Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN tác ĐỘNG của NHỮNG NHÂN tố QUỐC tế đến sự NGHỆP đổi mới của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.45 KB, 20 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG NHÂN TỐ QUỐC TẾ ĐẾN
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM
MỞ ĐẦU

Hiện nay bức tranh chung của thế giới biểu hiện ở nhiều màu sắc riêng
đan xen giữa hợp tác và đấu tranh, giữa thúc đẩy và kìm chế nhau trong một
xu thế mới – xu thế đa cực hóa ngày càng rõ rệt với nhiều hình thức quan hệ
song phương, đa phương, tạo nên sự phức tạp trong sắc màu chính trị thế giới.
Biểu hiện ngày càng rõ hơn nội dung, đặc điểm, tính chất, xu thế và những
mâu thuẫn của thời đại hiện nay.
Nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn trong xu thế
hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, những nhân tố quốc tế đang tác động
mạnh mẽ đến nước ta buộc chúng ta phải có những quyết sách đúng đắn, kịp
thời để nắm bắt thời cơ, khắc phục mặt trái của hội nhập nhằm giữ vững thể
chế chính trị đồng thời phát triển nhanh kinh tế tạo thế và lực mới trong cộng
đồng quốc tế. Để thực hiện được những mục tiêu cụ thể đó thì vấn đề nghiên
cứu những tác động của nhân tố quốc tế là vấn đề quan trọng, là điểm mấu
chốt dẫn đến thành công trong sự nghiệp đổi mới của nước ta.
NỘI DUNG

1. Những nhân tố quốc tế tác động đến Việt Nam hiện nay
Hiện nay, thế giới đang biến đổi nhanh chóng, mau lẹ và khó lường, tác
động toàn diện đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội ở nước ta, trong đó, nổi lên
những nhân tố chủ yếu là:
Một là, xu thế hình thành trật tự thế giới đa cực
Sự hình thành trật tự thế giới trong một giai đoạn lịch sử cụ thể được quy
định bởi xung lực tương tác giữa các lực lượng chính trị - xã hội trên thế giới.
Do đó, tiềm lực sức mạnh tổng hợp của mỗi chủ thể và sự tham gia vào đời sống
quốc tế của nó là nhân tố trực tiếp tạo nên kết quả tổng hoà trong tương quan so

1




sánh lực lượng giữa các chủ thể. Đồng thời, chính tương quan so sánh lực lượng
này tạo nên trạng thái cân bằng ổn định tương đối của hệ thống cấu trúc. Trong
hệ thống cấu trúc đó, các chủ thể có vị thế, vai trò và ảnh hưởng lớn hơn sẽ trở
thành những mắt khâu chủ yếu, những điểm nút các cấu trúc hệ thống quan hệ
quốc tế. Vì vậy, sự rung chuyển, đứt gãy của các điểm nút, các mắt khâu chủ yếu
sẽ gây nên sự chấn động, rung chuyển của kết cấu trật tự thế giới.
Cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chế độ XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ sau hơn 70 năm tồn tại (ở các nước Đông Âu là gần 1/2
thế kỷ). Đây là một trong những sự kiện làm rung chuyển thế giới, tác động
trực tiếp và sâu xa đến cục diện thế giới. Trật tự thế giới 2 cực với tính đối đầu
trực tiếp và phân tuyến triệt để giữa 2 lực lượng Xô, Mỹ và hai hệ thống
XHCN và TBCN, thực tế đã bị phá vỡ do sự tan rã của một cực là Liên Xô và
CNXH ở Đông Âu, thúc đẩy xu thế đa trung tâm và đa cực của trật tự thế giới
trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Trong kết cấu của hệ thống quốc tế,
trật tự thế giới hai cực đã có suy yếu, do xuất hiện và nổi lên một số lực lượng
có xu hướng hạn chế sự phụ thuộc vào Xô, Mỹ; thậm chí cạnh tranh với Xô,
Mỹ trong quan hệ quốc tế như: Nhật Bản, Tây Âu, Trung Quốc…; cũng như
xu hướng độc lập tìm kiếm các quan hệ song phương hoặc đa phương trong
quan hệ Đông - Tây, dựa trên lợi ích quốc gia của các chủ thể.
Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, với tham vọng bá chủ thế giới và
với tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự của một siêu cường duy nhất, Mỹ coi
đây là thời cơ thuận lợi nhất để thực hiện giấc mơ bá chủ thế giới, có thể sắp
đặt và điều khiển thế giới theo ý muốn của Mỹ. Ở thập kỷ cuối cùng của thế
kỷ XX, những âm mưu và hành động của Mỹ đã cho thấy, Mỹ không hề dấu
diếm tham vọng đó. Dư luận thế giới đã có sự lo ngại, trật tự thế giới hình
thành theo xu hướng một cực do Mỹ khống chế.
Thực tế cho thấy, hiện nay, Mỹ vẫn có tiềm lực rất mạnh, vẫn có khả năng
nhất định khuyếch trương bạo lực, dùng áp lực kinh tế, chính trị, quân sự áp đặt

