Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Luật học vai trò của thẩm phán trong việc tranh tụng tại phiên tòa hình sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.4 KB, 138 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xét xử là chức năng của Tòa án nhân dân, là một dạng hoạt động đặc thù,
khác với các hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp
khác nói riêng. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác xét
xử, Bác căn dặn ngành Tòa án phải hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước
và nhân dân đã giao phó. Từ những lời dạy của Bác, Tòa án nhân dân tối cao đã
tổng kết, đúc rút thành phương châm xét xử, phổ biến cho toàn ngành đó là: Xét
xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và được nhân dân đồng tình ủng
hộ. Tòa án là nơi đại diện cho cán cân công lý, là nơi thể hiện rõ nét và sâu sắc
nhất bản chất của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xét xử của Tòa án là
khâu quan trọng nhất trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, một cá nhân
được xác định là có tội hay không, nếu có tội thì là tội gì, điều luật áp dụng và
mức hình phạt đối với người đó đều phụ thuộc vào phán quyết của Tòa án. Phán
quyết này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác.
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và trong tiến trình cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nâng cao chất lượng xét xử đang được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, trong đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa luôn được chú trọng hơn cả. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng
công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,

1


người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...” và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp ở Việt
Nam đến năm 2020 lại tiếp tục khẳng định: “…nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”. Trên
thực tế, việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành như thế nào, chất lượng


tranh tụng đạt hiệu quả đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào người tiến hành điều
khiển việc tranh tụng, đó là Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, hiện nay
vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét xử các vụ án hình sự mà đặc biệt là
trong việc tranh tụng tại phiên tòa còn nhiều vấn đề cần phải xem xét, có những
giai đoạn Thẩm phán thực hiện quá nhiều việc, thậm chí thực hiện luôn cả chức
năng buộc tội, nhưng cũng có giai đoạn vai trò của Thẩm phán còn mờ nhạt,
không thể hiện được vai trò là người trọng tài điều khiển việc tranh tụng. Chính
vì vậy mà chất lượng tranh tụng trong các vụ án hình sự còn nhiều hạn chế, việc
tranh tụng chưa thực sự dân chủ và bình đẳng. Điều này làm ảnh hưởng tới
quyền lợi của những người tham gia tố tụng dẫn tới việc xét xử sai, xét xử oan
người vô tội, làm ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và các cơ quan tư pháp.
Do đó, để thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp đang được triển khai sâu
rộng ở các địa phương, việc nghiên cứu để bổ sung những vấn đề về lý luận và
thực tiễn về vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng tại phiên tòa hình sự,
những hạn chế, nguyên nhân để từ đó có những giải pháp nâng cao vai trò của
Thẩm phán trong việc tranh tụng tại phiên tòa là một trong những vấn đề quan
trọng hiện nay. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “ Vai trò của Thẩm phán trong
việc tranh tụng tại phiên tòa hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm
luận văn Thạc sỹ luật học của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề tranh tụng tại phiên tòa và vai trò của Thẩm phán trong việc tranh
tụng tại phiên tòa cũng đã được một số chuyên gia nghiên cứu về luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, các luật gia, các thẩm phán có nhiều năm làm công tác xét xử
nghiên cứu và đề cập đến như : Tiến sỹ Từ Văn Nhũ với bài: Đổi mới thủ tục xét
xử nhằm nâng cao chât lượng tranh tụng tại phiên toà hình sự ( Tạp chí Toà án

nhân dân số 10+11 năm 2002), Thạc sỹ Ngô Hồng Phúc với bài : Vấn đề nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà ( Tạp chí Toà án nhân dân số 2 năm
2003), Thạc sỹ Đinh Văn Quế với bài : Vai trò của Hội đồng xét xử trong việc
tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự, và cuốn sách: “Thủ tục xét xử sơ thẩm
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” Nguyễn Mạnh Tiến với bài: “Bàn về một số
quy định của BLTTHS về tranh tụng tại phiên tòa” (Tạp chí Tòa án nhân dân số
17/2005); Nguyễn Hà Thanh: “Thực trạng tranh tụng hình sự trong tiến trình
cải cách tư pháp hiện nay” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2007); THS Nguyễn
Nông: “Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam” (Tạp chí
Kiểm sát số 9/2003); Ths Nguyễn Trương Tín với bài: “Một số vấn đề về vai trò
của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều
kiện cải cách tư pháp” (Tạp chí Tòa án số 1/2009); Ths Ngô Hồng Phúc: “Vấn
đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa” (Tạp chí Tòa án số 2/2003);
Nguyễn Văn Hiển: “Những điều cần biết về quyền, nghĩa vụ của Thẩm phán
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”; Nguyễn Văn Huyên: “Kỹ năng xét
xử vụ án hình sự”; Nguyễn Thái Phúc: “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh
tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 8/2008; Đỗ Gia Thư: “Yêu cầu nhiệm vụ của ngành Tòa án và quan
điểm xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong giai đoạn mới” (Tạp chí Tòa án số

3


13/2004); Nguyễn Đức Mai: “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh
thần cải cách tư pháp, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Tạp chí Tòa án số
17/2007); Trần Thu Hạnh: “Một số giải pháp nâng cao vị thế đội ngũ Thẩm
phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (Tạp chí luật học
số 25/2009); Ths Nguyễn Văn Trượng: “Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa
hình sự và việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải
cách tư pháp” (Tạp chí Tòa án số 13/2008).

Tuy nhiên những bài viết và các công trình nghiên cứu này chưa làm rõ
được vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét
xử vụ án nói chung và trong việc tranh tụng tại phiên tòa nói riêng... Vì vậy việc
nghiên cứu vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, vai trò của Thẩm phán trong việc
tranh tụng tại phiên tòa có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích của đề tài.
3.1. Về mặt lý luận.
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của Thẩm phán
trong quá trình xét xử vụ án, trong việc tranh tụng tại phiên tòa.
Góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta trong bối cảnh cải
cách tư pháp trên tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị với chủ trương nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
Là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu.
3.2. Về mặt thực tiễn.

