuất khẩu vẫn dài do thủ tục hải quan còn nhiều bất
cập; Thị trường chứng khoán ở Việt Nam vẫn chưa trở thành kênh huy động
vốn hiệu quả cho ngành dệt may. Nguồn vốn chính của các doanh nghiệp dệt
may chủ yếu đến từ vốn vay, thể hiện qua đòn bảy tài chính trung bình lên tới
2,6%.
+ Hợp tác và liên kết giữa ngành dệt may với các viện nghiên cứu, trường
và cơ sở đào tạo nghề rời rạc, chưa chặt chẽ.
+ Kết nối giữa doanh nghiệp và các hiệp hội lỏng lẻo. Số lượng hội viên
trong các hiệp hội chưa tương xứng với số lượng doanh nghiệp trong ngành.
- Bối cảnh chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may
+ Mức độ cạnh tranh trên thị trường: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
may tương đối gay gắt. Các doanh nghiệp FDI có nhiều lợi thế cạnh tranh
hơn các doanh nghiệp trong nước nhờ quy mô sản xuất lớn và công nghệ cao
hơn.
+ Hiệp định CPTPP, EVFTA và bối cảnh cạnh tranh ngành hàng dệt may:
Được đánh giá được hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp định này, tuy nhiên hàng
dệt may đang phải đối mặt với khó khăn nhất là đáp ứng được quy định xuất
xứ của EVFTA từ vải và của CPTPP từ sợi. Việt Nam hiện đang nhập khẩu
80% nguyên phụ liệu dệt may, trong đó phần lớn nhập từ các nước ngoài
khối CPTPP, EVFTA nên rất khó được hưởng các ưu đãi của các FTA này.
- Đầu tư nước ngoài vào dệt may tăng mạnh tới gần 5 tỷ USD trong giai
đoạn 2012-2016, chủ yếu đầu tư vào các khâu sợi – dệt – nhuộm. Trong đó,
70-80% FDI đầu tư vào đến từ Trung Quốc núp bóng các công ty của Hong

Kong, Đài Loan. Các nhà đầu tư nước ngoài thường đầu tư theo chuỗi khép
kín, nên Việt Nam có rất ít khả năng tận dụng được nguồn nguyên liệu do
khu vực FDI sản xuất.
3.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu
đối với hàng điện tử xuất khẩu
- Các điều kiện của nhân tố sản xuất hàng điện tử
+ Nguồn vốn: vốn sản xuất kinh doanh của ngành điện tử tăng mạnh 6,5
lần, chủ yếu là do nguồn vốn FDI. Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là
DNVVN, quy mô vốn dưới 200 tỷ đồng (khoảng 10 triệu USD) chiếm tới
82,4%. Các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn trên 10 triệu USD hầu hết là
các doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp trong nước dù chiếm 2/3 về số lượng
nhưng số vốn đầu tư chỉ chiếm trên 10%.


15

+ Nguồn nhân lực. Ngành điện tử có khoảng 0,5 triệu lao động, trong đó
có tới 68,75% chưa có bằng cấp, chứng chỉ. Về quy mô lao động, các doanh
nghiệp điện tử trong nước có quy mô rất nhỏ, trung bình chỉ 24 nhân công so
với con số gần 630 nhân công ở các doanh nghiệp FDI, và chỉ chiếm khoảng
4% tổng số việc làm trong ngành này.
+ Công nghệ, thiết bị máy móc của ngành điện tử lạc hậu 10-20 năm so
với các nước trong khu vực và thế giới. Tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ
trong nước rất thấp, chỉ ở mức 0,2-0,3% doanh thu. Ngay cả các doanh
nghiệp điện tử lớn, tỷ lệ này cũng chỉ trên dưới 1%. Đầu tư trung bình cho
công nghệ thấp, chỉ đạt khoảng 40-50 triệu USD/nhà máy có quy mô lớn.
Trong khi, việc chuyển giao công nghệ trong ngành điện tử những năm qua
không như mong muốn về cả số lượng lẫn chất lượng do các doanh nghiệp
trong nước hạn chế về các nguồn lực không đủ khả năng tiếp nhận.
- Các điều kiện về cầu hàng điện tử