2


ý đồ của Mỹ với các dân tộc, buộc các đồng mình cùng Mỹ bao vây, cấm vận,
can thiệp, thậm chí tiến hành chiến tranh, hòng thực hiện vai trò lãnh đạo của
Mỹ. Tuy nhiên, những năm gần đây thực tiễn cục diện thế giới đã chứng tỏ rõ
ràng rằng, Mỹ khó có thể thực hiện được tham vọng đó. Trong những thập niên
tới, xu thế đa trung tâm, đa cực ngày càng mạnh hơn, làm hạn chế sức mạnh
của Mỹ, kìm hãm thực hiện giấc mộng thống trị thế giới của Mỹ .
Hai là, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, ngày càng trở
nên cấp thiết và là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc.
Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, các
quốc gia dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển tiếp tục dành ưu tiên
hàng đầu cho lợi ích quốc gia dân tộc để tăng cường sức mạnh và nâng cao vị
thế trên trường quốc tế. Chính phủ và nhân dân tiến bộ trên thế giới không
ngừng nỗ lực bảo vệ và duy trì môi trường hoà bình, ổn định. Hoà bình và ổn
định là nhân tố quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là phát
triển kinh tế, xã hội. Thực tế đã chỉ ra rằng những nước bị ảnh hưởng bởi chiến
tranh, mất ổn định về chính trị thì nền kinh tế ngày càng xấu đi và đời sống của
nhân dân sẽ gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, để duy trì hoà bình, ổn định,
ngăn ngừa chiến tranh, các quốc gia cần xây dựng một thế giới công bằng, dân
chủ, bình đẳng và tiến bộ, trong đó, Liên Hợp quốc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo,
là trung tâm điều phối hoạt động giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế.
Trong xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, mọi quốc gia đều có điều
kiện tăng cường hợp tác trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu, đó là
những vấn đề không thể giải quyết trong phạm vi hẹp mà nó đòi hỏi sự hợp
tác của tất cả các quốc gia trên thế giới. Cũng trong xu thế này, các nước
muốn phát triển đều tìm cách mở cửa thị trường, nguồn vốn đầu tư, chuyển
giao công nghệ, tham gia sâu rộng vào phân công lao động quốc tế, xây dựng
mối quan hệ các bên cùng có lợi. Có thể khẳng định đây là xu thế tiếp tục phát


3


triển mạnh mẽ trong giai đoạn tới, bởi vì các quốc gia đều nhận thấy không
thể phát triển kinh tế- xã hội bằng cách xây dựng nền kinh tế khép kín, tự cô
lập trong một nước, thậm chí một nhóm nước.
Thế kỷ XXI, tiếp tục diễn ra quá trình phát triển lực lượng sản xuất
mạnh mẽ, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ hiện đại, biểu hiện ở hàm
lượng tri thức chiếm tỷ lệ chủ yếu trong giá trị các sản phẩm và sự dịch
chuyển của khu vực chế tạo sang khu vực dịch vụ với những đặc điểm mới.
Các quốc gia đều tìm cách nắm lấy những tri thức mới nhất của nhân loại, sản
phẩm của nền kinh tế tri thức là những thành quả của việc nghiên cứu, ứng
dụng những công nghệ mới, các nguồn năng lượng mới sẽ được khám phá và
thay thế cho những nguồn năng lượng hiện có và đang dần cạn kiệt; các vật
liệu mới ra đời, các chất siêu dẫn, siêu cứng, siêu bền sẽ thay thế cho các vật
liệu truyền thống; công nghệ thông tin, công nghệ vi sinh, công nghệ gen sẽ
tiếp tục phát triển mạnh mẽ; không gian của sự phát triển kinh tế sẽ được mở
rộng đến vũ trụ và đáy đại dương.
Hiện nay, toàn cầu hoá tiếp tục là xu thế khách quan, là một quá trình
tất yếu. Nó diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng trước hết và
chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy nhanh, mạnh,
diễn ra cả bề rộng lẫn chiều sâu sự phát triển và xã hội hoá của lực lượng sản
xuất, đem lại sự phát triển kinh tế cao và năng động. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra sự
truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những phát minh, những
thành quả mới, những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ hiện đại, về
tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm
đến mọi quốc gia. Một điều không thể phủ nhận là toàn cầu hoá thúc đẩy sự
xích lại gần nhau hơn của các dân tộc, kích thích các luồng và các dạng giao
lưu, từ cá thể con người đến các quốc gia trở nên gần gũi nhau hơn, có thể kịp

thời nắm bắt tình hình và các sự kiện đang diễn ra. Toàn cầu hoá góp phần

4


nâng cao dân trí và trình độ hiểu biết của mỗi cá nhân, sự tự khẳng định mình
của các dân tộc, các quốc gia và con người.
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng sẽ đưa đến
những thách thức to lớn, diễn biến ở nhiều góc độ và nhiều cấp độ phức tạp
như: sự gia tăng các rủi ro về kinh tế (khủng hoảng kinh tế tài chính, tiền tệ,
năng lượng, lương thực, chứng khoán, suy thoái kinh tế, sự sụt giảm thương
mại toàn cầu, những mâu thuẫn giữa kinh tế xã hội và chính trị xã hội).
Những thách thức này là nhân tố hạn chế tính độc lập chủ quyền của các quốc
gia, chịu sự phụ thuộc và ảnh hưởng của các nước lớn và các trung tâm kinh
tế, gây tác động đến sự phát triển bền vững của các quốc gia dân tộc. Trong
quá trình toàn cầu hoá, người mạnh sẽ thu được nhiều lợi ích hơn, người yếu
sẽ bị thua thiệt hơn. Những quốc gia có tiềm lực lớn, có thuận lợi trong cạnh
tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác triệt để quá trình toàn cầu hoá và cài đặt
các lợi ích của họ. Các quốc gia phát triển chậm hơn không thể bị động theo
sau, cũng không thể tham gia quá trình toàn cầu hoá bị động và vô vọng được.
Ba là, tình hình thế giới tiếp tục có những diến biến phức tạp, khó lường.
Những cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ ly khai, hoạt
động khủng bố, tranh chấp về biên giới lãnh thổ, biển đảo và tài nguyên thiên
nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Những năm gần đây, quan hệ dân tộc trên thế giới rất nóng bỏng, vừa
mang tính toàn cầu, vừa là vấn đề xã hội phức tạp nhức nhối của nhiều quốc
gia và khu vực. Mối quan hệ dân tộc, sắc tộc đã và đang bùng nổ thành các
cuộc xung đột, chiến tranh ở những quy mô, phạm vi và cường độ khác nhau;
tạo ra các điểm nóng, gây nên tình hình mất ổn định, đe doạ hoà bình, an ninh

quốc gia và quốc tế.
Trong đời sống quốc tế và đời sống xã hội ở nhiều quốc gia, vấn đề dân tộc
sắc tộc là mối quan ngại của các cộng đồng quốc tế và của các lực lượng xã hội.
5


