Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua tập thơ anh đom đóm của nhà thơ võ quảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.18 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

NGUYỄN THỊ THƯƠNG

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU
GIÁO LỚN THÔNG QUA TẬP THƠ ANH
ĐOM ĐÓM CỦA NHÀ THƠ VÕ QUẢNG
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

NGUYỄN THỊ THƯƠNG

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU
GIÁO LỚN THÔNG QUA TẬP THƠ ANH
ĐOM ĐÓM CỦA NHÀ THƠ VÕ QUẢNG
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non

Người hướng dẫn khoa học: ThS. Vũ Thị Tuyết

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN


Chúng tôi xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy
giáo, cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo Khoa
Giáo dục Mầm non, Giáo dục Tiểu học và đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới cô Th.S Vũ Thị Tuyết - người trực tiếp chỉ bảo tận tình để tôi hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp đại học này.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các cán bộ quản lí thư viện
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho chúng tôi
hoàn thành khóa luận của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Thương


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ đầy đủ

VD

Ví dụ

NXB

Nhà xuất bản


MỤC ỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
7. Cấu trúc đề tài ............................................................................................... 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chư ng : CƠ SỞ

UẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................. 7

1.1. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo lớn .................................................................. 7
1.1.1 Đặc điểm tâm lí ........................................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm sinh lí học................................................................................ 9
1.1.3. Đặc điểm ngôn ngữ học ........................................................................ 11
1.2. Cơ sở ngôn ngữ học ................................................................................. 12
1.2.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................ 12
1.2.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ ........................................................................ 18
1.2.3. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Võ Quảng ....................... 22
1.2.4. Ý nghĩa tập thơ “Anh đom đóm” đối với việc phát triển vốn từ cho trẻ
mẫu giáo lớn .................................................................................................... 24
Tiểu kết chư ng .......................................................................................... 38
Chư ng : IỆN PH P PH T TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GI O
ỚN TH NG QUA TẬP THƠ ANH ĐOM Đ M CỦA VÕ QUẢNG39
2.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn
thông qua tập thơ “Anh đom đóm” của Võ Quảng ......................................... 39
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích....................................................... 39


2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính tích cực của trẻ ............................................. 42

2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp với vốn sống và kinh nghiệm của trẻ ..... 43
2.2 Biện pháp phát triển phát triển vốn từ cho trẻ thông qua tập thơ “Anh đom
đóm” của nhà thơ Võ Quảng ........................................................................... 44
2.2.1 Thông qua hoạt động ngoài trời dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học .... 45
2.2.2 Thông qua hoạt động cho trẻ tham gia vào góc học tập và sách ........... 48
2.2.3. Biện pháp giải nghĩa của từ................................................................... 51
2.2.4 Biện pháp sử dụng đồ dung trực quan ....................................................... 53
2.2.5. Biện pháp sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học ........................... 55
Tiểu kết chư ng .......................................................................................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 60


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai”, trẻ em là niềm vui, niềm hạnh
phúc của mỗi gia đình, là những mầm non tương lai của đất nước. Vì vậy, để
một đứa trẻ phát triển trong môi trường lành mạnh, phát triển đúng hướng và
toàn diện thì việc chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ không chỉ là trách nhiệm
của gia đình mà còn là trách nhiệm của gia đình mà còn là trách nhiệm của
toàn xã hội.
Chúng ta biết rằng, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, nó có tầm quan trọng trong việc đặt nền móng đầu
tiên cho việc giáo dục hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Chính vì
vậy mà bậc học Mầm non được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm với tinh
thần “Hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em”. Cũng vì lẽ đó mà trong
chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ, mục tiêu chung đặt ra là giáo dục trẻ em
phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách và đạt được những chuẩn mực hành vi văn
hóa... Để thực hiện được mục tiêu đó cần phải kể đến sự đóng góp rất lớn của

ngôn ngữ.
Ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người, nó là đặc
trưng chỉ có ở xã hội loài người để phân biệt với các loài động vật khác. Sở dĩ
ngôn ngữ có vai trò quan trọng như vậy bởi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất giữa con người với con người và là phương tiện, là công cụ
để tư duy. Cũng như những lĩnh vực khác, ngôn ngữ cũng có những giai đoạn
phát triển với đặc trưng khác nhau. Trong đó, lứa tuổi mầm non được coi là
giai đoạn vàng để phát triển ngôn ngữ. Bởi vậy, phát triển ngôn ngữ là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là