4


Thứ nhất, trong quá trình cải cách tư pháp với mục tiêu đổi mới công tác
xét xử, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, cải cách cơ cấu tổ chức Tòa án thì
việc nghiên cứu “vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng tại phiên tòa hình
sự” có ý nghĩa to lớn giúp chúng ta nhìn nhận lại thực tiễn xét xử tại Việt Nam,
vị trí, vai trò của Thẩm phán khi xét xử vụ án hình sự trong thời gian qua để có
những định hướng đúng đắn cho việc thực hiện cải cách tư pháp và xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, nghiên cứu để tìm ra những ưu điểm và những bất cập, tồn tại
của Thẩm phán trong quá trình điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa, để từ đó
có những biện pháp để phát huy những ưu điểm, hạn chế và dần loại bỏ những
tồn tại để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và kỹ

năng xét xử của người Thẩm phán.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề
sau:
Những nét khái quát về vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng tại
phiên toà hình sự: khái niệm, địa vị pháp lý, vai trò của Thẩm phán trong các mô
hình tố tụng trên thế giới.
Quy định của pháp luật và thực tiễn về vai trò của Thẩm phán trong việc
tranh tụng tại phiên toà hình sự: quy định của pháp luật, thực tiễn, những kết quả
đạt được, những hạn chế tồn tại về vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng
tại phiên tòa, nguyên nhân.

5


Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng
tại phiên tòa hình sự: những yêu cầu, định hướng và các giải pháp để nâng cao
vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
Tóm lại, cơ cấu của Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung,
phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó phần nội dung gồm có
ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Thẩm phán trong việc
tranh tụng tại phiên toà hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn về vai trò của Thẩm phán
trong việc tranh tụng tại phiên toà hình sự.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán trong việc
tranh tụng tại phiên toà hình sự:
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận của đề tài: dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và

pháp luật, về cải cách tư pháp trong tình hình mới.
Phương pháp nghiên cứu luận văn dựa vào Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
so sánh, phương pháp chứng minh.
6. Điểm mới về mặt khoa học.
Đây là lần đầu tiên vấn đề “Vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng tại
phiên tòa hình sự” được lựa chọn làm đề tài cho một luận văn thạc sỹ và cũng là
lần đầu tiên vấn đề này được nghiên cứu một cách tổng thể, kỹ lưỡng các vấn đề
liên quan đến Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán trong việc tranh tụng tại

6


phiên tòa. Chính vì vậy, quá trình nghiên cứu tác giả đã không những đưa ra
được những nguyên nhân làm hạn chế vai trò của Thẩm phán khi điều khiển
phiên tòa mà còn đưa ra những giải pháp khắc phục có ý nghĩa thực tiễn cao.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG
VIỆC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM THẨM PHÁN.
1.1.1. Khái niệm:
Trong bất kỳ một nền tư pháp nào, việc đưa ra quyết định một công dân
có tội hay không có tội là một việc làm hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng lớn đến
danh dự, nhân phẩm, tài sản, tính mạng và các quyền, lợi ích của họ quyết định
đến vận mệnh, tương lai, cuộc sống của mỗi con người. Ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, nhiệm vụ quan trọng và nặng nề này thường được trao cho Tòa án,
cơ quan duy nhất có thẩm quyền đưa ra phán quyết đối với một cá nhân vi phạm
pháp luật.
Trong hệ thống tư pháp, Tòa án giữ vai trò đặc biệt, ở hầu hết các nước,

hệ thống Tòa án thường được trao nhiệm vụ bảo vệ các quyền con người nói
chung và quyền công dân nói riêng. Bằng hoạt động của mình, Tòa án có vai trò
quan trọng trong việc giữ gìn và bảo đảm công lý, bảo vệ pháp luật và quyền, lợi
ích của công dân.
Việc quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án
trong đó có án hình sự là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công

7


dân, tránh những việc làm tùy tiện, bởi vì không phải bất cứ ai hay bất cứ tổ chức
nào cũng có quyền kết tội một công dân. Chỉ có Tòa án là cơ quan được pháp
luật của nhà nước quy định có quyền thay mặt nhà nước ra phán quyết một người
là có tội hay không và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Để thực hiện
được nhiệm vụ trên thì Thẩm phán – người trực tiếp giải quyết các vụ án và đưa
ra phán quyết giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Thẩm phán được giao
nhiệm vụ quyết định tối cao về sinh mạng, tự do, các quyền, trách nhiệm và tài
sản của công dân. Trong bản các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về tính
độc lập của tư pháp được Đại hội liên hợp quốc lần thứ 7 về ngăn chặn tội ác và
đối xử với bị can được tổ chức tại Milan từ ngày 26/8 đến ngày 06/9/1985 và
được Đại hội đồng ghi nhận trong Nghị quyết số 40/32 ngày 29/11/1985 và Nghị
quyết số 40/146 ngày 13/12/1985 quy định: “Xét thấy, các Thẩm phán có trách
nhiệm đưa ra quyết định cuối cùng về cuộc sống, sự tự do, nghĩa vụ và tài sản
của công dân”.
Như vậy, hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp
các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán liên quan trực
tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Nó ảnh
hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và những giá trị được
thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động xét xử cần phải
đảm bảo tính cẩn trọng, kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Đây chính là cơ sở của việc Thẩm phán

phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Khi Thẩm phán phải chịu
trách nhiệm về những quyết định của mình thì những quyết định của Thẩm phán
sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lưỡng hơn. Từ đó việc xét xử sẽ đúng người, đúng tội, đảm
bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra.