Hiện nay và những năm tới, mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn còn diễn ra
ở khắp các châu lục. Ở Châu Âu, mặc dù đang diễn ra quá trình hình thành liên
minh Châu Âu (EU) với sự nhất thể hoá về kinh tế, chính trị, tiền tệ... song
xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn bùng nổ ở nhiều nơi. Ở Châu Á, điển hình là chủ
nghĩa ly khai ở Trécnhia, đòi tách Trécnhia ra khỏi Liên bang Nga; phong trào
đòi độc lập cho người Cuốc ở IRắc, Thổ Nhĩ Kỳ để thành lập nhà nước
Kuốcđixtan; cuộc chiến ác liệt ở Ápganixtan liên quan đến các bộ tộc Pattum,
Uzơbếch, Tazích, Hazrar; cuộc xung đột giữa Ixraen với Palextin; phong trào
đòi ly khai ở Tây Tạng do Đại Lai Lạt Ma theo đuổi; tranh chấp dẫn đến xung
đột giữa Ấn Độ và Pakixtan ở Casơmia; vấn đề Axê ở Inđônêxia; phong trào
hồi giáo Môrô ở Philippin; xung đột ở các tỉnh miền Nam Thái Lan; vấn đề nhà
nước tự xưng IS; tranh chấp chủ quyền ở biển Đông giữa các quốc gia. Ở Châu
Phi, đã từng diễn ra các cuộc thanh lọc lẫn nhau giữa người Hutu và Tutxi ở
Uganđa, Bunrundi; phong trào Hồi giáo cực đoan ở Angiêri, Xuđăng, Ai Cập;
cuộc chiến tranh giữa Êrơtêria và Êtiôpia... Còn ở Châu Mỹ và Châu Đại
Dương đó là mâu thuẫn, xung đột giữa người gốc Âu với thổ dân. Ngay ở
Canađa cũng diễn ra va chạm giữa cộng đồng người nói tiếng Pháp và cộng
đồng người nói tiếng Anh.v.v...
Các hình thức xung đột dân tộc, sắc tộc rất đa dạng; xung đột mâu thuẫn
quyền lực chính trị giữa các phe phái; xung đột về tranh chấp lãnh thổ, biên
giới giữa các dân tộc; đối đầu, cạnh tranh quyết liệt giữa các tôn giáo hoặc giữa
các giáo phái khác nhau trong cùng một tôn giáo; tranh chấp về quyền lợi kinh
tế, quản lý và khai thác tài nguyên; xung đột do phân biệt chủng tộc.v.v
Bốn là, các vấn đề toàn cầu gay gắt, các cuộc khủng hoảng tài chính,

năng lượng, lương thực diễn ra với quy mô lớn, gây nên hậu quả lâu dài.
Chưa bao giờ vấn đề toàn cầu lại diễn ra gay gắt như hiện nay, đòi hỏi
trách nhiệm của mỗi quốc gia và sự hợp tác của cả cộng đồng quốc tế. Đó là
sự nóng lên của trái đất, tình trạng ô nhiễm môi trường, đại dịch HIV/AISD
6


cùng các căn bệnh hiểm nghèo khác… Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính,
kinh tế toàn cầu năm 2008 và năm 2011 đang làm cho kinh tế thế giới và kinh
tế của các nước lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Năm 2008, trên
thế giới còn xảy ra cuộc khủng hoảng năng lượng và lương thực trên quy mô
lớn, tạo nên sự biến động chính trị- xã hội ở nhiều nước trên thế giới. Tình
hình trên cho thấy sự phát triển kinh tế thế giới chưa bền vững, chứa đựng
nhiều yếu tố bất chắc và tình trạng này còn có thể diễn ra trong những năm
tới. Những tác động của nó sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, năng lượng, lương thực, làm
cho ngoại giao kinh tế trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu của các nước trong
quan hệ quốc tế hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề kinh tế,
năng lượng, lương thực, nên hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho mình một
chiến lược năng lượng phù hợp, nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương do ảnh
hưởng của những biến động trên thị trường năng lượng quốc tế bằng việc bảo
đảm ổn định nguồn cung và phát triển các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là với
các nước giữ nguồn cung.
Không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế mà khủng hoảng tài chính,
năng lượng, lương thực hiện nay còn tác động không nhỏ đến độc lập tự chủ
của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Điều đó cho thấy, vấn đề an ninh năng
lượng, an ninh lương thực có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm độc lập tự chủ
của mỗi quốc gia, dân tộc cho dù đó là quốc gia lớn hay nhỏ. Thực tiễn cho
thấy, mỗi quốc gia, dân tộc muốn giữ được độc lập tự chủ thì trước hết phải

giữ được độc lập tự chủ về kinh tế, trong đó bao gồm hàng loạt vấn đề, từ độc
lập tự chủ về đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đến việc phải có một
thực lực kinh tế đủ để có thể duy trì sự phát triển của nền kinh tế đất nước
trước những biến động của thị trường thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì việc duy trì an ninh tài chính, an ninh
7