+ Thị trường trong nước: Nhu cầu tiêu thụ nội địa đối với những sản
phẩm điện tử, điện lạnh tăng nhanh. Song thách thức mà ngành điện tử Việt
Nam gặp phải là áp lực cạnh tranh từ các sản phẩm nhập khẩu vì theo cam
kết của các FTA, thuế suất sẽ giảm dần về 0% cho hàng loạt mặt hàng nhập
khẩu từ những nước cùng là thành viên FTA của Việt Nam. Các hãng điện tử
lớn đầu tư vào Việt Nam như Sanyo, Sony, JVC, LG, Samsung… đã lần lượt
khai thác và chiếm lĩnh toàn bộ thị trường điện tử phổ thông.
+ Nhu cầu thế giới về hàng điện tử vẫn tiếp tục tăng trưởng ổn định. Mặt
khác, các FTA thế hệ mới đang mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu, song cơ hội
này đang nghiêng hẳn về các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong
nước chỉ chiếm một phần rất nhỏ.
- Các ngành CNHT và liên quan ngành hàng điện tử
+ CNHT điện tử chậm phát triển: Khả năng cung ứng nội địa các linh kiện
điện tử của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay rất thấp, 77% linh kiện phải
nhập khẩu. Việc thiếu các nhà cung cấp phụ trợ khiến cho Việt Nam không
thể trở thành nhà cung ứng linh kiện cho các tập đoàn lớn, các nhà sản xuất
phụ trợ lớp 2, 3 cho công nghiệp điện tử hầu như không có.
+ Dịch vụ hỗ trợ: Chi phí logistics cao. Dựa trên khối lượng hàng điện tử
vận chuyển và luân chuyển, chi phí logistics của Việt Nam năm 2016 trung
bình là 16,8%, trong khi chi phí trung bình ở khu vực là 12,7%; Thủ tục hành
chính và hải quan còn nhiều hạn chế khiến thời gian thông quan hàng hóa
kéo dài làm phát sinh chi phí và thời gian xuất khẩu; Các doanh nghiệp trong
nước vẫn phải đi vay ngân hàng với lãi suất cao.
+ Liên kết hợp tác giữa các trường, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp ở Việt
Nam còn hạn chế về số lượng, chất lượng đào tạo; nghiên cứu khoa học,


16

chuyển giao công nghệ còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự thay đổi của nền

kinh tế.
+ Nghiên cứu và phát triển: Về tính ứng dụng của các hoạt động R&D
điện tử ở Việt Nam rất thấp do hạn chế hỗ trợ về nguồn nhân lực, tiềm lực
kinh tế, những ưu đãi về đầu tư, và chưa có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
+ Kết nối giữa doanh nghiệp và các hiệp hội yếu do những hỗ trợ của các
hiệp hội điện tử chưa đáp ứng các nhu cầu của doanh nghiệp. Hiện số doanh
nghiệp điện tử xuất khẩu tham gia các Hiệp hội mới chỉ chiếm 51%.
- Bối cảnh chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp
+ Mức độ cạnh tranh trên thị trường: Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong nước hạn chế hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp FDI. Cán
cân kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp nội địa có sự chênh lệch quá lớn cho thấy vai trò của doanh nghiệp
trong nước rất mờ nhạt, thiếu sức cạnh tranh.
+ Hiệp định EVFTA và CPTPP và bối cảnh cạnh tranh. Các hiệp định này
đang mở ra cơ hội để các doanh nghiệp điện tử nội địa có thể trở thành các
nhà cung ứng trong CGT toàn cầu. Song bên cạnh đó cũng xuất hiện các
thách thức khác do thiếu các nhà cung ứng linh phụ kiện gây khó khăn trong
việc đáp ứng quy tắc xuất xứ của các FTA thế hệ mới. Điều này có thể khiến
các nhà đầu tư sẽ phải cân nhắc và có thể chuyển địa điểm đầu tư sang các
nước khác khi thời gian ưu đãi kết thúc ở Việt Nam.
- Đầu tư nước ngoài vào ngành điện tử. Thời gian qua sự phát triển của
ngành điện tử Việt Nam chủ yếu do thu hút được sự đầu tư lớn từ các tập
đoàn lớn từ Hàn Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên, FDI đầu tư vào Việt Nam chủ
yếu vẫn là các công xưởng lắp ráp điện tử nhằm tận dụng nguồn nhân công
dồi dào, chi phí thấp, và các ưu đãi về thuế, đất đai, chưa tổ chức tham gia
sâu vào CGT. Các doanh nghiệp nội địa không thể kết nối được với doanh
nghiệp FDI để trở thành các nhà cung ứng cấp 2, 3 nên không tận dụng được
tính lan toả của FDI về tri thức, công nghệ và năng suất lao động.
3.4. Đánh giá thực trạng năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng dệt may và điện tử