8


Thẩm phán có vị trí và vai trò quan trọng như vậy. Tuy nhiên từ trước tới
nay chúng ta thường hiểu nôm na rằng Thẩm phán là người làm nhiệm vụ xét xử
các vụ án. Nhưng công việc của Thẩm phán liên quan tới rất nhiều khía cạnh của
đời sống xã hội. Do đó việc tìm hiểu khái niệm "Thẩm phán", địa vị pháp lý của
họ có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về Thẩm phán, người nắm cán cân công lý của toàn xã hội.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm Thẩm
phán:
- Quan điểm thứ nhất: "Thẩm phán, người thầy cuộc sống". Đây là quan
niệm do Visanhsky, người xây dựng ngành tư pháp Nga sau Cách mạng tháng 10
đưa ra. Theo quan niệm này thì Thẩm phán cần phải hội tụ nhiều yếu tố:
Thứ nhất: Thẩm phán phải thấu hiểu hai bộ luật là bộ luật dân sự và bộ
luật hình sự, hai bộ luật gốc, là linh hồn của mọi luật chuyên ngành, của các thể
lệ, các quy định...
Thứ hai: Thẩm phán có trách nhiệm tìm hiểu vụ việc, tìm hiểu đến con
người, bao nhiêu con người, bao nhiêu số phận… các mối quan hệ, các cuộc
tranh chấp giữa người với người muôn hình, muôn vẻ, không việc nào giống việc
nào, không người nào giống người nào. Có lúc nhầm lẫn, có lúc sáng suốt, dần
dần kinh nghiệm được tích lũy, việc hiểu người và việc dần dần mau lẹ và xác
thực.
Thứ ba: Thẩm phán luôn luôn tìm hiểu các quy định của pháp luật, luôn
luôn phân tích việc đời, luôn luôn suy luận về con người, luôn đắm mình vào

việc tìm ra phi trái, đúng - sai, tốt - xấu… thế là mặc nhiên đó là một sư tu
dưỡng, một sự tu dưỡng thường xuyên. Thẩm phán như sinh ra để làm việc này.
Đạo đức do đó, từ đó ngày một hoàn thiện, nhân cách mỗi ngày một nâng cao

9


cao. Họ trở thành người gương mẫu trên mọi mặt, xứng đáng được xã hội tôn
vinh.
Người Thẩm phán nếu ý thức được nhiệm vụ quang vinh của mình, có
lòng yêu nghề nghiệp, lao tâm, khổ tứ, trải qua những thành công và những sai
lầm thì năm năm, bảy năm có thể tiến gần đến cái bục "người thầy của cuộc
sống".
Như vậy, theo quan điểm của Visanhsky thì Thẩm phán được ví như một
người thầy trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, một người có tầm hiểu biết
sâu rộng, có phẩm chất và đạo đức trong sáng, xứng đáng được mọi người coi
trọng và nể phục.
- Quan điểm khác đưa ra khái niệm của Thẩm phán như sau:
"Thẩm phán (Judge) là nhân vật chủ chốt trong hệ thống xử án. Người
đó chỉ đạo việc tiến hành phiên tòa và tuyên bố hình phạt đối với những người
phạm tội" [48].
- Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì khái niệm Thẩm phán
được đưa ra như sau: "Thẩm phán là người có chức vụ của cơ quan Tòa án được
bổ nhiệm theo trình tự luật đinh, thực hiện chức năng xét xử các vụ án".
Như vậy, theo khái niệm này thì Thẩm phán là người có nhiệm vụ xét xử
các vụ án. Quan niệm như vậy thì có phần bó hẹp vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm phán. Bởi vì bên cạnh việc làm nhiệm vụ xét xử các vụ án Thẩm phán
còn phải thực hiện các công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Việc thực
hiện các công việc này có thể theo sự phân công của của lãnh đạo trực tiếp, lãnh
đạo cấp trên hoặc theo chức năng, nhiệm vụ của ngành mình. Chính vì lý do này

mà việc đưa ra khái niệm về Thẩm phán như trên là chưa đầy đủ.

10


- Quan niệm khác cho rằng: Thẩm phán là người của Tòa án có nhiệm vụ
điều tra, hòa giải, truy tố hay xét xử các vụ án. Quan niệm này thể hiện Thẩm
phán thực hiện tất cả các nhiệm vụ để giải quyết một vụ án, từ việc điều tra đến
truy tố, xét xử…Thực tế trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự hay các vụ
án khác, Thẩm phán không thể thực hiện hết tất cả các công việc ngay từ khi một
vụ án bắt đầu. Bởi vì nếu một Thẩm phán có thể giải quyết toàn bộ vụ án thì sẽ
không đảm bảo tính khách quan, toàn diện và trách nhiệm của Thẩm phán trở
nên nặng nề hơn rất nhiều. Do đó quan niệm về Thẩm phán như trên là có phần
phiến diện.
- Bên cạnh đó còn có quan niệm: Thẩm phán là người được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để tiến hành xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án. [22].
- Ngoài những quan niệm về khái niệm Thẩm phán như trên, tại khoản 1
Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân năm 2002 đã đưa ra khái
niệm Thẩm phán như sau: "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án".
Về mặt lý luận: ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới thì
Thẩm phán đều là những người tiến hành xét xử các vụ án. Tùy từng hệ thống
pháp luật khác nhau, tùy mỗi quốc gia mà vai trò của người Thẩm phán khi tiến
hành xét xử các vụ án là khác nhau.
Về thực tiễn: Thẩm phán ngoài việc xét xử các vụ án thì ở một số nước
trong đó có Việt Nam, Thẩm phán còn có trách nhiệm giải quyết những việc
khác thuộc phạm vi thẩm quyền của Tòa án mình. Ví dụ: Giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự ủy quyền của Chánh án; cấp, thu hồi


11


Giấy chứng nhận bào chữa theo sự ủy quyền của Chánh án; nghiên cứu hồ sơ vụ
án.
Như vậy, từ khái niệm trên có thể đưa ra một số đặc trưng về Thẩm phán
như sau:
+ Thẩm phán là người nhân danh công quyền, hoạt động nhân danh nhà
nước, Thẩm phán được coi là một chức danh trong bộ máy nhà nước, Thẩm phán
đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước hiện đại
+ Thẩm phán là người được bổ nhiệm hoặc bầu theo quy định của pháp
luật
+ Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử các vụ án
+ Thẩm phán giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
+ Thẩm phán xét xử đại diện cho niềm tin và hoài bão về một xã hội
công bằng, đại diện cho cái thiện chống lại cái ác.
1.1.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán:
Xét xử là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ không thể thiếu trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là một khâu quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án. Kết quả của hoạt động xét xử là việc ra phán quyết của
Tòa án. Phán quyết của Tòa án có căn cứ hay không và có tính thuyết phục hay
không phụ thuộc rất nhiều vào Hội đồng xét xử, trong đó có Thẩm phán.
Xét từ khía cạnh nhân lực thì hệ thống Tòa án bao gồm nhiều nhân viên
nhà nước làm việc trong đó, như: Thẩm phán chuyên nghiệp, Hội thẩm nhân dân,
Thẩm phán danh dự (ở các nước theo hệ thống pháp luật civil law, Việt Nam gọi
là Hội thẩm nhân dân), Đoàn bồi thẩm (các nước theo hệ thống pháp luật Anh –