năng lượng và an ninh lương thực... là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng
để bảo đảm độc lập tự chủ thực sự về kinh tế. Bởi vậy, trước khủng hoảng
kinh tế, năng lượng, lương thực hiện nay, nhiều quốc gia, dân tộc (kể cả
những quốc gia có nền kinh tế lớn của thế giới) cũng lâm vào tình trạng phá
sản, tăng trưởng kinh tế giảm sút, đời sống dân cư gặp nhiều khó khăn do giá
nhiên liệu, lương thực, thực phẩm tăng cao, trong đó không ít quốc gia mà
khủng hoảng năng lượng, lương thực đã kéo theo khủng hoảng chính trị - xã
hội và đã làm tăng lên sự phụ thuộc của các nước này vào các nước, các khu
vực và thị trường có nguồn cung lớn. Theo đó, độc lập tự chủ trong bối cảnh
ngày nay không có nghĩa là sự "khép kín" theo kiểu "tự cung tự cấp" như
trước đây mà phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để khai thác và phát huy
lợi thế so sánh. Bối cảnh đó, đặt ra cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
cần có chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, mềm dẻo, phù hợp
với tình hình quốc tế, trong nước để một mặt bảo đảm việc phát triển kinh tế xã hội, khai thác, sản xuất, và bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh sử dụng năng
lượng, lương thực trong nước một cách bền vững, đồng thời mặt khác bảo
đảm an sinh xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn
định chính trị- xã hội của đất nước.
Năm là, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tuy còn khó khăn,
song tiếp tục hồi phục và phát triển
Ở các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu: Sau một thời gian ngắn bị tê
liệt, thậm chí bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị cấm hoạt động, từ năm 19931994 các đảng cộng sản đã sớm khôi phục, đấu tranh giành lại được quyền
hoạt động công khai, hợp pháp. Nhiều đảng đã tham gia tranh cử trong các

cuộc bầu cử Quốc hội, bầu cử Tổng thống, bầu cử địa phương ở các nước. Có
thời kỳ qua bầu cử, một số đảng đã giành được vị trí quan trọng trong quốc
hội các nước, như các đảng cộng sản ở Nga, Ucraina, Tátgikitan đã giành
được đa số ghế tại Hạ viện các nước này ở thời kỳ 1995-1999; riêng đảng của
8


những người cộng sản Mônđôva đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc
hội năm 2000, 2005 và 2009, lãnh đạo đảng được bầu làm Tổng thống. Tuy
nhiên, phần lớn các đảng ở khu vực này vẫn ở vị thế là đảng đối lập, chiếm
thiểu số trong Quốc hội. Tại nhiều nước ở khu vực này vẫn còn tình trạng
trong một nước, tồn tại nhiều đảng cộng sản, đảng công nhân (như ở Nga có
hơn 10 đảng); qua đó thấy rằng, phong trào cộng sản và công nhân ở các nước
trên đã có bước hồi phục nhưng còn khó khăn, chưa ra khỏi khủng hoảng.
Ở các nước Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ, quá trình hồi phục của các đảng cộng
sản và công nhân rất rõ. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ, nhiều đảng ở Tây Âu, Bắc Mỹ bị phân liệt, vị trí, vai trò và
ảnh hưởng bị giảm sút mạnh. Tuy nhiên, từ cuối những năm 1990 của thế kỷ
XX, các đảng đã dần lấy lại vị trí của mình, thể hiện qua việc các đảng tham
gia tranh cử và giành được sự ủng hộ của các cử tri và lập được đảng đoàn
trong Quốc hội các nước (như các đảng ở Hy Lạp, Síp, Pháp, Italia, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Thuỵ Điển, Đan Mạch...). Ở Nam Á, một số đảng
cộng sản và công nhân đã trở thành lực lượng chính trị quan trọng trên chính
trường các nước. Hai đảng cộng sản ở Ấn Độ là CPI và CPIM (Đảng Cộng
sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Ấn Độ - Mácxít) giữ vai trò nòng cốt trong Mặt
trận cánh tả đang cấm quyền nhiều năm nay ở 3 bang Tây Bengan, Kêrala và
Tripura; gần đây đã giành thắng lợi quan trọng trong bầu cử Quốc hội, hiện có
61 ghế tại Hạ viện Ấn Độ.
Ở Mỹ Latinh, mấy năm gần đây đã xuất hiện trào lưu cánh tả. Thông
qua thực tế đấu tranh và các diễn đàn quốc tế của các đảng cộng sản, cánh tả

họp hàng năm ở khu vực (“Diễn đàn Xao Paolô do Đảng Cộng sản Cu Ba,
Đảng Lao động Braxin, Đảng Cách mạng Dân chủ Mêxicô và Mặt trận rộng rãi
Urugoay phối hợp tổ chức hàng năm từ năm 1990 đến nay; hội thảo quốc tế
Các đảng chính trị và một xã hội mới do Đảng Lao động Mêhicô tổ chức hàng
năm, bắt đầu từ năm 1998; hội thảo quốc tế Toàn cầu hoá và những vấn đề của
9