1


công cụ cơ bản nhất để giúp trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi… Ngôn ngữ là
phương tiện giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức sơ đẳng nhất ở trường mầm non
trước khi trẻ bước vào tiểu học. Và ngôn ngữ đầu tiên của trẻ chính là ngôn
ngữ tiếng mẹ đẻ đúng như nhà giáo dục nổi tiếng người Nga E.I. Tikheeva đã
khẳng định “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở để phát triển trí tuệ và là nguồn gốc để
chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc”
Phát triển vốn từ là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong lĩnh
vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Trong ngôn ngữ, từ là đơn vị trung
tâm, là vật liệu để tạo ý, tạo lời và tạo câu. Để tiếp nhận, giao tiếp bộc lộ
những suy nghĩ, thể hiện ý tưởng một cách hiệu quả nhất phải có vốn từu
chuẩn mực, phong phú.
Thơ ca đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển vốn từ của trẻ.
Những bài thơ hay, những lời ru ngọt ngào, những điệu hò dân giã là môi
trường nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Trẻ em lớn lên trong lời ru ầu ơ của bà
của mẹ, chính những lời ru ấy đã chắp đôi cánh tâm hồn cho trẻ ngày càng
bay xa. Thơ là phương tiện đắc lực bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ mà không có gì
thay thế được. Với nội dung trong sáng lành mạnh, thơ là suối nguồn là dòng

sữa mát lành góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, trí
tưởng tượng cũng như nhu cầu phát triển vốn từ của trẻ. Tóm lại thơ ca có ý
nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục ở mọi lứa tuổi.
Đã có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng có nhiều tác phẩm hay dành cho thiếu
nhi như: Định Hải, Ngô Viết Dinh, Phạm Hổ, ... Nhưng người có công góp
phần làm rạng rỡ bộ mặt nền thơ ca thiếu nhi nước nhà không thể không nói
tới Võ Quảng - một trong số những cây bút xuất sắc trong lĩnh vực thơ thiếu
nhi, Võ Quảng đã tạo được một sự nghiệp văn chương phong phú bao gồm:
thơ, truyện và văn xuôi. Ở tất cả các thể loại Võ Quảng đều đạt được những
thành công quan trọng.

2


Võ Quảng coi việc sáng tác cho trẻ thơ là công việc giản dị. Một việc
bé nhỏ thôi nhưng cần thiết nó góp phần tạo nên tình yêu cái đẹp nơi con trẻ,
phát triển vốn từ giúp các em lớn lên và hoàn thiện chính bản thân mình. Ông
rất yêu trẻ em, nhân vật trong thơ ông là hình ảnh các em bé thơ ngây, hồn
nhiên bước vào đời với bao xúc động, suy nghĩ một cách ngỡ ngàng và lí thú.
Có lẽ vì thế mà các tác phẩm của ông đã đi sâu vào lòng bao thế hệ trẻ và
được lựa chọn đưa vào chương trình giáo dục mầm non nhằm giúp các em
phát triển về mọi mặt đặc biệt về mặt vốn từ.
Từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Phát triển vốn
từ cho trẻ thông qua tập thơ Anh đom đóm của nhà thơ Võ Quảng”. Cũng
nhờ đó tôi tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm kiến thức trong việc chăm sóc,
giáo dục trẻ sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Trẻ nhận được rất nhiều sự quan tâm từ gia đình, nhà trường và xã hội.
Các vấn đề về trẻ em đã được các nhà nghiên cứu khoa học hết sức quan tâm.
Riêng phát triển vốn từ trong chương trình giáo dục mầm non chiếm một vị trí

vô cùng quan trọng vì vậy mà đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học
với những công trình nghiên cứu được xã hội ghi nhận.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa cũng đã cung cấp những tri thức cơ bản và
tiếng việt trong hai tập “Tiếng Việt”, NXB Đại học Sư phạm, 2003, từ đó
giúp giáo viên mầm non có vốn kiến thức cơ bản phục vụ tốt việc phát triển
ngôn ngữ mẹ đẻ cho trẻ mầm non.
Trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” NXB
ĐHSP, năm 2004, tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã nghiên cứu rất kĩ sự phát
triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở những đánh giá chung về đặc
điểm sinh lí của trẻ ở lứa tuổi này, dựa trên mối quan hệ của bộ môn khác, tác
giã đã đưa ra một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non, bao