3.4.1. Đánh giá thực trạng năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng dệt may
- Những kết quả đạt được
Thứ nhất, hàng dệt may Việt Nam có khả năng tham gia vào CGT toàn
cầu.
Thứ hai, tận dụng được lợi thế so sánh trong việc đa dạng hóa sản phẩm
dệt may để tham gia vào CGT toàn cầu.
Thứ ba, hàng dệt may Việt Nam tham gia vào CGT toàn cầu ở khâu sản
xuất may là chủ yếu.


17

Thứ tư, một số yếu tố thuộc về thể chế môi trường kinh doanh đã góp
phần thúc đẩy năng lực tham gia vào CGT toàn cầu đối với hàng dệt may.
- Những hạn chế và nguyên nhân:
Thứ nhất, năng lực tham gia công đoạn thiết kế của các doanh nghiệp còn
thấp do đầu tư cho công đoạn thiết kế không cao, nhân lực thiết kế của các
doanh nghiệp lại vừa thiếu và yếu do thiếu sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa
các trung tâm đào tạo thiết kế, cơ sở R&D thời trang với các doanh nghiệp
sản xuất dệt may để cùng tạo ra bản sắc riêng cho ngành dệt may Việt Nam.
Thứ hai, năng lực cung ứng nguyên phụ liệu yếu, đặc biệt ở khâu dệt -innhuộm-hoàn tất, do: i) Sự mâu thuẫn trong chính sách của Nhà nước; ii) Hỗ
trợ doanh nghiệp của nhà nước thấp; iii) Các doanh nghiệp dệt, nhuộm trong
nước hạn chế về vốn, công nghệ, mặt bằng sản xuất; iv) Thiếu trầm trọng đội
ngũ nhân lực quản lý và nhân lực kỹ thuật trình độ cao cho ngành dệt,
nhuộm; v) Thiếu vắng cụm ngành công nghiệp dệt may, và thiếu sự hợp tác
và liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp.
Thứ ba, năng lực tham gia phân phối xuất khẩu chưa phát triển và phụ
thuộc phần lớn vào người mua nước ngoài. Do hầu hết các nhà bán lẻ chỉ chú
ý nhập hàng ở các nhà máy có quy mô 1.000 lao động trở lên, trong khi phần

lớn doanh nghiệp dệt may Việt Nam là DNVVN cả về quy mô vốn và lao
động.
Thứ tư, năng lực tham gia hoạt động marketing mới chỉ phát triển ở trong
nước, phần marketing ở nước ngoài vẫn còn nhiều hạn chế do: i) các doanh
nghiệp hạn chế về năng lực tài chính và nguồn nhân lực marketing; ii) Việc
xây dựng thương hiệu của dệt may Việt Nam chưa vươn ra khu vực và thế
giới; iii) Chưa tận dụng được các cơ hội do các FTA đem lại để mở rộng thị
trường xuất khẩu; iv) Mới chỉ tập trung cạnh tranh xuất khẩu các sản phẩm ở
phân khúc thị trường cấp trung và cấp thấp.
3.4.2. Đánh giá thực trạng năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng điện tử
- Những kết quả đạt được
Thứ nhất, hàng điện tử Việt Nam có khả năng tham gia vào CGT toàn
cầu.
Thứ hai, tận dụng được lợi thế về lao động để tham gia vào khâu lắp ráp
trong CGT điện tử toàn cầu.
Thứ ba, năng lực thiết kế được cải thiện với sự xuất hiện của sản phẩm vi
mạch do chính trong nước thiết kế và sản xuất.
Thứ tư, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện đã hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành điện tử, góp phần tạo lập năng lực tham
gia vào chuỗi cung ứng điện tử toàn cầu.
- Những hạn chế và nguyên nhân


