VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ LAN ANH
GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 9229006
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2018
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Sỹ Phán
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn
Phản biện 2: GS.TS. Trần Văn Phòng
Phản biện 3: PGS.TS. Hoàng Đình Cúc
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ họp tại:
Học viện Khoa học xã
hội………giờ……..ngày…………tháng…………..năm…..
Có thể tìm hiểu luận án tại:
-Thư viện Quốc gia
-Thư viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu của giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay được quy định tại
Điều 27 Luật Giáo dục 2005 là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã và đang đạt được
những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, so với yêu cầu
phát triển của đất nước, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn. Đặc
biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy
thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Nạn bạo lực
học đường; tình trạng vô kỷ luật trong học tập, ý thức thiếu tôn trọng giáo
viên diễn ra ở nhiều nơi. Thậm chí đã có trường hợp học sinh lớp 11 dùng
dao chém thầy giáo của mình khi bị nhắc nhở về chuyện bỏ học.
Để khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng trong
một bộ phận học sinh nước ta hiện nay; để có được những nhân cách học
sinh phát triển toàn diện cả về phẩm chất đạo đức lẫn trí tuệ bổ sung cho
nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai vì sự phát triển bền vững
của đất nước, cùng với “hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu
biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”, chúng ta phải
hết sức coi trọng giáo dục đạo đức cho học sinh, trong đó GDCD là môn
học có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh – nhất là thành tố đạo đức.
Môn GDCD giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp học sinh hình thành,
phát triển ý thức và hành vi của người công dân. Thông qua các bài học về
-1-
đạo đức, lối sống, pháp luật, kinh tế, môn GDCD bồi dưỡng cho học sinh
những phẩm chất và năng lực chung, đặc biệt là tình cảm, niềm tin, nhận
thức, cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp
luật, có kỹ năng sống và bản lĩnh để học tập, làm việc và sẵn sàng thực
hiện trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay bộ môn GDCD trong nhà
trường THPT chưa nhận được sự quan tâm, đầu tư đúng mức như nó cần
phải có. Nội dung chương trình môn GDCD đang quá nặng về “dạy chữ”
mà chưa chú trọng nhiều đến việc “dạy người”. Đội ngũ giáo viên của các
trường chất lượng chưa đồng đều, còn một số giáo viên dạy không đúng
chuyên môn đào tạo, phương pháp dạy học còn đơn điệu… Do đó, hiệu
quả việc giảng dạy bộ môn GDCD với việc giáo dục đạo đức cho học sinh
ở một số trường phổ thông trung học nước ta nói chung, ở thành phố Hà
Nội nói riêng còn nhiều bất cập, hạn chế.
Vậy làm thế nào để chúng ta có được những nhân cách học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản;
thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có ý chí kiên
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là một trong những vấn đề lớn đặt ra
cho ngành giáo dục nói riêng, cho xã hội Việt Nam nói chung. Để góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết vấn đề lớn trên đây, tác giả xin chọn
vấn đề “Giảng dạy môn Giáo dục công dân với sự phát triển nhân cách học
sinh trung học phổ thông thành phố Hà Nội hiện nay” để nghiên cứu và làm
luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Đạo đức học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu : Trên cơ sở góp phần làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận về nhân cách, vai trò của giảng dạy môn GDCD đối với sự phát
triển nhân cách học sinh THPT, luận án phân tích thực trạng vấn đề giảng
dạy môn GDCD với sự phát triển nhân cách cho học sinh THPT thành phố
Hà Nội thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn học này trong các trường THPT ở
thành phố Hà Nội hiện nay.
-2-
Nhiệm vụ của luận án
Một, tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Hai, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về nhân
cách, về vai trò của việc giảng dạy môn GDCD đối với sự phát triển nhân
cách học sinh THPT thành phố Hà Nội hiện nay.
Ba, phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong việc giảng
dạy môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở thành
phố Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của chúng.
Bốn, đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao hiệu quả giảng dạy môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách của
học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề giảng
dạy môn GDCD với sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở thành phố
Hà Nội hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Giai đoạn nghiên cứu: từ năm 2000 đến nay;
Không gian nghiên cứu: địa bàn Hà Nội (diện khảo sát chủ yếu là các quận
nội thành).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của
chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đạo đức, giáo dục đạo đức; về vai trò của giảng dạy môn
GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở nước ta nói
chung, ở thành phố Hà Nội hiện nay nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận chung
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với
các phương pháp phân tích – tổng hợp; hệ thống – cấu trúc; lôgic – lịch sử;
xử lý văn bản.
Trong chừng mực có liên quan, luận án sẽ sử dụng các tài liệu thống
kê, các báo cáo kinh tế – xã hội của các tổ chức thuộc hệ thống hành
chính, giáo dục, khoa học, pháp luật, văn hóa, xã hội… của Đảng và Nhà
-3-
nước Việt Nam. Phương pháp thu thập số liệu từ các báo cáo của Đoàn
thanh niên các trường THPT tại thành phố Hà Nội.