12



Mỹ), Thư ký Tòa án… Tất cả những người này đóng góp vào quá trình thực thi
chức năng của Tòa án, tuy nhiên vai trò của họ trong quá trình đó là khác nhau.
Xét về công việc thì có thể coi Thẩm phán là một nghề: Nghề của Thẩm
phán có những đặc trưng riêng biệt khác với những nghề nghiệp khác do những
đặc thù trong áp dụng pháp luật. Vì vậy người Thẩm phán đòi hỏi một bản lĩnh
vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, sự công bằng, vô tư, khách quan.
Xét về vị trí, Thẩm phán là một chức danh tư pháp. Địa vị pháp lý của
Thẩm phán thể hiện trong mối quan hệ nội bộ cơ quan, với những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng và với tư cách là chủ tọa phiên tòa. Trong
mối quan hệ nội bộ cơ quan: Thẩm phán được xếp vào đội ngũ công chức nhà
nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do tính chất đặc
thù công việc của Thẩm phán là làm nhiệm vụ xét xử các vụ án, nên việc đưa
Thẩm phán vào đội ngũ công chức nhà nước cần có nhiều thủ tục khác nhau.
Trên thế giới, tùy thuộc vào từng hệ thống pháp luật khác nhau mà quyền, nghĩa
vụ, địa vị pháp lý, cách thức chọn lựa Thẩm phán là khác nhau:
Theo hệ thống pháp luật Common law thì nguồn bổ nhiệm Thẩm phán là
từ các Luật sư. Tiêu biểu là nước Mỹ và nước Anh: Tuy nhiên ở Mỹ để trở thành
Thẩm phán Tòa án tối cao không nhất thiết phải là Luật sư, thậm chí cũng không
cần phải có bằng Đại học nữa. Nhưng các ứng cử viên vào cương vị này phải trải
qua một quá trình kiểm tra cực kỳ ngặt nghèo, tất cả những phẩm chất, chuyên
môn và cá nhân đều được phân tích kỹ lưỡng và các cơ quan an ninh ra sức điều
tra, tìm hiểu về quá khứ của họ, hoạt động này có thể ví như việc "bới lông tìm
vết". Hiến pháp Mỹ ghi rõ những yêu cầu về độ tuổi, nơi cư trú và quốc tịch của
các ứng cử viên Tổng thống và các Nghị sĩ. Tuy nhiên đối với các Thẩm phán
của Tòa án tối cao thì Hiến pháp lại không có những yêu cầu như vậy, ngoại trừ

13



quy định: ứng cử viên nào cũng phải được Tổng thống đề cử và được đa số trong
Thượng nghị viện phê chuẩn. Kinh nghiệm xét xử, trình độ chuyên môn nghiệp
và thậm chí cả học vấn pháp lý về mặt hình thức cũng không phải là yêu cầu bắt
buộc đối với các ứng cử viên Thẩm phán. Trở thành Thẩm phán của Tòa án tối
cao Mỹ đã là những vị Thẩm phán ở các cấp Tòa án thấp hơn, các Luật sư, các
Công tố viên và các học giả luật học. Đối với Thẩm phán ở Tòa án liên bang thì
trước khi được bổ nhiệm vào giữ chức vụ Thẩm phán Tòa án liên bang, đa số các
Thẩm phán đều đã là Thẩm phán của các Tòa án bang hoặc địa phương, tiếp theo
đó là những người đã làm việc trong các lĩnh vực chính trị hoặc chính quyền,
hoặc thậm chí là trong các hãng luật có quy mô lớn. Các Thẩm phán cũng khác
với toàn bộ công chức nói chung ở chỗ họ có một xu hướng mạnh mẽ về "tính kế
nghiệp". Có nghĩa là các Thẩm phán thường xuất thân từ những gia đình có
truyền thống làm việc trong lĩnh vực tư pháp hoặc dịch vụ công. Khung tuyển
chọn Thẩm phán là như nhau đối với tất cả các Thẩm phán liên bang. Tất cả đều
được bổ nhiệm bởi Tổng thống sau khi tham khảo ý kiến theo đúng quy trình. Để
tuyển chọn Thẩm phán cấp bang thì có 5 con đường đến với chức vụ Thẩm phán
tại bất cứ bang nào. Đó là: tuyển cử theo đảng phái, tuyển cử không qua đảng
phải, tuyển chọn theo công trạng, bổ nhiệm của Thống đốc và bổ nhiệm của cơ
quan lập pháp bang. [49].
Ở Mỹ, để đảm bảo nguyên tắc Tòa án độc lập thì các Thẩm phán đều do
Tổng thống liên bang hoặc do Thống đốc các bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt
đời. Sau khi đã bổ nhiệm với nhiệm kỳ lâu dài sẽ tạo điều kiện bảo đảm cho các
Thẩm phán độc lập khi xét xử, chỉ phụ thuộc vào pháp luật. Khi xét xử các Thẩm
phán của Tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên. Các bản

14


án, quyết định phán xét sai sẽ được xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám

đốc thẩm và tái thẩm.
- Ở Anh, Thẩm phán gồm có Thẩm phán ở tòa án địa phương và Thẩm
phán ở tòa án Trung ương: ở tòa án địa phương thì có Thẩm phán ở tòa hòa giải
và Thẩm phán ở tòa án vùng (quận): Thẩm phán ở tòa hòa giải là những người
hoạt động kiêm nhiệm, không ăn lương, Thẩm phán xét xử các vụ án, các việc
tranh chấp dân sự với giá trị nhỏ. Khi Thẩm phán xét xử các vụ việc không phải
tổ chức điều hoặc có văn bản buộc tội trước. Dựa trên báo cáo của cơ quan cảnh
sát và kèm theo lời khai của bị can, Thẩm phán tự ra quyết định và đưa bản án
vào thi hành ngay. Thẩm phán cấp quận, vùng do nhà vua bổ nhiệm. Nhưng nhà
vua chỉ có thể bổ nhiệm những ứng cử viên Chính phủ và Đảng cầm quyền đề
nghị. Tiêu chuẩn ứng cử viên Thẩm phán là những Luật sư đã có thâm niên hơn
10 năm.
Đối với Thẩm phán của tòa án trung ương (tòa án tối cao) thì đều do Nhà
vua bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Thượng
Nghị viện Anh Quốc. Ứng cử viên phải là những Luật sư có kinh nghiệm và khi
được bổ nhiệm thì Thẩm phán có quyền cho đến khi vẫn còn có khả năng và đạo
đức xứng đáng.
- Ở Pháp: Hệ thống Tòa án gồm có Tòa sơ thẩm, Tòa thượng thẩm và
Tòa án tối cao. Theo đó Thẩm phán ở Pháp cũng gồm Thẩm phán của Tòa sơ
thẩm, Thẩm phán Tòa thượng thẩm và Thẩm phán tòa án tối cao (Tòa phá án).
Tất cả Thẩm phán của Pháp đều do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị
của Hội đồng tối cao Thẩm phán. Hội đồng tối cao Thẩm phán đề nghị Tổng
thống bổ nhiệm Thẩm phán Tòa phá án và Chánh tòa thượng thẩm. Phê chuẩn đề
nghị bổ nhiệm các Thẩm phán khác của các Tòa án. Hội đồng này còn có quyền

15


đề nghị thuyên chuyển các Thẩm phán, xem xét và quyết định các hình thức kỷ
luật Thẩm phán. [12, tr.251].

Khác với các Thẩm phán ở Mỹ, các Thẩm phán Pháp không được bổ
nhiệm thẳng từ những người hành nghề luật có kinh nghiệm mà một Thẩm phán
thường bắt đầu sự nghiệp của mình từ cấp Tòa án thấp nhất trong hệ thống Tòa
án, sau đó được đề bạt lên các chức vụ khác nhau trong hệ thống Tòa án. Các
Thẩm phán ở Pháp được bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời cho đến khi đạt độ tuổi
nghỉ hưu.
- Thẩm phán ở Việt Nam cũng giống như Thẩm phán ở một số nước trên
thế giới (các nước theo hệ thống pháp luật civil law) như Pháp và Đức ở nhiều
khía cạnh như: cũng được bổ nhiệm, cũng là những Thẩm phán xét xử, cũng theo
đuổi sự con đường sự nghiệp giống nhau trong suốt thời gian làm Thẩm phán và
trên hết là được đào tạo về luật luôn là điều kiện tiên quyết để họ được bổ
nhiệm. Ở Việt Nam tồn tại hai hình thức để đưa một người vào chức vụ Thẩm
phán, đó là bổ nhiệm và tái bổ nhiệm. Bổ nhiệm được thực hiện lần đầu tiên đối
với một người vào chức vụ Thẩm phán, còn tái bổ nhiệm được áp dụng khi kết
thúc mỗi nhiệm kỳ Thẩm phán. Đối với một Thẩm phán khi đến thời hạn hết
nhiệm kỳ thì việc được bổ nhiệm hay không cũng có ý nghĩa như việc một người
được bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu tiên.
Trong hệ thống Tòa án Việt Nam, Thẩm phán bao gồm Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án địa phương (bao gồm Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện), Thẩm phán Tòa án
quân sự các cấp (bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự Trung Ương, Thẩm phán
Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực).
Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm và tái bổ

16


nhiệm sau khi được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề
nghị. Thẩm phán Tòa án địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
nhiệm sau khi được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh,

Tòa án nhân dân cấp huyện thông qua và đề nghị. Sau khi được Chủ tịch nước
hay Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, một Thẩm phán sẽ ngay lập tức
được coi là Thẩm phán chính thức. Tuy nhiên để được Chủ tịch nước hay Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm thì phải có sự đồng ý đề của của Hội đồng
tuyển chọn Thẩm phán. Khác với Đức, ở Việt Nam không có Thẩm phán thử
việc và cũng không có thời gian thử việc dành cho Thẩm phán [24].
Theo pháp luật Việt Nam, tiêu chuẩn chung để bổ nhiệm Thẩm phán đó
là: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực,
có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân
luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn,
có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có sức khỏe
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Thẩm phán”.
Bên cạnh tiêu chuẩn chung này theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân năm 2002, để được bổ nhiệm làm Thẩm phán cần phải có
đủ về thời gian công tác pháp luật, về năng lực giải quyết các vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án thì có thể được bổ nhiệm làm
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao.
Về việc tái bổ nhiệm Thẩm phán: Cơ sở quan trọng nhất để phục vụ việc
tái bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay đó là căn cứ vào số lượng án bị hủy và oan sai
bị sửa. Trong một năm thì mức giới hạn án hủy tối đa là 1,16% trong tổng số án

17


giải quyết, trong một nhiệm kỳ thẩm phán cũng như vậy. Khi hết nhiệm kỳ sẽ
dựa vào tỷ lệ án bị hủy và những vấn đề khác nữa để xem xét có tái bổ nhiệm
hay không.
Như vậy, ở Việt Nam để trở thành Thẩm phán và thực hiện quyền hạn và