18

Thứ nhất, năng lực cung ứng nguyên phụ liệu yếu kém nên khó có khả
năng trở thành nhà cung ứng toàn cầu. Do: i) Thời điểm ban hành những
chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ điện tử chưa cụ thể, và thực tiễn; ii)
Các chính sách ưu đãi chưa phù hợp; iii) Khả năng liên kết với doanh nghiệp

FDI kém nên chưa tận dụng được sự lan tỏa của FDI về chuyển giao công
nghệ.
Thứ hai, mới chỉ có khả năng tham gia ở công đoạn có vị thế thấp trong
CGT toàn cầu. Do phần lớn là các DNVVN nên các doanh nghiệp Việt Nam
phổ biến áp dụng kiểu sản xuất môđun, tức là mô hình sản xuất với các linh
kiện được lắp ghép theo nhiều cách nhằm sản xuất ra những sản phẩm đơn
giản trong thời gian ngắn. Mô hình sản xuất này khiến các doanh nghiệp
thiếu động lực để cải thiện công nghệ sản xuất các sản phẩm điện tử có giá trị
gia tăng cao.
Thứ ba, năng lực đa dạng hóa thị trường và sản phẩm so với các nước
trong khu vực chưa cao. Do: i) Cơ cấu sản phẩm trong ngành đang nghiêng
về điện tử tiêu dùng; ii) Khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao; iii)
Chưa tận dụng được các ưu đãi từ các FTA để mở rộng thị trường; iv) Tỷ
trọng xuất khẩu thấp hơn nhu cầu nhập khẩu của thế giới đối với nhóm mặt
hàng điện tử đó.
Thứ tư, các doanh nghiệp điện tử có quy mô sản xuất nhỏ chưa đủ năng
lực tham gia sâu vào CGT toàn cầu. Do các doanh nghiệp hạn chế về vốn,
công nghệ… chưa đáp ứng được các yêu cầu của các tập đoàn điện tử lớn
trên thế giới, thiếu những doanh nghiệp điện tử mạnh có sức cạnh tranh cao.
3.4.3. Các vấn đề cần giải quyết để nâng cao năng lực tham gia CGT
dệt may và điện tử toàn cầu
Như vậy, hàng dệt may và điện tử Việt Nam có khả năng tham gia và đã
bước đầu tạo được chỗ đứng trong CGT toàn cầu. Tuy nhiên, năng lực tham
gia sâu vào CGT dệt may và điện tử toàn cầu có giá trị gia tăng cao của Việt
Nam thấp và hạn chế, mới chỉ tập trung tham gia ở khâu gia công, lắp ráp do
có lợi thế về lao động chi phí thấp, nhưng lợi thế này đang có xu hướng giảm
dần. Mặc dù ngành dệt may là ngành thâm dụng lao động, có rào cản gia
nhập ngành thấp; ngành điện tử là ngành thâm dụng vốn và công nghệ, song
đến nay cả 2 ngành này đều đang gặp phải các vấn đề tương tự khi tham gia
vào CGT toàn cầu. Đó là:

Thứ nhất, hàng dệt may và điện tử Việt Nam có năng lực cạnh tranh thấp,
năng lực tham gia sâu vào CGT toàn cầu rất hạn chế.
Thứ hai, hàng dệt may và điện tử Việt Nam đã và đang gặp phải những
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, gây trở ngại cho việc nâng cao
năng lực tham gia vào CGT toàn cầu.


19

Thứ ba, cơ chế chính sách chưa đủ mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh
nhằm thúc đẩy tham gia vào CGT sản phẩm toàn cầu.
Chương 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ
TOÀN CẦU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM
4.1. Quan điểm phát triển ngành dệt may và điện tử
4.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước
Quá trình toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác
động nhất định đến quá trình tái cơ cấu nguồn nhân lực, trong đó, việc phân
công lại lao động quốc tế khi tham gia vào CGT toàn cầu là một tất yếu
khách quan. Một xu hướng xuất hiện thời gian gần đây là sự chuyển dịch các
“công xưởng thế giới” từ các nước đang phát triển trở về các nước phát triển
và sang các khu vực mới phát triển khác. Việc tham gia vào CGT toàn cầu đã
trở thành yêu cầu cấp bách đối với các nền kinh tế. Cuộc cạnh tranh giữa các
quốc gia đang có xu hướng được thay thế bởi cuộc cạnh tranh tham gia vào
chuỗi cung ứng, CGT toàn cầu.
Ảnh hưởng của toàn cầu hóa, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới với việc tích cực đàm phán, ký kết và thực thi các FTA
song phương, đa phương và khu vực như TPP, EVFTA, RCEP Liên minh
kinh tế Á - Âu.... Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt

Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng có nhiều cơ hội để tham gia
vào CGT toàn cầu thu hút FDI, mở rộng thị trường, thúc đẩy phát triển xuất
khẩu hàng hóa. Việt Nam hiện được coi như một điểm đến, như một công
xưởng uy tín và được nhiều nhà đầu tư trên thế giới đánh giá cao, cho rằng
rất có tiềm năng phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ phải đối diện với
nhiều thách thức khi phải đối đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn từ
những thị trường tương đồng trong khu vực; phải đối diện với những rào cản
kỹ thuật bởi các FTA thế hệ mới, và đứng trước những thách thức to lớn
trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như là thay đổi quy
trình, công nghệ sản xuất, phương thức phân phối, logistics, đặc biệt là robot
hóa và tự động hóa sẽ dẫn tới một số công đoạn sản xuất bị thay thế bởi máy
móc, hoặc một số doanh nghiệp FDI có thể đưa nhà máy hay một số công
đoạn trở về nước mình sản xuất dẫn tới tình trạng mất việc làm trong ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động - khi đó lao động cũng không còn là lợi
thế của Việt Nam.
4.1.2. Quan điểm phát triển ngành dệt may và điện tử của Việt Nam
- Quan điểm phát triển ngành dệt may


20

Theo Quyết định số 3218/2014/QĐ-BCT về việc Phê duyệt Quy hoạch
phát triển ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030, công nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phát triển theo các quan
điểm chính: (1) Chuyển mạnh sản xuất từ gia công sang mua nguyên liệu,
bán thành phẩm, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu; (2)
Lấy xuất khẩu làm phương thức cơ sở cho sự phát triển của ngành, đồng thời
đáp ứng tối đa nhu cầu nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm
CNHT, sản xuất nguyên phụ liệu, nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm
trong ngành; (3) Phát triển ngành gắn với bảo vệ môi trường và chuyển dịch

lao động. Phát triển các khu, cụm công nghiệp hợp lý; (4) Phát triển nguồn
nhân lực cho ngành cả về số lượng và chất lượng; (5) Huy động các nguồn
lực để đầu tư phát triển dệt may, kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào những lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong nước còn yếu và thiếu kinh
nghiệm.
- Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển ngành điện tử
Theo Quyết định 1290/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động phát triển ngành
công nghiệp điện tử thực hiện Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam
trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm
nhìn 2030. Theo Kế hoạch này, công nghiệp điện tử Việt Nam phát triển theo
quan điểm sau: (1)Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp điện tử của Việt
Nam trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực; (2) Tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư và tăng cường hiệu quả
FDI; thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mô hình quản lý, nghiên cứu - phát
triển, đào tạo nhân lực và thị trường; (3) Chú trọng phát triển công nghiệp
phụ trợ, kết hợp sản xuất linh kiện, phụ tùng và các sản phẩm điện tử trọng
điểm; (4) Cần triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp hỗ trợ, bao gồm:
thực hiện cam kết ưu tiên thúc đẩy phát triển công nghiệp điện tử; ưu đãi
thuế, hỗ trợ tín dụng cho công nghiệp điện tử và công nghiệp hỗ trợ liên
quan; đào tạo và phát triển đội ngũ nhân lực đông đảo, có kỹ năng và chất
lượng; xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường, tạo thuận lợi thúc đẩy
phân phối, lưu thông sản phẩm sản xuất tại Việt Nam.
4.1.3. Quan điểm của luận án về phát triển ngành dệt may và điện tử
theo cách tiếp cận chuỗi giá trị
Từ cách tiếp cận CGT, luận án xin đưa ra một số quan điểm phát triển đối
với 2 ngành này như sau: 1) Phát triển ngành dệt may và điện tử theo hướng
nâng cấp công nghiệp – nâng cấp CGT. 2) Lấy giá trị gia tăng làm mục tiêu,
đồng thời là thước đo cho sự phát triển của ngành. 3) Cân đối lợi ích của việc
phát triển ngành với bảo vệ môi trường. 4) Tận dụng tối đa cơ hội và thu hút
các nguồn lực (trong và ngoài nước) để nâng cấp CGT. 5) Ưu tiên phát triển

chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho nâng cấp CGT.