Luận án có tham khảo và sử dụng một số nghiên cứu khảo sát thực
địa, điền dã tại một số trường THPT tại thành phố Hà Nội; sẽ sử dụng
những số liệu của những phỏng vấn đã thực hiện bằng bảng hỏi. Thống kê,
phân tích, tổng hợp, nghiên cứu, phát hiện và giải quyết vấn đề trên cơ sở
xử lý thông tin thu được từ bảng hỏi của một số nghiên cứu khác đã có và
những thông tin của các công bố khác trên các báo chí chuyên ngành.
5. Đóng góp mới của luận án
– Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến vai trò
của việc giảng dạy môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh
THPT thành phố Hà Nội hiện nay.
– Phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng giảng dạy môn
GDCD trong các trường THPT ở thành phố Hà Nội hiện nay, trên cơ sở đó
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn
GDCD đối với sự phát triển nhân cách của học sinh THPT ở thành phố Hà
Nội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan đến nhân cách cũng như vai trò của giảng dạy môn GDCD đối
với sự phát triển nhân cách học sinh THPT thành phố Hà Nội hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy môn GDCD ở trường THPT ở thành phố Hà Nội nói riêng, ở nước ta
nói chung.
Ý nghĩa thực tiễn : Luận án có ý nghĩa khuyến nghị trong việc giảng
dạy môn GDCD ở trường THPT ở thành phố Hà Nội nói riêng, ở nước ta
nói chung.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
-4-
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến nhân cách, nhân
cách học sinh THPT ở nước ta nói chung, ở thành phố Hà Nội nói
riêng
Đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nhân
cách và nhân cách học sinh THPT từ các góc độ, khía cạnh, đối tượng
khác nhau. Chẳng hạn luận án tiến sĩ Triết học “Giáo dục đạo đức đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” của
Trần Sỹ Phán; luận án“Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thu Hằng,
luận án “Định hướng giá trị nhân cách của học sinh trung học phổ thông”
của tác giả Nguyễn Thị Mai Lan… Đây là những tư liệu tham khảo rất bổ
ích cho tác giả luận án khi bàn về sự phát triển nhân cách của học sinh
THPT nước ta nói chung, của thành phố Hà Nội nói riêng.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trang giảng
dạy môn GDCD ở trường THPT nước ta nói chung, ở thành phố
Hà Nội nói riêng
Trong các tư liệu có được, tác giả luận án thấy rằng, các công trình
liên quan trực tiếp đến thực trạng giảng dạy môn GDCD ở trường THPT
nước ta nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng còn ít. Phần lớn các bài
viết tập trung vào việc giáo dục đạo đức một cách chung chung, ít bàn trực
tiếp đến việc giảng dạy môn GDCD ở trường THPT. Tuy nhiên những gì
liên quan đến giáo dục đạo đức cũng là tài liệu tham khảo quý giá khi đánh
giá thực trạng giảng dạy môn GDCD.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao
hiệu quả giảng dạy môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách
học sinh THPT hiện nay ở nước ta nói chung, ở Hà Nội nói riêng
Cũng như các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giảng
dạy môn GDCD ở trường THPT hiện nay ở nước ta, các công trình nghiên
-5-
cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy môn GDCD ở
trường THPT hiện nay cũng không thật nhiều, rất ít các nghiên cứu chuyên
biệt về vấn đề này. Tuy nhiên trong một số cuốn sách, bài viết trên các tạp
chí hay trong các luận văn, luận án đây đó người ta vẫn đề cập đến các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn GDCD đối với việc phát
triển nhân cách học sinh cấp học giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay.
1.4. Kết luận và một số vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của luận án, kế thừa có chọn lọc
những kết quả đã đạt được, luận án tiếp tục giải quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm có liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án (nhất là phạm trù nhân cách) chỉ ra các
yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở
nước ta hiện nay; phân tích vai trò, tầm quan trọng, nội dung giảng dạy
môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở nước ta hiện
nay.
Thứ hai, phân tích những nhân tố ảnh hưởng cũng như vai trò của
giảng dạy môn GDCD với sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở nước
ta hiện nay. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của việc giảng dạy môn
GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh THPT ở thành phố Hà Nội
hiện nay cũng như nguyên nhân của nó.
Thứ ba, xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn GDCD đối với sự phát triển nhân
cách học sinh THPT ở thành phố Hà Nội hiện nay.
-6-
Chương 2
GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Nhân cách và các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách nói chung, nhân cách học sinh THPT ở nước ta nói
riêng
2.1.1. Nhân cách và những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành,
phát triển nhân cách
2.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ thể, tham gia
vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò của chủ thể nhận thức và cải tạo thế
giới
2.1.1.2. Cấu trúc nhân cách
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cấu trúc nhân cách. Trong luận
án này, chúng tôi xem xét cấu trúc nhân cách bao gồm hai thành tố cơ bản
đó là phẩm chất đạo đức và năng lực (mà người ta thường gọi là “đức” và
“tài”).
2.1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển
nhân cách
2.1.1.3.1. Yếu tố sinh học
Yếu tố sinh học bao gồm các đặc điểm hình thể như cấu trúc giải phẫu
sinh lý, đặc điểm cơ thể, đặc điểm của hệ thần kinh và các tư chất.
2.1.1.3.2. Yếu tố môi trường
Môi trường xã hội mà đặc biệt là giáo dục là yếu tố có tác động mạnh
mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Vì môi trường xã hội, đặc
biệt là giáo dục, góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều
kiện cho hoạt động và giao lưu của cá nhân.