3


gồm cả vấn đề phát triển vốn từ cho trẻ. Ngoài ra ông còn đưa ra cách sửa lỗi
phát âm và một số trò chơi nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo.
Tiếp theo cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi”
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, của tác giả Hoàng Thị Oanh - Phạm
Thị Việt - Nguyễn Kim Đức đã nói lên tầm quan trọng của ngôn ngữ trong
việc giáo dục toàn diện cho trẻ và nêu sơ lược nội dung, phương pháp, biện
pháp để luyện âm, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đứng ngữ pháp.
Trong cuốn “Tâm lí học lứa tuổi Mầm non”, 2005, tác giả Nguyễn Ánh
Tuyết đã trình bày về sự phát triển vốn từ của trẻ.
Tạp chí “Giáo dục Mầm non” có rất nhiều bài viết về cách tổ chức,
quản lí, những sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên và quản lí ngành Mầm
Non. Trong tạp chí Giáo dục ngành mầm non số 1/2006, tác giả Đinh Thi
Uyên có bài dịch tìm hiểu về phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non Hàn Quốc.
Đây là một góc nhìn mở cho nền giáo dục Mầm non hiện nay.
Tạp chí “Giáo dục Mầm non” số 5/2006, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã

có bài viết “Dạy trẻ học thơ như thế nào?” đã nói về vai trò của thơ ca với trẻ
mầm non đồng thời còn đưa ra một số cách dạy trẻ học thơ rất hiệu quả giúp
cho giáo viên mầm non dạy trẻ thuộc thơ nhanh hơn và giúp trẻ có tình yêu
với thơ ca cũng như nắm được những ý nghĩa sâu sắc của thơ ca.
Tác giả Đinh Hồng Thái trong cuốn “Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm
non”, NXB Đại học Sư Phạm, 2014, cũng chú trọng đến dạy nói cho trẻ, phát
triển ngôn ngữ tiếng Việt như: giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng việt, hình
thành và phát triển vốn từ, dạy trẻ các mẫu câu tiếng Việt, phát triển lời nói
mạch lạc, phát triển vốn từ nghệ thuật thông qua tác phẩm văn học, để tạo tiền
đề tốt cho trẻ chuẩn bị vào lớp một.
Bài “Một số khuynh hướng nghiên cứu về mối liên hệ giữa giới từ và
sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em” của tác giả Nguyễn Thanh Bình đăng trong

4


tạp chí Ngôn ngữ số 1 cũng đề cập đến vốn từ của trẻ về mặt số lượng cũng
như cơ cấu từ loại.
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục “Phát triển vốn từ vựng tiếng việt
cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc H’Mông tỉnh Lào Cai thông qua tập thơ “Góc sân và
khoảng trời của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tác giả Đinh Thị Mận nêu ra một số
biện pháp phát triển vốn từ thông qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời”.
Khóa luận “Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua truyện cổ
tích”, 2013, sinh viên Trần Thị Anh đã đề cập đến một số biện pháp phát triển
vốn từ cho trẻ thông qua một loại hình văn học dân gian – truyện cổ tích.
Khóa luận tốt nghiệp “Mở rộng vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông qua
truyện ngụ ngôn”, 2017, sinh viên Nguyễn Thị Hướng Dương cũng đã đề cập
một số biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ thông qua truyện ngụ ngôn.
Và khóa luận tốt nghiệp đại học “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho
trẻ 5-6 tuổi thông qua tập thơ “Chú bò tìm bạn” của nhà thơ Phạm Hổ”, 2017,

sinh viên Trần Thị Hằng có nêu ra một số đặc điểm vốn từ của trẻ và các biện
pháp để phát triển vốn từ cho trẻ em thông qua tập thơ “Chú bò tìm bạn”.
Như vậy, đã có rất nhiều tác giả, các luận văn tốt nghiệp nghiên cứu về
vốn từ vựng của trẻ mầm non, về những phương pháp để phát triển vốn từ cho
trẻ. Tuy nhiên cho tới thời điểm này vẫn chưa có công trình khoa học nào đi
sâu vào đề tài “Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua tâp thơ “Anh
đom đóm” của nhà thơ Võ Quảng”. Với đề tài này chúng tôi đã tìm được
hướng đi riêng, dựa trên sự hiểu biết của chính bản thân mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài để đưa ra biện pháp phát triển vốn từ cho
trẻ mẫu giáo lớn thông qua tập thơ “Anh đom đóm” của nhà thơ Võ Quảng
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu cùa đề tài,
nghiên cứu chúng tôi đề ra các nhiệm vụ sau:

5


- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ của trẻ lứa tuổi mẫu giáo
lớn thông qua tập thơ “Anh đom đóm” của nhà thơ Võ Quảng.
Trên cơ sở của hai nhiệm vụ trên, chúng tôi đưa ra kết luận và khuyến nghị.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Một số biện pháp phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua tập thơ “Anh đom đóm” của nhà thơ Võ
Quảng.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: những bài thơ Võ Quảng viết cho
thiếu nhi in trong tập “Anh đom đóm”
6. Phư ng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp:

- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp so sánh
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận bao gồm hai
chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Một số biện pháp phát vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông
qua tập thơ “Anh đom đóm” của nhà thơ Võ Quảng

6


NỘI DUNG
Chư ng : CƠ SỞ

UẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.1. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo lớn
1.1. Đặc điểm tâm lí
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi mầm
non. Ở giai đoạn này, những cấu tạo tâm lý đặc trưng của con người đã được
hình thành trước đây, đặc biệt trong độ tuổi mẫu giáo nhỡ, vẫn tiếp tục phát
triển mạnh.
Đứng ở góc độ tâm lý học, các nhà ngôn ngữ thấy rằng: việc tiếp thu ngôn
ngữ có nhiều điểm khác so với tiếp thu kiến thức trong các lĩnh vực khác.
Ngôn ngữ được hình thành từ rất sớm. Ngay từ giai đoạn hài nhi, ở trẻ
đã hình thành những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp với

người lớn ngày càng tăng làm nảy sinh khả năng nói năng của trẻ. Trẻ không
có ý thức về ngôn ngữ nhưng bằng cách bắt chước có tính chất bản năng, trẻ
sẽ học được cách nói của những người xung quanh mình.
Sự phát triển mọi mặt của trẻ mẫu giáo chưa hoàn thiện, còn non nớt.
Hoạt động học tập đòi hỏi sự căng thẳng về mặt trí tuệ và thể lực, đòi hỏi sự
chú ý có chủ định kéo dài, đòi hỏi sự hoạt động nhiều mặt của trẻ. Trẻ 5-6
tuổi, chú ý không phát chủ định phát triển mạnh, chú ý có chủ định đã xuất
hiện nhưng còn hạn chế. Đăc điểm trí nhớ của trẻ mẫu giáo là tính trực quan
hình tượng, tính không chủ định nhờ tác động một các tự nhiên của những ấn
tượng hấp dẫn bên ngoài. Trí nhớ trưc quan phát triển manh hơn trí nhớ từ
ngữ - logic. Ghi nhớ máy móc là đặc điểm nổi bật, trẻ ghi nhớ những sự vật,
hiện tượng cụ thể dễ dàng hơn nhiều so với lời giải thích dài dòng. Vào cuối
tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có một bước biến đổi về chất: trí nhớ chủ định
xuất hiện và phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục đích và phải nhờ đến

7


công cụ tâm lý như sơ đồ, biểu đồ và chữ viết. Biểu tượng của trí nhớ ở trẻ
mẫu giáo lớn mang tính khái quát hơn. Trong quá trình tưởng tượng, trẻ sử
dụng các biểu tượng của trí nhớ.
Ngôn ngữ giúp trẻ biết điều khiển chú ý của mình, biết tự giác hướng
chú ý của mình vào những đối tượng nhất định, khối lượng chú ý tăng và sức
tập chung chú ý trở lên bền vững. Ghi nhớ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng có
chủ đích hơn trẻ mẫu giáo bé. Tuy vậy, cho đến cuối tuổi mẫu giáo, các quá
trình tâm lý không chủ định vẫn tiếp tục chiếm ưu thế trong hoạt động tâm lý
của trẻ, ngay cả hoạt động trí tuệ.
Tư duy và tưởng tượng của con người không thể tách rời ngôn ngữ là
phương tiện của tư duy, ngôn ngữ chính là “dòng tư duy’’. Tư duy của trẻ: tư
duy trực quan - hành động và trực quan hình ảnh, chưa hình thành loại tư duy,