21

4.2. Các giải pháp nâng cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
4.2.1. Các giải pháp chính sách chung
Để nâng cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng dệt may và
xuất khẩu trong điều kiện hiện nay, cần xây dựng và hoàn thiện một số chính
sách sau:
- Đổi mới tư duy trong xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt may và
điện tử sang xây dựng chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
ngành công nghiệp mũi nhọn.
- Cơ chế chính sách phát triển CNHT cần rõ ràng, có trọng tâm. Cần tập
trung thực hiện chương trình phát triển CNHT dựa trên 3 trụ cột chính là:
Tăng cường và hợp lý hóa các cơ chế thể chế và điều hành chính sách công
nghiệp; Hỗ trợ trao đổi thông tin và phối hợp giữa các doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài; Cần thiết kế và triển khai chương trình phát triển nhà
cung cấp theo nhu cầu nhằm nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước ở
những ngành quan trọng có tiềm năng liên kết lớn.
- Hình thành cụm ngành và phát triển các liên kết trong CGT. Các chính
sách về phát triển cụm ngành nên là những chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ
để các doanh nghiệp trong cụm nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh. Các nghị quyết về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường và phát triển kinh tế tư nhân cần được cụ thể hóa
qua các chỉ tiêu định lượng, đồng thời ràng buộc trách nhiệm đối với tất cả
các cấp chính quyền và người đứng đầu. Cần đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác
giữa Chính phủ và các doanh nghiệp tư nhân.
- Các chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp

tham gia vào CGT toàn cầu: Tăng cường hỗ trợ cho hệ thống logistics, công
tác xúc tiến thương mại, xây dựng và phát triển thương hiệu.
- Chính sách thu hút FDI: Thu hút FDI có chọn lọc; Điều chỉnh chính sách
ưu đãi đối với dự án FDI theo hướng gắn với hiệu quả kinh tế - xã hội của
quá trình phát triển từng vùng kinh tế, từng địa phương; Coi trọng chính sách
kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước.
4.2.2. Giải pháp nâng cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng dệt may
- Các giải pháp phát triển CNHT dệt may: Hình thành cụm ngành dệt
may quy mô lớn, lấy cụm ngành làm trung tâm để phát triển ngành CNHT;
Phát triển nguồn nhân lực thông qua gắn kết chương trình đào tạo nhân lực
của địa phương với nguồn nhân lực quốc gia trong lĩnh vực CNHT; Thu hút
FDI có chọn lọc, và thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp.
- Các giải pháp cho khâu sản xuất may: Thúc đẩy dịch chuyển lên
phương thức sản xuất cao hơn, trong đó dịch chuyển sang xản xuất trọn gói


22

ODM là cách đúng đắn mang lại hiệu quả tốt nhất; Đầu tư cho nghiên cứu và
thiết kế qua đầu tư phát triển các học viện nghiên cứu và phát triển nhân lực
thiết kế ngành dệt may.
- Các giải pháp phát triển thị trường và sản phẩm dệt may: Tạo thuận lợi
để các doanh nghiệp có thể tận dụng triệt để các ưu đãi của FTA để mở rộng
thị trường xuất khẩu; Thực hiện tốt công tác tổ chức nghiên cứu thị trường,
xúc tiến thương mại; Tập trung phát triển thị trường dệt may nội địa; Nâng
cao chất lượng sản phẩm qua việc đảm bảo nguyên phụ liệu đáp ứng được
yêu cầu về chất lượng của sản phẩm; đẩy mạnh việc áp dụng các hệ thống
quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế; Khuyến khích và hỗ trợ đầu tư cho KHCN
để làm ra sản phẩm có giá trị cao, xây dựng sản phẩm có thương hiệu mới.