trách nhiệm của mình thì cần phải có đủ những điều kiện và tiêu chuẩn nhất
định. Với tư cách là người chịu trách nhiệm chính trong việc xét xử các vụ án và
đưa ra các phán quyết nên địa vị pháp lý của Thẩm phán có những đặc điểm khác
với những người tiến hành tố tụng khác. Thẩm phán không những là một công
chức nhà nước mà còn là một người có chức danh tư pháp. Do đó Thẩm phán khi
thực hiện vai trò của mình phải đảm bảo tuân theo các quy định của pháp luật nói
chung và pháp luật về trình tự tố tụng nói riêng. Như Các Mác từng nói “đối với
người Thẩm phán thì vị tư lệnh (hay cấp trên của họ) chính là pháp luật” [24].
1.2. VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG CÁC MÔ HÌNH TỐ TỤNG
TRÊN THẾ GIỚI.
Trên thế giới hiện nay tồn tại ba mô hình tố tụng chính, đó là mô hình tố
tụng tranh tụng, mô hình tố tụng thẩm vấn (xét hỏi) và mô hình tố tụng đan xen
(pha trộn). Trong số đó có khoảng 48% các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn,
1,9% theo mô hình tố tụng tranh tụng, còn lại là mô hình tố tụng đan xen [49].
Bất kỳ mô hình tố tụng nào thì đều có mục đích là tìm ra sự thật của các vụ án,
hay nói cách khác tìm xem sự thật có phải là bị cáo trong vụ án đó đã phạm tội
hay không. Tuy nhiên, mỗi mô hình tố tụng trên có những dấu hiệu đặc trưng
khác nhau, do đó vị trí, vai trò của những chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng
trong đó có Thẩm phán ở từng mô hình tố tụng cũng khác nhau.
1.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong mô hình tố tụng tranh tụng.

18


Mô hình tố tụng tranh tụng tồn tại và phát triển mạnh ở các nước theo hệ
thống thông luật (Common law) như Anh, Mỹ…Mô hình tố tụng này dựa trên
quan điểm cho rằng: Tố tụng là cuộc tranh đấu tại Tòa án giữa một bên là Nhà
nước (thông qua đại diện) và một bên là công dân bị nghi thực hiện tội phạm; là
cuộc tranh đấu thì hai bên đều được sử dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý như
nhau trong việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, phân tích và đưa ra các

kết luận đối với những việc cụ thể. Ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng đòi
hỏi phải rất chính xác và tố tụng có vai trò đặc biệt quan trọng đến mức nhiều
người cho rằng tố tụng tranh tụng là hệ thống coi trọng luật tố tụng hơn luật nội
dung. Trong tố tụng tranh tụng, một số yếu tố có tính chất bắt buộc đó là xét xử
miệng thay vì căn cứ vào hồ sơ vụ án, thẩm tra chéo các nhân chứng và nguyên
tắc đối tụng công bằng. Vì đề cao yếu tố công bằng nên mô hình tố tụng tranh
tụng thiên về bảo vệ lợi ích cá nhân, trong khi đó mô hình tố tụng thẩm vấn
ngoài việc bảo vệ lợi ích con người còn nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng. Do đó
việc nhận tội của bị can, bị cáo là lý do để chấm dứt vụ việc. Chính vì vậy trong
tố tụng tranh tụng cho phép việc “đàm phán nhận tội”. Trong mô hình tố tụng
tranh tụng không tồn tại một hồ sơ vụ án hình sự như trong mô hình tố tụng thẩm
vấn, mà thay vào đó những chứng cứ có giá trị khi được trình bày và thẩm tra
bằng miệng tại tòa và mới được sử dụng để định tội. Bị can, bị cáo được quyền
giữ im lặng tuyệt đối. Bên buộc tội là bên có trách nhiệm chứng minh bị cáo có
tội, bản thân bị cáo không phải chứng minh mình vô tội.
Về trình tự tố tụng: ở giai đoạn tiền xét xử thì bắt đầu khi khởi tố bị can.
Luật sư tham gia ngay từ giai đoạn này. Trong giai đoạn này, bên công tố và bên
bào chữa có quyền điều tra ngang nhau: Bên công tố điều tra để tìm những
chứng cứ buộc tội đối với bị cáo, còn bên bào chữa tìm những chứng cứ để gỡ

19


tội cho bị cáo. Ở giai đoạn này có thể diễn ra việc đàm phán nhận tội. Tức là
công tố viên đàm phán với bên bào chữa để bị cáo nhận một tội nào đó và qua đó
đình chỉ thủ tục tố tụng đối với vụ án hình sự đang giải quyết. Sau khi đàm phán
xong các bên sẽ cùng nhau tới Tòa án để công nhận kết quả đàm phán. Trong
giai đoạn này, sự tham gia của Thẩm phán là không nổi bật. Khi Thẩm phán
tham gia thường là để bảo vệ quyền cơ bản của công dân hoặc là để đảm bào quy
trình tố tụng diễn ra công bằng và trôi chảy. Ví dụ: trong vòng 48 tiếng kể từ khi

bị bắt, bị cáo phải được đưa ra trước Tòa án để xác nhận lại lệnh bắt; nếu luật sư
không được công tố viên chia sẻ hồ sơ hình sự thì luật sư có quyền kiện ra tòa
án… [34, tr 8].
Giai đoạn xét xử: Bắt đầu bằng việc các bên gửi vụ việc đến Tòa án để
yêu cầu Tòa án xét xử. Việc xét xử có Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn. Thẩm phán và
Bồi thẩm đoàn đều không được đọc trước hồ sơ vụ án và đều chưa biết về nội
dung vụ án. Các chứng cứ sẽ được các bên trình bày tại phiên tòa và được kiểm
chứng trước tòa. Trong suốt quá trình xét xử, Thẩm phán có thể ví như “người
trọng tài lạnh lùng” quan sát sự tuân thủ quy tắc cuộc đấu của hai bên và quyết
định bên nào sẽ chiến thắng [30]. Điều này thể hiện ở chỗ: Tại phiên tòa, Thẩm
phán im lặng và gần như không bao giờ hỏi những câu hỏi liên quan đến nội
dung vụ án hay xét hỏi nhân chứng. Thẩm phán cũng không phải là người quyết
định về việc có tội hay không có tội đối với bị cáo mà chỉ quyết định về hình
phạt sau khi bị cáo đã bị kết tội. Thẩm phán chỉ can thiệp vào việc xét xử trong
một số trường hợp như: Khi Thẩm phán cần phải hướng dẫn Đoàn bồi thẩm về
một vấn đề thủ tục (như bỏ qua một chứng cứ không hợp lệ); khi cần phải quyết
định về một vấn đề liên quan tới tính hợp lệ của chứng cứ; quyết định cho phép
hay không có phép tố quyền của một bên nào đó; quyết định các vấn đề pháp lý