sự phát triển do Đảng Cộng sản Cu Ba tổ chức hàng năm, bắt đầu từ năm 1998)
cũng như Diễn đàn xã hội thế giới với khẩu hiệu “Một thế giới tốt đẹp hơn là
có thể!”, các đảng cộng sản và cánh tả Mỹ Latinh đã làm cho quần chúng nhân
dân các nước thấy được sự cần thiết khách quan phải thực hiện những cải cách
sâu rộng, từ bỏ mô hình kinh tế chủ nghĩa tự do mới, thực hiện dân chủ và tiến
bộ xã hội...; dấy lên phong trào nhân dân mạnh mẽ đánh đổ các chính phủ cánh
hữu, đưa các lực lượng cánh tả lên cầm quyền thông qua các cuộc bầu cử, như:
các chính phủ Hugô Chavêt ở Vênzuêla (năm 1998), Lagốt ở Chilê (năm
2000), Luka Đoxinva ở Brazil (năm 2002), Kitxnơ ở Achentina (năm 2003),
Mactin Tôrigốt ở Panama (năm 2004), Tabarê Vatxkê ở Urugoay (năm 2004),
Êvô Môralet ở Bôlivia và Baselét ở Chilê (năm 2006). Có thể nói, phong trào
cánh tả ở Mỹ Latinh đang có những bước phát triển mạnh mẽ.
Các chính phủ cánh tả ở các nước Mỹ Latinh đã tiến hành các cải cách
kinh tế - xã hội sâu rộng, theo hướng từ bỏ mô hình kinh tế chủ nghĩa tự do
mới, thực hiện dân chủ hoá và kinh tế thị trường đi đôi với giải quyết các vấn
đề xã hội (như cải cách ruộng đất, xoá đói giảm nghèo, xoá nạn mù chữ, tạo
công ăn việc làm, cung cấp vốn, tín dụng cho người có thu nhập thấp, xây dựng
nhà ở cho người nghèo, hỗ trợ vốn phát triển kinh tế gia đình...; cải thiện các
lĩnh vực y tế, văn hoá cộng đồng; đấu tranh chống phân biệt màu da; điều chỉnh
một số luật theo hướng coi trọng lợi ích quốc gia và có lợi cho người lao
động .v.v.) và thu được những kết quả bước đầu tích cực: kinh tế phục hồi và có
mức tăng trưởng khá (toàn khu vực Mỹ Latinh tăng trưởng kinh tế năm 2005 là

5,5%, năm 2006 là 5,3%); chính trị đi dần vào ổn định; đời sống nhân dân được
cải thiện; tỷ lệ mù chữ giảm mạnh... Braxin và Achentina đã trả xong các khoản
nợ nhiều chục tỷ USD cho Quỹ tiền tệ quốc tế.
Phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh nổi lên một hiện tượng đặc biệt là
Vênêzuêla. Chính phủ của Tổng thống Hugô Chavêt đã lựa chọn con đường
đẩy mạnh cải cách với các bước đi ngày càng triệt để hơn, tách khỏi quỹ đạo
10


gắn với Mỹ trước đây, xích gần hơn với cách mạng Cu Ba, tiến tới một liên
minh chiến lược với Cu Ba. Các chính sách cải cách của Tổng thống Hugô
Chavêt và Chính phủ Vênêzuêla được đông đảo các tầng lớp nhân dân lao
động và dân nghèo nước này ủng hộ. Từ 2005, Tổng thống Chavêt nhiều lần
tuyên bố Vênêzuêla xây dựng “CNXH thế kỷ XXI”. Trên thực tế ông đã đề ra
và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, dự án cải cách kinh tế - xã hội nhằm
hướng tới chủ nghĩa xã hội và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Mặc dù còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu tiếp về trào lưu cánh tả ở Mỹ
Latinh, song những diễn biến mấy năm gần đây là những nét mới thể hiện sự
hồi phục của các lực lượng cộng sản, cánh tả ở khu vực này.
Sáu là, khu vực châu Á- Thái Bình Dương và Đông Nam Á, xu thế hoà
bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố
bất ổn định
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á có vai trò ngày càng
tăng đối với sự phát triển kinh tế thế giới. Sự ổn định và phát triển kinh tế của
châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế thế giới. Hiện nay, 21 nước thành viên APEC chiếm 46%
diện tích, 41,2% dân số toàn cầu; chiếm gần 60% GDP, 57,1% thương mại
quốc tế. Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới (GDP > 500 tỷ USD) thì có 7
nước là thành viên của APEC gồm (Mỹ, Nhật, Trung quốc, Hàn Quốc,
Ôxtrâylia. Mêhicô, Canađa) xu thế hợp tác, liên kết phát triển thể hiện ở sự lớn

mạnh của nền kinh tế châu Á. Còn khu vực ĐNÁ, từ một liên kết kinh tế khu
vực, đã mở rộng quan hệ hợp tác Thái Bình Dương- APEC hướng tới hình
thành “Cộng động ASEAN” vào 2015 dựa trên 3 trụ cột là kinh tế, văn hoá, xã
hội và an ninh chính trị; ASEAN đang và sẽ trở thành một khu vực phát triển
kinh tế năng động trong những thập niên tới và tích cực tham gia vào quá trình
liên kết và hợp tác song phương và đa phương trên thế giới.