- Các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh của CGT dệt may: Tăng
năng suất lao động qua việc khuyến khích áp dụng KHCN và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
hiện nay; Giảm chi phí logistics: giảm lệ phí ở các trạm BOT cho phù hợp;
khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu nguyên phụ liệu theo điều kiện FOB;
kết hợp xuất nhập khẩu hàng đi và về để tiết kiệm chi phí và thời gian vận
chuyển.
4.2.3. Giải pháp nâng cao năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với
hàng điện tử
- Các giải pháp phát triển CNHT điện tử: Hình thành cụm ngành điện tử
qua việc huy động các nguồn vốn từ ngân sách trung ương và địa phương,
vốn viện trợ quốc tế; Thu hút FDI có chọn lọc và có các chính sách thúc đẩy
liên kết giữa các doanh nghiệp; - Tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp
sản xuất CNHT điện tử; Tăng cường vai trò của các hiệp hội trong kết nối
giữa các doanh nghiệp.
- Các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị điện tử: Tăng cường đầu tư cho
phát triển KHCN và R&D, đồng thời tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thương hiệu và khai thác sáng chế trong
nước; Chuyển dịch cơ cấu sản xuất qua các chính sách hỗ trợ quá trình
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng nâng cao năng suất, hỗ trợ đào tạo
nhân lực, tăng cường năng lực công nghệ…
- Các giải pháp phát triển thị trường: Phát triển thị trường nội địa qua
việc xây dựng cơ chế khuyến khích các tổ chức, cơ quan nhà nước sử dụng
các sản phẩm điện tử sản xuất trong nước; Khuyến khích nâng cao chất
lượng sản phẩm điện tử gia dụng kết hợp với chính sách ưu đãi thuế của
chính phủ để giảm giá thành, cải thiện mẫu mã, giúp sản phẩm tiếp cận tốt
hơn với thị trường trong nước; Hỗ trợ xúc tiến thương mại và xây dựng
thương hiệu.



23

- Các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh của CGT điện tử: Có các
chính sách tăng cường kết nối để thúc đẩy năng suất chất lượng; Hỗ trợ đào
tạo phát triển nguồn nhân lực; Chính sách hỗ trợ tín dụng thông qua các Quỹ
phát triển DNVVN, Quỹ phát triển KHCN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ
quốc gia, và các quỹ khác theo quy định của pháp luật.
KẾT LUẬN
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong
xuất khẩu hàng hóa ra thị trường thế giới. Đến nay xuất khẩu hàng điện tử và
dệt may đã có chỗ đứng quan trọng trên thị trường thế giới và khu vực. Tuy
nhiên, năng lực tham gia vào CGT toàn cầu của các doanh nghiệp dệt may và
điện tử còn rất hạn chế, chủ yếu là gia công và lắp ráp nên giá trị gia tăng thu
được của chúng còn rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
và còn kém xa so với tiềm năng và lợi thế của Việt Nam. Điều này ảnh
hưởng tiêu cực tới sự phát triển bền vững xuất khẩu hàng dệt may và điện tử
trong tương lai. Vì vậy việc nghiên cứu, xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém,
phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế, tăng cường năng lực tham gia vào các
công đoạn có giá trị gia tăng cao trong CGT dệt may và điện tử toàn cầu
nhằm gia tăng giá trị trong thời gian tới là hết sức cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng đối với phát triển bền vững ngành dệt may và điện tử của Việt
Nam.
Qua nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam – hàng dệt may và điện tử”, luận
án đã đạt được các kết quả sau:
- Dựa trên tổng quan các tài liệu nghiên cứu, luận án đã đưa ra khái niệm
riêng có về năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất khẩu theo
hướng tiếp cận kết hợp phân tích CGT và lợi thế cạnh tranh của M. Porter để
phù hợp với sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Qua cách

tiếp cận này, luận án xác định các tiêu chí đánh giá, và các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn cầu đối với hàng xuất khẩu, hình
thành khung khổ lý thuyết làm cơ sở cho các phân tích, đánh giá về thực
trạng năng lực và những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tham gia CGT toàn
cầu đối với hàng dệt may và điện tử xuất khẩu của Việt Nam.
- Luận án đã lựa chọn nghiên cứu kinh nghiệm tham gia CGT dệt may và
điện tử toàn cầu của một số nước châu Á, từ đó rút ra các bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Những bài học kinh nghiệm này được sử dụng để so
sánh phân tích thực trạng và luận giải cho những đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao năng lực tham gia CGT dệt may và điện tử toàn cầu cho các doanh
nghiệp Việt Nam.


×