20


khác. Tóm lại, trong giai đoạn xét xử Thẩm phán chỉ có vai trò thủ tục, nắm giữ
luật lệ, bảo đảm có một môi trường công bằng cho việc cạnh tranh giữa bên buộc
tội và bên bào chữa. Tuy nhiên, ở một số nước như Mỹ thì về mặt pháp lý, Thẩm
phán cũng có quyền can thiệp vào nội dung vụ án dựa trên thuyết “sai rõ ràng”
(planin error) hay “tính hiệu quả của người bào chữa” (effective assistance of
counsel) để góp ý về bằng chứng như không đủ chứng cứ buộc tội…[34]. Như
vậy, trong giai đoạn xét xử mặc dù vai trò của Thẩm phán đã trở nên tích cực hơn
so với giai đoạn tiền xét xử, song người giữ vai trò chính của giai đoạn này vẫn

là các bên đối tụng của vụ án là công tố và bào chữa. Chính công tố viên và
người bào chữa là những người quyết định về các vấn đề như nhân chứng, trình
tự xét hỏi nhân chứng, nội dung hỏi, xác định vấn đề cần làm rõ của vụ án, đưa
ra tranh luận của mình về vụ án. Và như vậy vai trò của bị cáo là mờ nhạt, bị cáo
thường không phát biểu gì trong suốt phiên xử.
1.2.2. Vai trò của Thẩm phán trong mô hình tố tụng thẩm vấn.
Mô hình tố tụng thẩm vấn xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, trong
các Tòa án tôn giáo và dần dần thâm nhập vào Tòa án thường. Hình thức tố tụng
này phát triển mạnh mẽ ở thời kỳ quân chủ và được sử dụng hầu hết các quốc gia
thuộc Châu Âu lục địa, các nước Mỹ La tinh, Châu Á và Châu Phi không thuộc
khối thịnh vượng chung. Đặc điểm của hình thức tố tụng thẩm vấn được tiến
hành bằng hình thức viết, bí mật, không trực diện; các chức năng tố tụng không
được phân định một cách rõ ràng. Trong hình thức tố tụng này, khi đánh giá
chứng cứ đòi hỏi sự khắt khe và chính xác cao và việc đánh giá chứng cứ thuộc
về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu mô hình tố tụng tranh
tụng dựa vào sự “tranh đấu” của hai bên là Luật sư và công tố viên để tìm ra sự
thật thì mô hình tố tụng thẩm vấn dựa vào trí tuệ của những người chuyên nghiệp

21


gồm Điều tra viên, công tố viên và Thẩm phán để tìm ra sự thật khách quan của
vụ án. Tố tụng thẩm vấn đặt trọng tâm của toàn bộ quá trình tố tụng là tìm kiếm
sự thật và giao việc tìm kiếm sự thật đó cho các cơ quan tiến hành tố tụng gồm
cơ quan điều tra, Viện công tố và Tòa án. Khác với tố tụng tranh tụng, việc tìm
kiếm sự thật thông qua quá trình tranh tụng, đối kháng giữa các bên. Việc xét xử
tập trung vào Tòa án, người buộc tội là một công chức và bị cáo thì hạn chế khả
năng bào chữa, họ không được coi là chủ thể của quá trình tố tụng mà là đối
tượng truy cứu của tố tụng. Trong tố tụng thẩm vấn, các cơ quan tiến hành tố
tụng vừa làm nhiệm vụ buộc tội và gỡ tội. Luật sư có quyền nhưng không có

nghĩa vụ phải trình bày chứng cứ, họ có quyền bổ sung chứng cứ trong việc tìm
ra sự thật của vụ án và để đảm bảo rằng các hoạt động tố tụng diễn ra đúng, các
quyền của bị can, bị cáo được tôn trọng và bảo vệ.
Thẩm phán trong mô hình tố tụng thẩm vấn là người chỉ đạo toàn bộ quá
trình tố tụng, Thẩm phán không chỉ thực hiện chức năng xét xử mà còn thực hiện
cả chức năng điều tra, chức năng buộc tội và một phần nào đó của chức năng bào
chữa. Đồng thời Thẩm phán cũng là người giữ vai trò chủ động. Thẩm phán là
người đưa ra quyết định điều tra khi xảy ra vụ án và là người tìm ra sự thật trên
cơ sở các sự việc và chứng cứ. Như vậy, trong tố tụng thẩm vấn vai trò của Thẩm
phán được đề cao và giữ vai trò quyết định, do đó các chức năng buộc tội và bào
chữa khá mờ nhạt, vai trò của công tố viên buộc tội và luật sư bào chữa thể hiện
một cách thụ động. Sự thật của vụ án chỉ có thể tìm ra trong quá trình thẩm vấn,
điều tra. Phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn không phải là cuộc đấu trí giữa hai bên
buộc tội và gỡ tội mà thực chất là sự tiếp tục của việc điều tra thẩm định chứng
cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Thẩm phán sẽ thực hiện việc thẩm vấn
các nhân chứng một cách tích cực chứ không phai là Công tố viên hay Luật sư

22


bào chữa. Do vậy nhìn chung phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn thường diễn ra
trong thời gian ngắn hơn so với tố tụng tranh tụng.
Đối với các vụ án phức tạp thì sau giai đoạn điều tra sơ bộ còn có giai
đoạn thẩm cứu do một Thẩm phán điều tra đảm nhiệm. Đây là một Thẩm phán
độc lập, không tham gia vào giai đoạn điều tra sơ bộ ban đầu và có nhiệm vụ xác
định sự thật. Do đó mọi chứng cứ đều do một Thẩm phán điều tra độc lập và
khách quan tập hợp, cho dù đó là chứng cứ cho phép kết tội bị can hoặc cho phép
chứng minh sự vô tội của bị can. Mặc dù ở một số nước Châu Âu, chức danh
Thẩm phán điều tra đã được bãi bỏ và nhiệm vụ đó trước giai đoạn xét xử được
giao cho cơ quan công tố và cơ quan điều tra, tuy nhiên Thẩm phán vẫn đóng vai