11


Khu vực châu Á - Thái Bình Dương còn có ảnh hưởng to lớn tới chính
trị, an ninh thế giới. Hiện nay, hầu hết các nước lớn nằm trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dương; Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Nga và các nước này đều trong
chiến lược quốc phòng - an ninh, đối ngoại đều hết sức quan tâm đến lợi ích ở
khu vực này. Xuất phát từ những lợi ích quốc gia dân tộc, vị thế và tranh
giành ảnh hưởng, các nước lớn, nhỏ ở khu vực này duy trì quan hệ vừa liên
kết, hợp tác, vừa cạnh tranh, kiềm chế, lợi dụng lẫn nhau. Quan hệ vừa là đối
tác, vừa là đối tượng giữa Mỹ - Trung Quốc; Mỹ - Nga; Nhật - Nga; Nhật Trung về vấn đề Triều Tiên… lúc ấm nóng, lúc băng giá làm cho khu vực
châu Á - Thái Bình Dương vừa mang xu thế hợp tác, vừa tiềm ẩn mất ổn định,
thậm chí xung đột khó lường. Đó là:
Khu vực này vẫn tiếp tục diễn ra những tranh chấp về quyền lợi, biên
giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước; những bất ổn về kinh tế,
chính trị, xã hội ở một số nước. Đặc biệt, khu vực Đông Bắc Á đang diễn ra
căng thẳng, liên quan đến chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.
Sự cạnh tranh về lợi ích và ảnh hưởng của các nước lớn ở châu Á - Thái Bình
Dương như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật cũng rất gay gắt. Đối với khu vực
Đông Nam Á, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, lãnh thổ ở biển Đông
còn diễn biến phức tạp, lâu dài. Trung Quốc không giấu diếm tham vọng độc
chiếm biển Đông. Một số nước ASEAN và Đài Loan cũng tuyên bố chủ
quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Vấn đề tranh

chấp biên giới trên bộ, tình hình dân tộc, tôn giáo của một số nước cũng diễn
biến phức tạp. Bởi vậy, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, đặt ra
sự cần thiết, đưa ra những dự báo về tình huống quốc phòng, quân sự và đấu
tranh quốc phòng của Việt Nam. Đó là Việt Nam phải thường xuyên cảnh giác
phòng chống DBHB, bạo loạn lật đổ, các hoạt động của các thế lực thù địch
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền gây mất ổn định chính
trị; khả năng xảy ra xung đột quân sự, hoặc chiến tranh biển đảo; xung đột
12


biên giới; chiến tranh can thiệp, xâm lược của các thế lực thù địch bằng sử
dụng vũ khí công nghệ cao. Ngoài ra, những tác động tiêu cực của khủng
hoảng kinh tế thế giới, khủng hoảng năng lượng, lương thực sẽ tác động rất
lớn tới nhận thức, ý chí, niềm tin của nhân dân, tới quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta.
2. Sự tác động của những nhân tố quốc tế đến sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay
Sự tác động của các nhân tố quốc tế đến sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
theo cả hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực; những tác động tích cực là cơ bản
nhưng những tác động tiêu cực cũng hết sức mạnh mẽ. Trong đó, nổi lên những tác
động chủ yếu sau:
Một là, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Cục diện chính trị thế giới đang hình thành xu thế đa
trung tâm, đa cực; xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, sự hình thành các tổ
chức thế giới và khu vực, trước hết là APEC và ASEAN đã tạo ra môi trường
khu vực và quốc tế thuận lợi cho đất nước ta có điều kiện hoà bình, tập trung
phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi CNH, HĐH. Mặc dù trên thế
giới và khu vực vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, song
với tinh thần hữu nghị, hợp tác, các bên có thể giải quyết trên tinh thần hiểu

biết, tôn trọng lẫn nhau, thông qua thương lượng, tránh đối đầu. Cục diện và
xu thế quan hệ quốc tế thuận lợi cho việc giữ vững ổn định chính trị xã hội đất
nước, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo lợi thế cho cạnh tranh quốc tế, chuyển
giao công nghệ cho sự phát triển CNH, HĐH.
Hai là, tạo điều kiện cho nước ta tích cực chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, tăng thêm thế và lực của nước ta trên trường quốc tế. Đến
nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 172 nước trên thế giới, có quan
hệ với tất cả các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, IMF, WB, ACB; trở thành
13


thành viên chính thức của WTO (2007); có quan hệ hợp tác với tất cả các
nước lớn và các trung tâm kinh tế thế giới; quan hệ thương mại với gần 190
nước; năm 2008, Việt Nam được bầu là uỷ viên không thường trực của Hội
đồng bảo an Liên Hợp quốc. Tình hình đó tạo nhiều cơ hội cho sự phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam trở thành địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nơi thu hút
khách du lịch, diễn ra nhiều Hội nghị quốc tế và khu vực. Tiềm lực kinh tế,
tiềm lực quốc phòng của Việt Nam được tăng cường, trực tiếp làm cho sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc của đất nước được tăng lên đáng kể.
Trong xu thế hiện nay, mối quan hệ hợp tác giữa các nước được đẩy
mạnh, việc hợp tác giải quyết những vấn đề toàn cầu như dịch bệnh, bảo vệ
môi trường sống, những vấn đề quốc phòng, an ninh và liên quan đến quốc
phòng an ninh, ta có thể tranh thủ được sự hợp tác song phương và đa
phương. Thông qua hợp tác, ta có điều kiện trao đổi thông tin giữa các nước,
giải quyết những bất đồng thông qua đàm phán, giảm thiểu việc đối đầu bằng
quân sự, đảm bảo khả năng trở thành đối tác quan trọng trong quan hệ kinh tế,
thương mại, quốc phòng, an ninh với các nước, nhất là các nước phát triển.
Thông qua quá trình hội nhập trong xu thế quốc tế mới chắc chắn sẽ thúc đẩy
sản xuất trong nước phát triển, sẽ làm cho đời sống và nhận thức của nhân dân

ngày một nâng cao, có điều kiện thuận lợi tạo ra mặt trận đoàn kết quốc tế.
Trong điều kiện đó, ta tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trước
sự tấn công của các thế lực thù địch. Đây cũng là cơ sở để ta xây dựng tiềm lực
chính trị tinh thần trong nhân dân. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quyết liệt trong
thương mại toàn cầu sẽ dẫn đến những vấn đề mâu thuẫn như giàu nghèo, chênh
lệch kinh tế vùng miền, sự xâm lăng của văn hoá xấu, độc, đạo đức, lối sống ngoại
lai tác động đến nhân dân nhất là thế hệ trẻ trở thành nguyên nhân suy giảm sức
mạnh chính trị tinh thần của nhân dân.