2.1.1.3.3. Yếu tố hoạt động
Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự
hình thành và phát triển ý thức. Hoạt động của con người được thực hiện
-7-
không chỉ trong mối quan hệ của con người với sự vật mà cả trong mối quan
hệ với người khác.
2.1.1.3.4. Yếu tố giao tiếp
Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất
hiện tương đối sớm trong quá trình phát triển của con người. Chính con
người làm xuất hiện, duy trì, phát triển giao tiếp. Đến lượt mình, con
người trở thành sản phẩm của giao tiếp.
2.1.1.3.5. Yếu tố giáo dục
Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và
phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những
giai đoạn lịch sử nhất định. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo.
2.1.2. Đặc điểm tâm – sinh lý học sinh THPT ở nước ta hiện nay
Một là, đặc điểm sinh học: Lúc này cơ thể ở cả nam và nữ đều gần
đạt đến mức tuổi trưởng thành
Hai là, đặc điểm về hoạt động học tập: Hoạt động học tập là hoạt
động chủ đạo đối với học sinh THPT.
Ba là, đặc điểm về nhận thức, trí tuệ: Lứa tuổi học sinh THPT là giai
đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Quá trình nhận thức của các
em từng bước được nâng lên từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Bốn là, sự phát triển của tự ý thức: Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi
bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Nhìn chung thanh niên mới
lớn có thể tự đánh giá bản thân một cách sâu sắc nhưng đôi khi vẫn chưa
đúng đắn nên các em vẫn cần sự giúp đỡ của người lớn.
Năm là, sự hình thành thế giới quan: Lứa tuổi học sinh THPT là lứa
tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan, vì vậy, việc định hướng
giá trị trong hoạt động của cá nhân thông qua giáo dục giúp các em xây
dựng được hệ thống thế giới quan đầy đủ, tránh lối sống thụ động, ỷ lại,
trông chờ vào người...
-8-
Sáu là, xu hướng nghề nghiệp: Học sinh THPT đã xuất hiện nhu cầu
lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt
tới vị trí xã hội ấy. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt
hoạt động và điều chỉnh hoạt động của các em.
Bảy là, hoạt động giao tiếp: Ở lứa tuổi này học sinh THPT khao khát
muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu sống
cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành
vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị.
2.2. Môn GDCD và vai trò của việc giảng dạy môn học này đối với việc
phát triển nhân cách học sinh THPT
2.2.1. Nội dung, cấu trúc và đặc điểm kiến thức môn GDCD ở
trường THPT nước ta hiện nay
2.2.1.1. Nội dung và cấu trúc chương trình môn GDCD từ năm học
2008 - 2009 đến nay
Ở bậc THPT, nội dung môn GDCD được cấu trúc thành 5 phần: 1.
Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học; 2. Công dân với đạo đức; 3. Công dân với kinh tế; 4. Công dân với
các vấn đề chính trị - xã hội; 5. Công dân với pháp luật. Các tri thức của
môn GDCD là sự kết hợp tri thức của các môn học: Triết học, Kinh tế Chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đạo đức học, Pháp luật học, xã
hội học... và được giảng dạy 1 tiết/tuần, tổng số tiết cho toàn cấp là 105.
2.2.1.2. Khái quát đặc điểm kiến thức môn GDCD ở trường THPT ở
nước ta hiện nay
Môn GDCD ở THPT là sự kế thừa, phát triển môn Đạo đức ở tiểu học
và môn GDCD ở THCS. Đây là môn học góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục ở THPT. Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay và
trong hệ thống các môn học, môn GDCD giữ vai trò quan trọng và trực
tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát
triển tâm lực và nhân cách con người. Ngoài mục tiêu trang bị cho học
sinh về kiến thức, môn GDCD truyền tải cho người học những giá trị,
chuẩn mực của xã hội để họ trở thành những con người toàn diện, biết
-9-
sống và biết tôn trọng người khác, thành công dân có ích cho cộng đồng và
xã hội.
2.2.2. Phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân ở các trường
trung học phổ thông ở nước ta hiện nay
Phương pháp giảng dạy môn GDCD dựa trên cơ sở vận dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử; lý luận dạy học và phương pháp dạy - học các môn khoa học xã
hội để giải quyết những yêu cầu do quá trình dạy – học môn học đề ra.
Có nhiều phương pháp giảng dạy môn GDCD ở THPT, từ các
phương pháp truyền thống như: thuyết trình, đàm thoại, nêu gương, sử
dụng đồ dùng trực quan... đến các phương pháp hiện đại như: thảo luận
nhóm, động não, xử lý tình huống, đóng vai, tổ chức trò chơi, dự án…
2.2.3. Vai trò của giảng dạy môn Giáo dục công dân đối với việc
phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay
Vị trí môn GDCD ở nhà trường phổ thông đã được xác định trong Chỉ
thị số 30/1998/CT-BDGĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày
20 tháng 5 năm 19981. Theo đó, môn GDCD ở trường THPT có vị trí hàng
đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua
việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường
lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế thừa các truyền
thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và xã hội chủ nghĩa; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và
thời đại.