chưa hình thành loại tư duy ngôn ngữ - locgi nên ngôn ngữ của trẻ mầm non
còn hạn chế so với lứa tuổi khác. Ở tuổi ấu nhi, hầu hết trẻ em đều tích cực
hoạt động với đồ vật, nhờ đó trí tuệ, đặc biệt biệt là tư duy phát triển khá
mạnh, đó là tư duy trực quan - hành động. Nhưng đó chỉ là những hành động
bên ngoài, làm tiền đề cho sự hình thành những hành động định hướng bên
trong. Đến tuổi mẫu giáo lớn, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản,
chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành động sang kiểu tư duy trực quan - hình
tượng. Đầu tuổi mẫu giáo, trẻ đã biết tư duy bằng những hình ảnh trong đầu,
nhưng do biểu tượng còn nghèo nàn và tư duy mới đước chuyển từ bình diện
bên ngoài vào bình diên bên trong nên trẻ mới chỉ giải quyết được một số bài
toán hết sức đơn giản theo kiểu tư duy trực quan - hình tượng. Ở tuổi mẫu
giáo nhỡ, trẻ cần trải qua những bài toán ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi
hỏi phải tách biệt và đòi hỏi phải sử dụng mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng và hành động. Trẻ mẫu giáo nhỡ đã bắt đầu đề ra những bài toán trí tuệ
mà không cần sử dụng trực tiếp bằng hành động và biểu tượng, cũng là lúc

8


mà trẻ lĩnh hội những khái niệm mà loài người xây dựng nên, tức là những tri
thức về các dấu hiệu chung và bản chất của sự vật cũng như hiện tượng trong
hiện thực đã được củng cố bằng các từ. Trẻ biểu hiện năng lực trí tuệ qua hoạt
động tổng hợp của lời nói, qua quan sát, chú ý và suy nghĩ bằng năng lực ghi
nhớ liên tưởng và khả năng giải quyết nhiệm vụ thông qua vui chơi sáng tạo.
Tư duy trực quan giải thích trẻ em mẫu giáo bé và đầu mẫu giáo nhỡ có vốn
từ biểu danh là chủ yếu. Tư duy trừu tượng và tư duy logic xuất hiện ở cuối
tuổi thứ năm cho phép trẻ em lĩnh hội những khái niệm đầu tiên - đó là những
khái niệm về sự vật, hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ.
Việc cho trẻ tiếp xúc thơ, đặc biệt là tập thơ Anh đom đóm của nhà thơ
Võ Quảng sẽ giúp tâm hồn trẻ thơ được mở rộng cả về kiến thức lẫn cả vốn từ

cho trẻ mẫu giáo lớn.
1.1.2. Đặc điểm sinh lí học
Cho đến lúc ra đời, bộ não của trẻ chưa phát triển dầy đủ, mặc dù hình
thái và cấu tạo giải phẫu của nó không khác với não người lớn là mấy. Ở trẻ
sơ sinh: não bộ có kích thước nhỏ, khoảng 370 - 392g (1/8, 1/9 trọng lượng cơ
thể). Trong 9 năm đầu, trọng lượng não của trẻ tăng lên gấp đôi lúc sơ sinh:
trẻ 3 tuổi, tăng gấp 3 và đa số các tế bào thần kinh đã được biệt hóa.
Học thuyết về các hệ thống tín hiệu đã khẳng định: Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt động đặc biệt của vỏ bán cầu đại não. Hệ
thống tín hiệu thứ hai có được nhờ những kích thích trừu tượng như ngôn ngữ,
lời nói, chữ viết, …Việc phát triển ngôn ngữ phải liên quan mật thiết tới việc
phát triển và hoàn thiện bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung. Trong 3
năm đầu là kết thúc sự trưởng thành về mặt giải phẫu vùng não chỉ huy ngôn
ngữ, vì thế phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc mới đạt kết quả tốt.
Để có thể giao tiếp tốt, chúng ta không thể k kể đến bộ máy phát âm.
Mỗi con người sinh ra đã có sẵn bộ máy phát âm, đó là tiền đề vật chất để sản