trò tích cực và chủ động trong công cuộc tìm kiếm sự thật.
Hiện nay một số nước trên thế giới vẫn đang vận hành tốt mô hình tố
tụng này tại quốc gia mình như Pháp, Đức, Bỉ và nhiều nước Châu Âu khác. Tuy
nhiên, tố tụng thẩm vấn hiện nay ở các quốc gia đã khác xa so với thời điểm ban
đầu. Điển hình như Đức đã bãi bỏ Thẩm phán điều tra; Pháp đã áp dụng nhiều
thủ tục mang tính tranh tụng và thêm cả cơ chế hội đồng xét xử là Bồi thẩm đoàn
ở phiên tòa đại hình, đối với phiên tòa đại hình, hồ sơ vụ án không được sử dụng
nữa mà thay bằng việc bên buộc tội và bên bị cáo có trách nhiệm chứng minh,
thẩm tra trực tiếp nhân chứng tại tòa, hội đồng xét xử không được đọc trước hồ
sơ vụ án. Ở Italia đã chuyển đổi hệ thống tố tụng theo mô hình tố tụng tranh tụng
[41].
Tóm lại, trong mô hình tố tụng thẩm vấn thì vai trò của Thẩm phán được
đề cao trong suốt quá trình tố tụng. Thẩm phán không chỉ thể hiện quyền năng tại
phiên tòa hay tại giai đoạn xét xử mà còn có quyền và nghĩa vụ tham gia tích cực
trong giai đoạn điều tra, thẩm tra chứng cứ. Chính vì vậy mà Thẩm phán có vai

23


trò quan trọng, giữ vai trò trung tâm tích cực, chủ động trong toàn bộ quá trình tố
tụng, khác với sự ảnh hưởng gián tiếp của Thẩm phán trong quá trình tố tụng ở
mô hình tố tụng tranh tụng.
1.2.3. Vai trò của Thẩm phán trong mô hình tố tụng đan xen.
Mô hình tố tụng đan xen (pha trộn) là mô hình tố tụng có sự kết hợp lẫn
nhau các yếu tố đặc trưng của mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng
tranh tụng. Có nhiều phương án đan xen khác nhau, tuy nhiên phương án tối ưu
nhất là kết hợp được những yếu tố tích cực của hai mô hình tố tụng tranh tụng và
tố tụng thẩm vấn. Việc đan xen (pha trộn) diễn ra ở các giai đoạn hay tiến trình
của tố tụng hình sự chứ không chỉ ở một phần hay giai đoạn nào đó. Sự đan xen
trong từng giai đoạn cụ thể hay trong toàn bộ tiến trình tố tụng hình sự có thể

thiên về phía các yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn hoặc mô hình tranh tụng
phụ thuộc vào từng quốc gia.
Mô hình tố tụng đan xen có những dấu hiệu đặc trưng như sau: Mô hình
đan xen hình thành trên sự kết hợp các yếu tố tích cực của hai mô hình thẩm vấn
và tranh tụng; sự kết hợp này do tác động của những yếu tố như lịch sử, chính trị
- xã hội, văn hóa….; sự đan xen giữa các yếu tố tích cực, đặc trưng của hai mô
hình tố tụng thẩm vấn và tranh tụng là không giống nhau ở mỗi quốc gia, có thể
thiên về các yếu tố của thẩm vấn ở giai đoạn này hoặc thiên về yếu tố tranh tụng
ở giai đoạn khác.
Trong mô hình tố tụng này, ở giai đoạn trước khi xét xử (khởi tố và điều
tra) các hoạt động tố tụng hầu như được tiến hành bí mật, hạn chế sự tham gia
của những người có liên quan, bị can hầu như bị tách khỏi quá trình tố tụng. Tuy
nhiên, ở giai đoạn xét xử, phiên tòa được tiến hành một cách công khai, quyền
bình đẳng trước phiên tòa và quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo, các bên

24


buộc tội và bên bào chữa có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc đưa ra
những chứng cứ và những yêu cầu. Trong giai đoạn này thì tòa án mà đại diện là
Thẩm phán đóng vai trò là người trọng tài đảm bảo cho các bên thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình.
Quốc gia theo mô hình tố tụng đan xen có thể kể đến như Pháp, Đức,
Bỉ… Ở Pháp hoạt động tố tụng hình sự chia thành hai giai đoạn: giai đoạn trước
tòa án và giai đoạn xét xử của tòa án. Ở giai đoạn trước tòa án thì hoạt động điều
tra là hoạt động của cảnh sát tư pháp do Viện công tố đứng đầu và hoạt động này
có cả Thẩm phán điều tra. Hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự của Pháp pha
trộn giữa các yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tranh tụng [38]. Ở
giai đoạn này quyền của bị can và vai trò của người bào chữa hạn chế. Bí mật
của hoạt động điều tra và những thông tin thu thập được là một nguyên tắc của

luật tố tụng hình sự Pháp. Giai đoạn tố tụng này ở Pháp mang nhiều dấu ấn của
mô hình tố tụng thẩm vấn. Việc xét xử tại tòa án có Bồi thẩm đoàn tham gia, tuy
nhiên vai trò là hạn chế. Tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa (Thẩm phán) là người
thẩm vấn bị cáo và những người làm chứng sau đó mới đến các bên. Thẩm phán
giữ vai trò tích cực, chủ động hơn. Tại phiên tòa có sự phân chia rõ ràng các thủ
tục tố tụng như thẩm vấn, tranh luận. Việc thẩm tra chứng cứ của các bên buộc
tội được tiến hành trước sau đó đến chứng cứ của các bên bào chữa. Tóm lại,
trong mô hình tố tụng hình sự của Pháp, các yếu tố tranh tụng đã thể hiện không
chỉ ở phiên tòa mà còn ở cả giai đoạn điều tra sơ bộ, mặc dù vẫn còn mờ nhạt, và
các cơ quan cảnh sát, Viện công tố, Thẩm phán điều tra vẫn còn có quyền hạn
lớn hơn so với bên bào chữa, chưa có sự bình đẳng thực sự giữa các bên. Xét
một cách tổng quát thì mô hình tố tụng hình sự của Pháp là mô hình tố tụng đan
xen thiên về thẩm vấn.

25


×