Do vậy, việc giảng dạy môn GDCD có tác động trực tiếp đến việc
hình thành các yếu tố thuộc về năng lực cũng như phẩm chất đạo đức – hai
thành tố cơ bản trong cấu trúc nhân cách của học sinh THPT. Nhất là trong
giai đoạn hiện nay – như Nghị quyết Trung ương Tám đánh giá – “chất
lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu… chưa chú trọng đúng
(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chỉ thị số 30/1998/CT-BDGĐT “Về việc đào tạo và bồi dưỡng giáo
viên bộ môn GDCD trường Trung học cơ sở, THPT – Trung học chuyên ban.
- 10 -
mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc”2 cho học sinh,
sinh viên, thì việc giảng dạy môn GDCD lại trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết.
Tiểu kết chương 2
Con người sinh ra chưa có nhân cách mà nhân cách là cấu tạo mới do
mỗi người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình giao tiếp, lao
động, học tập, vui chơi... Nhân cách học sinh THPT đang ở trong quá trình
phát triển. Do đó, định hướng cho sự phát triển nhân cách của học sinh là
hết sức quan trọng. Trong các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách
học sinh, giáo dục giữ một vai trò quan trọng, trong đó giảng dạy môn
GDCD giữ vị trí, vai trò then chốt đối với sự hình thành, phát triển nhân
cách cho học sinh THPT vì môn GDCD cung cấp cho học sinh THPT
những kiến thức cơ bản về quy luật vận động và phát triển của tự nhiên, xã
hội; hình thành những phương pháp tư duy khoa học, chuẩn bị điều kiện
cho các em trở thành những người lớn vừa có tri thức, vừa có đạo đức, có
phẩm chất chính trị, tư tưởng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng, gia đình,
tập thể và với bản thân mình.
.
Học sinh THPT là lứa tuổi từ khi vào trường đến khi tốt nghiệp vẫn
còn đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, vì thế trong
khuôn khổ luận án này, chúng tôi cho rằng sự phát triển nhân cách cho học
sinh THPT hiện nay trở thành một vấn đề vô cùng quan trọng của công tác
giáo dục trong nhà trường hiện nay. Trong đó, môn GDCD là môn học giữ
vai trò trọng yếu trong sự nghiệp đó.
2
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb
CTQG, H.2013, Tr117.
- 11 -
Chương 3
GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY – NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG,
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả giảng dạy môn GDCD
với việc phát triển nhân cách học sinh THPT thành phố Hà Nội
hiện nay
3.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến giảng
dạy môn Giáo dục công dân
Đối với học sinh THPT, môi trường sống (địa bàn sinh sống) ảnh
hưởng rất lớn đến việc học tập, phát triển nhân cách của các em. Vì vậy,
muốn thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục nhân cách phải nhận thức rõ tình
hình địa phương từ điều kiện địa lý, hoàn cảnh kinh tế - xã hội đến những
đặc điểm văn hóa, xã hội của địa phương.
3.1.2. Ảnh hưởng của văn hóa – giáo dục đối với việc giảng dạy
môn Giáo dục công dân
Hà Nội là nơi giao hưởng các giá trị văn hóa của mọi miền đất nước,
là nơi hội tụ tài hoa và trí tuệ của dân tộc Việt Nam, truyền thống văn hiến;
tài năng và đức độ của các anh hùng, hào kiệt đất Thăng Long đã và đang
ảnh hưởng tốt đẹp đến các thế hệ hiện nay.
3.1.3. Đặc điểm của đội ngũ giáo viên môn GDCD và của học sinh
THPT ở Hà Nội
3.1.3.1. Đặc điểm đội ngũ giáo viên môn GDCD ở Hà Nội
Theo số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội năm 2017, toàn
thành phố Hà Nội có 435 giáo viên GDCD, trong đó giáo viên nữ là 350,
giáo viên thỉnh giảng là 41. Đa số giáo viên được đào tạo theo đúng
chuyên ngành, hầu hết tốt nghiệp các trường: Đại học Sư phạm Hà Nội,
Đại học Sư phạm Xuân Hòa, Đại học Sư phạm Thái Nguyên… Trình độ
chuyên môn, năng lực giảng dạy của giáo viên môn GDCD khá tốt, đáp
ứng yêu cầu giảng dạy bộ môn.
- 12 -
3.1.3.2. Đặc điểm của học sinh THPT ở Hà Nội
Học sinh THPT ở Hà Nội có nhiều điểm khác biệt so với những học
sinh THPT ở những nơi khác:
Thứ nhất là về hoàn cảnh và điều kiện sống: Hà Nội là Thủ đô, là
trung tâm kinh tế - chính trị lớn của cả nước. Vì vậy, dòng người di cư từ
nông thôn ra đây ngày càng mạnh mẽ, với tốc độ nhanh, quy mô ngày một
lớn. Học sinh ở Hà Nội không đơn thuần chỉ có những em là người gốc Hà
Nội mà còn bao gồm rất nhiều em theo cha mẹ từ nhiều nơi về đây sinh
sống mưu sinh. Vì vậy, thành phần học sinh ở Hà Nội rất phong phú và đa
dạng.