14


Ba là, tạo điều kiện cho đất nước chủ động bảo vệ Tổ quốc “từ sớm”,
“từ xa” không để bị động, bất ngờ. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, nhờ phát
huy nội lực chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam có quan hệ quốc tế
rộng mở, đây là điều kiện thuận lợi để quảng bá hình ảnh đất nước, tranh thủ
sự hiểu biết, đồng tình ủng hộ của thế giới, thêm bạn bớt thù. Chúng ta có thể
thâm nhập, thu thập tình hình, sớm nắm bắt âm mưu, thủ đoạn hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch trước khi chúng tiến hành ở nước ta, chủ
động làm công tác ngoại giao “phòng ngừa” để bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng, quân sự, an ninh với
các nước trên thế giới và khu vực; tranh thủ điều kiện thuận lợi để tiếp thu,
chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ quân sự hiện đại, phát triển công
nghiệp quốc phòng, đổi mới trang bị, vũ khí, đào tạo cán bộ, tăng cường sức
mạnh chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Năm là, cuộc đấu tranh phòng chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch sẽ ngày càng gay go, phức tạp, quyết liệt. Trong bối
cảnh quốc tế mới của sự hợp tác và giao lưu, nhất là khi Việt Nam trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, ta có điều kiện thuận lợi để xây
dựng và củng cố vững chắc nền quốc phòng an ninh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ

độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia, đồng thời tạo ra thế liên kết vững
chắc, đan xen, cân bằng giữa các nước, tạo thế có lợi để bảo vệ Tổ quốc.
Trong tình hình đó, ta cũng phải cam kết mở rộng thị trường, hình thành các
khu vực kinh tế, do đó vấn đề bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội sẽ gặp khó
khăn và phức tạp hơn trước. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng mặt trái của toàn
cầu hoá, của hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện diễn biến hoà bình kết hợp bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, chuyển hướng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường tự do tư bản
chủ nghĩa, bằng mọi cách tác động đến ý thức bảo vệ Tổ quốc của nhân dân và
thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.
15


Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng quá trình đổi mới, mở cửa
để thâm nhập phá hoại trên mọi lĩnh vực xã hội hòng làm chuyển hoá đất
nước, lật đổ chế độ XHCN. Đây là cuộc chiến không phân rõ giới tuyến,
không giới hạn không gian, thời gian, không dễ phân biệt đối tượng, đối tác,
dễ tạo nên sự mơ hồ, mất cảnh giác và ảo tưởng. Do đó, chống DBHB, BLLĐ
trong điều kiện mới là hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp toàn
diện, đồng bộ, hiệu quả mà trước hết phải không ngừng nâng cao ý thức bảo
vệ Tổ quốc cho toàn dân.
Sáu là, tác động tiêu cực của những vấn đề thế giới như chủ nghĩa
khủng bố, xung đột dân tộc, tôn giáo, sự khủng hoảng và suy thoái kinh tế
quốc tế, các vấn đề quốc tế phức tạp, nhạy cảm đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Trên thế giới, cuộc đấu tranh hệ tư tưởng, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc vẫn rất phức tạp. Trong thế giới “phẳng” mở cửa, các tác động từ bên ngoài
đến kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… đất nước là rất lớn. Nó có thể gây nên
phức tạp đến vấn đề tôn giáo, dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đến đạo
đức, lối sống, đến quan niệm giá trị, chuẩn mực xã hội… Tình hình đó, việc giữ

gìn an ninh, bảo vệ bản sắc dân tộc, bảo vệ định hướng XHCN, bảo vệ chế độ
XHCN có những vấn đề phức tạp hơn.
Cục diện chính trị thế giới thập niên tới có sự chuyển biến to lớn. Tình
hình đó có tác động cả tích cực và tiêu cực đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN trong tình hình mới. Nhận thức rõ vấn đề này, là cơ sở quan
trọng để đề ra những định hướng và giải pháp xây dựng ý thức Tổ quốc cho
toàn dân hiện nay.
Bảy là, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta có những
biến đổi to lớn theo hướng tích cực là cơ bản. Thực tiễn những năm vừa qua,
tiếp tục phát huy hiệu quả của đường lối đổi mới đúng đắn, mở cửa, hội nhập,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng
16


trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kết quả đó tạo nên một nguồn sức
mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Các kế hoạch, nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã
hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiến hành biện pháp bảo vệ đất nước đều đã được thực hiện với một
quyết tâm cao và đạt được những kết quả tốt. Thực tiễn sinh động đó đã tạo ra
cho nhân dân ta một nhận thức đúng đắn, một niềm tin vững chắc và sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ý thức và năng lực chấp hành pháp luật, trình độ dân trí của nhân dân ngày
càng được nâng cao, quyền làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân luôn được phát huy
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thế trận lòng dân dựa trên sự đồng thuận cả
ý chí và hành động giữa Đảng với nhân dân ngày càng được củng cố. Khối đại
đoàn kết toàn dân tộc luôn được giữ vững và phát huy. Đây là nhân tố cơ bản tạo
nên sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam là một nước đang phát triển, trong bối cảnh và xu thế quốc tế
hiện nay, chúng ta có lợi thế của một nước phát triển sau có thể đi tắt, đón đầu