Thứ hai là về môi trường sống: Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư,
lại là một địa bàn khá phức tạp. Các trường THPT ở đây hầu hết đều được
đóng trên địa bàn thuộc trung tâm thành phố, đó là những nơi mà dân cư
đa dạng bao gồm nhiều thành phần và nhiều tầng lớp người sống với nhau
trên một địa bàn. Vì vậy, một đặc điểm rất đáng chú ý xuất hiện trong giới
học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay là, bên cạnh mặt tích cực của môi
trường sống ở Thủ đô giúp các em có khả năng tiếp thu nhanh nhạy mọi
thông tin, thì nó cũng có những tiêu cực tác động không nhỏ đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của các em.
3.2. Giảng dạy môn GDCD với việc phát triển nhân cách học sinh
THPT thành phố Hà Nội hiện nay – thực trạng và nguyên nhân
3.2.1. Giảng dạy môn Giáo dục công dân với việc phát triển nhân
cách học sinh trung học phổ thông thành phố Hà Nội hiện nay – Thành
tựu và hạn chế
3.2.1.1. Thực trạng nhân cách học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay
Để nắm bắt thực trạng nhân cách học sinh ở thành phố Hà Nội hiện
nay - tác giả luận án đã tiến hành khảo sát 5 trường: THPT Việt Đức,
THPT Trần Phú, THPT Kim Liên, THPT Cao Bá Quát, THPT Nguyễn
Siêu bằng phương pháp quan sát, phiếu điều tra, phỏng vấn.
Nhìn chung, ở cả 5 trường nêu trên đều đạt được tỷ lệ học sinh xếp
loại hạnh kiểm tốt khá cao. Có nhiều học sinh có chí hướng phấn đấu tốt,
- 13 -
chăm học, trung thực, lối sống lành mạnh. Tuy nhiên, cũng phải nêu lên
thực tế có một bộ phận không nhỏ học sinh có biểu hiện vi phạm giá trị,
chuẩn mực đạo đức, biểu hiện rõ nhất ở những học sinh bị xếp loại hạnh
kiểm yếu, kém, có khó khăn về rèn luyện đạo đức.
3.2.1.2. Thực trạng vai trò giảng dạy môn GDCD với sự phát triển
nhân cách học sinh THPT ở Hà Nội hiện nay
Thành tựu và hạn chế trong việc trang bị thế giới quan khoa học: Bên
cạnh mặt tích cực do giảng dạy và học tập môn GDCD mang lại như nhiều
em học sinh có quan điểm, niềm tin khoa học và cách nhận thức đúng đắn
về sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Thì hiện nay vẫn còn một
bộ phận học sinh chưa thực sự kiên định trong quan điểm và niềm tin; một
số em còn có quan điểm duy tâm về thế giới, về nguồn gốc của con người;
có thái độ xuê xoa, “dĩ hoà vi quý” trong nhận thức và hành vi. Không
phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tiến bộ, đâu là lạc hậu, không
tích cực tham gia các hoạt động. Điều này ảnh hưởng không tốt đến sự
phát triển về mặt đạo đức cũng như năng lực hoạt động, nhất là hoạt động
học của học sinh THPT.
Thành tựu và hạn chế trong việc hình thành thành tố đạo đức cho học
sinh: Qua việc giảng dạy, học tập những phạm trù đạo đức học cơ bản
trong phần II: “Công dân với đạo đức” (GDCD lớp 10), học sinh biết điều
chỉnh hành vi của bản thân theo các yêu cầu đạo đức xã hội. Đa số các em
sau khi học thấy được sự cần thiết phải tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Đồng thời học sinh còn biết đánh
giá, phê phán, đấu tranh chống lại những hành vi lệch chuẩn, những biểu
hiện tiêu cực đi ngược với các giá trị chân – thiện – mỹ trong đời sống
hàng ngày ở trường và ngoài xã hội. Tuy nhiên, so với vị trí của môn học,
hiệu quả giảng dạy các phẩm chất đạo đức cho học sinh THPT Hà Nội
thông qua môn GDCD chưa tương xứng với chức năng và vai trò của nó.
Nhiều chuẩn mực đạo đức chưa trở thành thói quen và niềm tin của một bộ
phận học sinh. Rất nhiều em còn thờ ơ, không hiểu được sự nguy hiểm của
- 14 -
các vấn đề: ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, các dịch bệnh hiểm
nghèo…
Thành tựu và hạn chế trong việc nâng cao ý thức chính trị, trách
nhiệm công dân, nghĩa vụ pháp lý cho học sinh THPT thông qua giảng dạy
môn GDCD
Ý thức chính trị, trách nhiệm công dân hay nghĩa vụ đạo đức, nghĩa
vụ pháp lý… đều là những giá trị nhân cách của một nhân cách phát triển,
tiến bộ trong xã hội hiện đại. Kết quả điều tra cho thấy, đa số các em học
sinh hiểu được tính tất yếu khách quan đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa Chủ nghĩa xã hội với các
chế độ xã hội trước đó ở nước ta, hiểu được bản chất của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Các em ý thức được trách nhiệm mai sau của bản thân
trong lao động sản xuất tạo ra của cải cho xã hội. Có ý thức sống và làm
việc theo hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít
học sinh có những nhận thức lệch lạc, tỏ ra hoài nghi, bi quan khi đánh giá
về các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của đất nước, từ đó giảm
sút ý chí phấn đấu học tập, tu dưỡng, thiếu ý chí lập thân, lập nghiệp.
3.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
3.2.2.1. Nguyên nhân của thành tựu
Thứ nhất, số lượng và chất lượng giáo viên GDCD được nâng cao.
Thứ hai, việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn GDCD
ở thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến nay giúp cho việc giảng dạy môn
GDCD ngày càng mang tính khoa học và đạt hiệu quả cao hơn.
Thứ ba, nội dung chương trình môn GDCD có nhiều điểm mới so với
trước đây.
Thứ tư, sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Thành uỷ, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân thành phố, các cấp uỷ đảng và chính quyền địa
phương, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan ban ngành, đoàn thể xã hội,
sự tin tưởng và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp giáo
dục và đào tạo.
- 15 -
Thứ năm, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh THPT ở thành phố Hà Nội.
3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nhận thức và quan niệm chưa đúng về vị trí, vai trò của
môn GDCD từ các nhà quản lý, giáo viên (kể cả giáo viên bộ môn), học
sinh và phụ huynh.
Thứ hai, bất cập về đội ngũ giáo viên bộ môn.
Thứ ba, chương trình và nội dung SGK môn GDCD hiện nay vẫn còn
những bất cập.
Thứ tư, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
môn GDCD còn hạn chế.
Thứ năm, những tác động tiêu cực của môi trường xã hội đã ảnh
hưởng không nhỏ đến giảng dạy môn GDCD ở các trường THPT hiện nay.
Tiểu kết chương 3
Sự phát triển nhân cách của học sinh THPT qua giảng dạy môn
GDCD phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố có cả khách quan và chủ quan,
chúng có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Giáo dục nhà trường bị chi phối
bởi các yếu tố khách quan của xã hội như quản lý xã hội, cơ chế kinh tế,
nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố chủ quan
như mục tiêu, tư duy, phương pháp, các hình thức tổ chức giảng dạy...
Ngoài nguyên nhân khách quan của xã hội, của quy chế quy định thì sự
phát triển nhân cách của học sinh THPT chủ yếu là do việc giáo dục của
nhà trường và quá trình tu dưỡng của chính bản thân học sinh, trong đó
việc giảng dạy môn GDCD có một vai trò hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, thực tế dạy học môn GDCD ở trường THPT ở Hà Nội
hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn
của xã hội. Bên cạnh những thành tựu đạt được qua giảng dạy môn GDCD
như: đa số các em học sinh thấy được sự cần thiết phải tự điều chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội; biết đánh giá, phê
phán, đấu tranh chống lại các hành vi lệch chuẩn, những biểu hiện tiêu cực
- 16 -
đi ngược với các giá trị chân – thiện – mỹ trong đời sống; có quan điểm,
niềm tin khoa học và cách nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan; có ý thức sống tôn trọng pháp luật, ủng hộ những
hành vi thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm trái quy
định của pháp luật; có ý thức tìm hiểu thực tế, gắn học với hành, vận dụng
được những điều đã học vào cuộc sống;… thì việc phát triển nhân cách
cho học sinh THPT qua giảng dạy môn GDCD ở Hà Nội còn không ít
những bất cập, hạn chế như: nhiều chuẩn mực đạo đức chưa trở thành thói
quen và niềm tin của một bộ phận học sinh; nhiều học sinh sống thiếu hoài
bão, thiếu niềm tin vào năng lực của chính mình, dẫn đến tự ti, hoài nghi
trong cuộc sống, phát triển lệch chuẩn nhân cách mà xã hội yêu cầu; có
không ít học sinh chưa thực sự tin tưởng vào đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước…
Thực trạng nêu trên đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển
nhân cách học sinh THPT ở Hà Nội. Để việc phát triển nhân cách của học
sinh THPT ở Hà Nội thông qua việc giảng dạy môn GDCD đạt kết quả
như mong muốn, đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu đào tạo, cần phải
nhanh chóng khắc phục những điểm yếu trên với những biện pháp hữu
hiệu, có tính khả thi.
- 17 -
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
4.1. Phương hướng để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn GDCD đối
với việc phát triển nhân cách học sinh THPT ở thành phố Hà Nội
hiện nay
4.1.1. Giảng dạy môn Giáo dục công dân nhằm hướng tới việc xây
dựng nhân cách toàn diện cho học sinh THPT
– Giáo dục cho học sinh THPT về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; Tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước; các
thành tựu kinh tế - xã hội đạt được trong sự nghiệp đổi mới. Trên cơ sở đó
hình thành niềm tin, lý tưởng của thanh niên vào đường lối đổi mới mà
Đảng, nhân dân đã lựa chọn;
– Giáo dục truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, nâng cao ý thức
chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng cho học sinh, qua đó phát huy vai
trò của học sinh trong đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch;
– Giáo dục tinh thần đoàn kết, làm cho học sinh nhận rõ được vai trò
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế trong lịch sử dân
tộc cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước;
– Giáo dục cho học sinh tinh thần hăng say học tập, hăng hái lao
động, phát huy truyền thống hiếu học, chuyên cần và sáng tạo, thông qua
đó hình thành ý thức tự giác của học sinh trong lao động, học tập và rèn
luyện, phấn đấu trở thành những nhân cách phát triển toàn diện, vừa hồng,
vừa chuyên.