trong nhiều lĩnh vực, tiếp cận được với nguồn tri thức khổng lồ, trình độ hiểu
biết của nhân dân ngày càng được nâng cao. Những vấn đề lớn của thế giới về
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội được nhân dân nắm bắt một cách nhanh
chóng, đặt ra những câu hỏi, bình luận, so sánh, đưa ra những quan điểm
riêng của mình. Trong xu thế mở cửa, hội nhập, hợp tác, cạnh tranh và phát
triển, con người Việt Nam trở nên năng động hơn, nhanh nhạy và thực tế hơn
từ nhận thức đến thực tiễn cuộc sống. Những thay đổi trên thế giới vẫn là theo
một chiều hướng tích cực, góp phần khơi dậy ý chí vươn lên ngang tầm thời
đại và sánh vai với các nước phát triển, không cam chịu đói nghèo, tụt hậu.
Lòng tự hào dân tộc và niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta được tăng cường. Nhân dân ta có nhận thức rõ hơn đường

17


lối, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta trong bối cảnh
mới là hoàn toàn đúng đắn, bắt kịp với trào lưu phát triển của thế giới hiện đại
và là yêu cầu tất yếu cho mỗi quốc gia phát triển. Đường lối, chính sách đó
cũng đáp ứng và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đưa đất nước trở
thành quốc gia có vị thế trên trường quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng tác
động trực tiếp đến ý thức trách nhiệm của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.
Xu thế toàn cầu hoá một mặt tạo cơ hội cho mọi cá nhân, tổ chức, quốc
gia có năng lực phát huy tối đa khả năng của mình đem lại lợi ích cho cá nhân
và toàn thể xã hội. Mặt khác, nó cũng mang đến những tiêu cực trong quá
trình phát triển, đó chính là mặt trái của quá trình phát triển kinh tế như ô
nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, phân hoá giàu nghèo và phát triển không bền
vững và điều lớn hơn cũng làm xuất hiện ở một bộ phận nhân dân lối sống
thực dụng, vị kỷ, chạy theo đồng tiền, sống thiếu tình nghĩa, làm giàu bất
chính, vi phạm nguyên tắc, pháp luật, thờ ơ với nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.

Xu thế hợp tác, liên kết giữa các quốc gia tạo nên sự đan xen, giao
thoa trên mọi lĩnh vực sẽ tác động đến ý thức, lối sống của nhân dân. Một
mặt nó tác động tích cực đến sự thay đổi lối sống khép kín, ỷ lại, cam chịu,
phụ thuộc vốn có của người Việt Nam sang lối sống cởi mở, năng động, tự
lập, dám chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu việc tiếp thu lối sống một cách
thiếu định hướng đã dẫn đến việc xa rời lối sống truyền thống của dân tộc và
lối sống XHCN. Trên phương tiện thông tin đại chúng, nhất là mạng internet
bên cạnh những kiến thức tiến bộ của con người, len lỏi những hình ảnh về
lối sống vật chất, vì đồng tiền, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi,
truỵ lạc, thác loạn, tôn sùng bạo lực. Lối sống đó tác động đến một bộ phận
không nhỏ nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên ở đô thị. Do bị kích
thích bởi những bộ phim uỷ mị hay bạo lực đã làm cho lý tưởng sống, chiến

18


đấu, học tập bị giảm sút, có hành động và phong cách sống xa lạ với truyền
thống phương Đông và dân tộc. Họ mất đi lý tưởng sống, mất đi niềm tin
vào mục tiêu và con đường của Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và dày
công xây dựng. Đây là kẽ hở lớn nhất để các thế lực thù địch triệt để lợi
dụng trong chiến lược Diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, nó tạo nên một
hợp lực nguy hiểm, đe doạ đến thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa và vai
trò lãnh đạo của Đảng ta.
Trong xu thế hiện nay, con người có điều kiện phát triển toàn diện, có
điều kiện để khẳng định mình, khẳng định năng lực, hành vi của mình. Tuy
nhiên cũng chính vì mặt tích cực này khi sự tự khẳng định cá nhân được đề cao
quá mức sẽ trở thành tiêu cực, một khi tuyệt đối hoá cá nhân sẽ dẫn đến cá
nhân lấn áp tập thể, của xã hội và của quốc gia. Lúc đó lợi ích của tập thể bị lấn
áp, thậm chí bị phá bỏ. Đây chính là nguồn gốc của quan liêu, tham nhũng, là
mảnh đất cho những tệ nạn nảy sinh và phát triển. Đó là một nguy cơ lớn, nó

xuất hiện và tồn tại ngay trong nội bộ Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã
hội, các cơ quan công quyền, trong đội ngũ cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ
chủ trì các cấp, các ngành. Tệ nạn quan liêu, tham nhũng hình thành một cơ chế
ngầm trong xử lý các mối quan hệ xã hội và nương tựa vào nhau để tồn tại, làm
sai lệch chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Đây là
một vấn đề xã hội bức xúc, tác động trực tiếp đến nhận thức của nhân dân, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Thứ giặc nội xâm này cùng với chiến lược Diễn biến hoà bình và có thể
cả cách mạng màu sắc sẽ là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tóm lại, những nhân tố quốc tế và khu vực đã và đang tác động toàn
diện đến mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta, tạo nên những thời cơ, vận hội
lớn đan xen với những nguy cơ, thách thức khó lường. Do đó, cần nhận thức

19


đúng đắn tính hai mặt của vấn đề, không tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ mặt nào,
từ đó, chủ động hội nhập quốc tế, tận dụng những yếu tố thuận lợi, hạn chế
những tác động tiêu cực, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh./.

20



×