4.1.2. Hướng quá trình giảng dạy môn Giáo dục công dân từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất người học
trong một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp
- 18 -
Trong tất cả các phương thức giáo dục, tự giáo dục là con đường tốt
nhất để phát triển và hoàn thiện bản thân cũng như khai thác tối đa tài năng
của mỗi người. Ở học sinh PTTH, tri thức đạo đức được chuyển hóa thành
niềm tin đạo đức rõ ràng và lúc đó mọi hành vi của học sinh đã có tính
nguyên tắc rõ rệt. Khi nhân cách của cá nhân phát triển khá đầy đủ thì lúc
đó việc xem xét, đánh giá hay cư xử bất cứ điều gì, học sinh cũng dựa trên
quan điểm, niềm tin đạo đức của mình. GDCD trong bản chất và trong
mục đích của nó là một khoa học thực hành. Thông qua môn GDCD giáo
viên phải tác động một cách sáng tạo, thành thục để khơi dậy ở học sinh
nhu cầu ham hiểu biết, ý thức tự giáo dục, tự điều chỉnh và hoàn thiện bản
thân theo chuẩn mực, theo các giá trị được lựa chọn.
4.1.3. Quán triệt nguyên lý về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong giảng dạy môn Giáo dục công dân
Trong giảng dạy môn GDCD giáo viên phải luôn quán triệt sâu sắc
nguyên tắc “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn liền với thực tiễn” và phải
thấm nhuần quan điểm đổi mới, quan điểm phát triển. Thông qua việc đa
dạng hoá các hoạt động dạy học, gắn hoạt động dạy học với hoạt động xã
hội, hoạt động lao động và hoạt động thực tiễn ở các địa phương giúp các
em xây dựng nhận thức đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan và củng
cố niềm tin, kỹ năng, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của học sinh.
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn
GDCD với việc phát triển nhân cách học sinh THPT ở thành phố
Hà Nội hiện nay
4.2.1. Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên môn Giáo
dục công dân
Một là, các cơ sở đào tạo giáo viên GDCD cần quan tâm đến công tác
chính trị tư tưởng
Hai là, quá trình đào tạo đội ngũ giáo viên ở các trường đại học phải
gắn liền với việc đào tạo lại, chuẩn hóa, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
thường xuyên phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước và xu thế phát
triển của thời đại
- 19 -
Ba là, quan tâm đến các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ
giáo viên GDCD
Bốn là, tuyển dụng giáo viên giảng dạy môn GDCD phải đúng chuyên
ngành được đào tạo
4.2.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn GDCD theo
hướng dạy học tích cực
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả nội dung tri thức khoa học của môn
GDCD đang được hoàn thiện trong nhà trường THPT thì việc đổi mới
phương pháp giảng dạy bộ môn cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, thiết kế bài giảng phù hợp với người học
Hai là, chủ động kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau.
Ba là, tăng cường sự đối thoại tạo liên hệ ngược giữa thầy và trò.
4.2.3. Cải tiến, đổi mới cách đánh giá kết quả học tập môn GDCD
Nhằm đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá theo hướng phát huy
tính tích cực, sáng tạo của học sinh, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu
như:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức về hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh.
Thứ hai, xác định những yêu cầu và tiêu chí cụ thể trong đánh giá
kết quả học tập.
Thứ ba, đổi mới nội dung và kết hợp các hình thức thi, kiểm tra.
Thứ tư, đổi mới cách nhận xét và chấm điểm.
4.2.4. Cần có những đổi mới về chương trình, sách giáo khoa
1. Quán triệt mục tiêu, yêu cầu đổi mới chương trình, SGK trong
Nghị quyết số 88 của Quốc hội, chương trình GDCD THPT cần thiết phải
thay đổi cách tiếp cận từ cách tiếp cận theo định hướng phát triển nội dung
sang cách tiếp cận theo định hướng phát triển năng lực người học – một
trong những thành tố cơ bản của nhân cách. Chương trình GDCD THPT
theo định hướng đổi mới cần tập trung vào bốn nội dung: công dân với đạo
đức; công dân với pháp luật; công dân với các vấn đề chính trị xã hội; giáo
dục kỹ năng sống.
- 20 -
2. Cần xây dựng chương trình và SGK GDCD THPT theo hướng tích
hợp. Môn GDCD THPT được xây dựng trên cơ sở nội dung của các môn học
Đạo đức, Pháp luật, Chính trị, Kỹ năng sống… do vậy môn học có khả năng
tích hợp cao không chỉ nội môn mà còn có khả năng tích hợp ngoại môn, liên
môn với các môn khác như Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục thể chất…
3. Để tránh tình trạng quá tải và cho giáo viên có điều kiện để đổi mới
phương pháp dạy học, liên hệ những vấn đề mang tính cấp thiết, học sinh
có thời gian để bày tỏ những vấn đề mà các em quan tâm… cần tăng thời
lượng dành cho môn GDCD trong nhà trường lên ít nhất là 2 tiết/tuần.
4. Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh có sự liên hệ chặt chẽ giữa
nhà trường, gia đình và xã hội, vì vậy trong nội dung bài học hoặc các
chương trình ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo, SGK, sách giáo viên hay
sách tham khảo thiết yếu cần có những kết nối với hệ thống chính quyền,
đoàn thể và gia đình, tạo mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ cho việc giáo dục
từ kiến thức trong SGK đến thực tế cuộc sống cộng đồng và gia đình.
4.2.5. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ
giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội
Giảng dạy GDCD là giảng dạy đạo đức, lối sống, phẩm chất, truyền
thống dân tộc... cho mỗi cá nhân. Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy
môn học chúng ta nhất thiết phải có sự liên hệ và kết hợp với các môi
trường mà học sinh đang sống, hoạt động và giao tiếp - Đó là sự phối kết
hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Từ đó mới phát hiện ra
những khuyết điểm, thiếu sót của học sinh để kịp thời giáo dục.
4.2.6. Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập môn Giáo
dục công dân
Một là, vận dụng một cách linh hoạt cả phương pháp dạy học hiện đại
và phương pháp dạy học truyền thống trong giảng dạy môn GDCD.
Hai là, dạy học GDCD phải gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh.
Học GDCD là để làm một công dân, không phải một công dân chung
chung trừu tượng mà là một công dân cụ thể của đất nước Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới.
- 21 -
Ba là, dạy học GDCD phải chú trọng sử dụng có hiệu quả các thiết
bị dạy học.
Tiểu kết chương 4
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay và trong hệ thống
các môn học, môn GDCD giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc
giáo dục học sinh ý thức và hành vi công dân, phát triển tâm lực và nhân
cách con người. Ngoài mục tiêu trang bị cho học sinh về kiến thức, môn
GDCD truyền tải cho người học những giá trị, chuẩn mực của xã hội để họ
trở thành những con người toàn diện, biết sống và biết tôn trọng người
khác, thành công dân có ích cho cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên thực tế
việc dạy và học môn GDCD hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng
được yêu cầu và mong muốn của xã hội. Do đó cần phải có những phương
hướng và giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả giảng dạy của môn học
này đối với sự phát triển nhân cách của học sinh THPT hiện nay.
Để môn GDCD có thể phát huy một cách tốt nhất vai trò của mình
trong việc phát triển nhân cách học sinh THPT cần phải tiến hành quán
triệt các phương hướng cơ bản sau: Thứ nhất, giảng dạy môn GDCD phải
nhằm hướng tới việc xây dựng nhân cách toàn diện cho học sinh THPT.
Thứ hai, hướng quá trình giảng dạy môn GDCD từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển năng lực, phẩm chất người học trong một nền giáo dục
mở, thực học, thực nghiệm. Thứ ba, quán triệt nguyên lý về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy môn GDCD. Đồng thời phải tiến
hành những giải pháp đồng bộ: Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo
viên môn GDCD; Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn GDCD
theo hướng dạy học tích cực; Cải tiến, đổi mới cách đánh giá kết quả học
tập môn GDCD; Có những đổi mới về chương trình, SGK; Xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, gia đình
và xã hội. Thực hiện tốt các giải pháp này sẽ góp phần quan trọng vào việc
phát huy được vai trò của môn GDCD với sự phát triển nhân cách học sinh
THPT ở nước ta nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng.
- 22 -
KẾT LUẬN CHUNG
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Đảng ta xác định: xây dựng
con người Việt Nam hiện nay là xây dựng nhân cách của con người với
một nội dung toàn diện: từ bồi dưỡng thể lực, năng lực trí tuệ, không
ngừng nâng cao học vấn và văn hoá, đến trình độ tư tưởng, thế giới quan
và đạo đức cách mạng; từ đạo đức và lối sống, đến kế thừa và phát huy
được những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu
cầu của con người mới XHCN.
Giảng dạy môn GDCD có tầm quan trọng đặc biệt tới việc phát triển
nhân cách cho học sinh THPT. Nó xuất phát từ vị trí, chức năng và nhiệm
vụ của bộ môn nhằm trang bị cho các em một hệ thống các tri thức khoa
học về đạo đức, triết học, kinh tế, pháp luật… Từ đó giúp học sinh có được
một cái nhìn tổng thể về thế giới khách quan trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Trên cơ sở nắm được những tri thức đã học tạo
thành niềm tin và biến niềm tin thành hành động trong cuộc sống, đó chính
là mục đích cuối cùng của việc giảng dạy môn GDCD.
Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với sự biến đổi
nhanh chóng về mọi mặt của đời sống xã hội, một bộ phận học sinh THPT
cả nước nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng đã nhận thức đúng đắn giá
trị của việc hoàn thiện nhân cách, phát huy truyền thống hiếu học của quê
hương, không ngừng nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều thành tích cao trong
quá trình học tập, thể hiện qua chất lượng xếp loại học lực, hạnh kiểm, kết
quả thi tốt nghiệp và thi học sinh giỏi.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận học sinh sống thiếu ý thức tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức. Biểu hiện lối sống ích kỷ không có tinh thần
đoàn kết tập thể; thực dụng, suy thoái đạo đức, xa rời truyền thống văn hóa
dân tộc, dễ tiếp nhận những luồng văn hóa ngoại lai có ảnh hưởng tiêu
cực; xa rời lý tưởng và hoài bão cao đẹp, giảm sút ý chí và niềm tin; ít
quan tâm đến tình hình kinh tế - chính trị của đất nước, ý thức tổ chức kỷ
luật cũng như chấp hành pháp luật còn yếu kém; một số em còn ham chơi,
thích đua đòi với bạn bè, dễ bị bạn bè rủ rê, lôi kéo tham gia vào những
- 23 -