9


sinh âm thanh ngôn ngữ. Đó là một trong những điều kiện vật chất quan trọng
nhất mà thiếu nó không thể có ngôn ngữ; nếu như cấu tạo của nó có một
khiếm khuyết nào đó (chẳng hạn như sứt môi, hở hàm ếch, ngắn lưỡi …) thì
việc hình thành lời nói cũng hết sức khó khăn. Khi sinh ra, mỗi con người
không phải có bộ máy phát âm hoàn chỉnh. Chính lứa tuổi mầm non là giai
đoạn hoàn thiện dần dần bộ máy đó: sự xuất hiện và hoàn thiện của hai hàm
răng, sự vận động của môi, lưỡi, của hàm dưới…Quá trình đó diễn ra tự nhiên
theo các qui luật sinh học, nó phát triển và hoàn thiện cùng với sư lớn lên của
trẻ. Trong thực tế có những em cùng sinh ra nhưng có em có ngôn ngữ phát
triển rất tốt, có em nói ngọng. Có sự khác nhau như thế là do bộ máy phát âm

khác nhau và quá trình chăm sóc giáo dục cũng khác nhau. Trẻ nói ngọng là do
bộ máy phát âm chưa hoàn thiện. Tuy nhiên bộ máy phát âm hoàn chỉnh mới chỉ
là tiền đề vật chất. Cùng với thời gian, quá trình học tập, rèn luyện, một cách có
hệ thống sẽ làm cho bộ máy phát âm đáp ứng được nhu cầu thực hiện chuẩn mực
âm thanh ngôn ngữ. Cấu tạo bộ máy phát âm bao gồm: dây thanh và các hộp
cộng hưởng phía trên thanh hầu. Âm sắc và tiếng nói do tính chất của âm xác
định và phụ thuộc vào khoang cộng hưởng của phần trên các bộ phận thanh
quản, họng, khoang miệng, mũi. Bộ máy phát âm của trẻ phát triển chưa đầy đủ,
các bộ phận tạo thành tiếng nói chưa liên kết chặt chẽ nên trẻ còn phát âm chưa
chuẩn, không chính xác. Do đó, việc nghiên cứu bộ máy phát âm để tìm hiểu
vốn từ cho trẻ. Ở tuổi mẫu giáo, do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở
rộng trong những năm trước đây, tai nghe âm vi được rèn luyện thường xuyên
để tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn nói, mặt khác cơ quan phát âm đã
trưởng thành tới mức trẻ có thể phát âm tương đối chuẩn kể cả những âm khó
của tiếng mẹ đẻ khi nói năng. Trẻ mẫu giáo đã biết sử dụng vốn từ một cách
phù hơp với nội dung giao tiếp trọn vẹn nhất.

10


1.1.3. Đặc điểm ngôn ngữ học
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là
phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một
cộng đồng. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt
truyền thống văn hóa - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lênin từng khẳng
định: Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là một
hoạt động đặc trưng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất. Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống con người, nhờ ngôn ngữ
mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những
kinh nghiệm, tâm sự cho nhau những nỗi niềm thầm kín. Không có ngôn ngữ,

con người không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được, nhất là trẻ
em, một sinh thể yếu ớt càn được chăm sóc và bảo vệ của người lớn.
Ngôn ngữ là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một
thành viên của xã hội loài người. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui
chơi. Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng
của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo
dục trẻ là một điều kiện rất quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và
trong hoạt động hình thành nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ cần cho tất cả những
hoạt động của trẻ và ngược lại, mọi hoạt động tạo điều kiện thúc đẩy ngôn
ngữ cho trẻ phát triển.
Ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mầm non chủ yếu là ngôn ngữ nói, vì thế
sự phát triển vốn từ của trẻ phụ thuộc rất lớn và việc áp dụng thơ ca vào trong
dạy học cho trẻ. Trong hoạt đông học tập khi mà trẻ được nghe những bài thơ
đó sẽ giúp trẻ mở rộng vốn từ một cách đơn giản và dễ dàng nhất. Bởi lẽ trẻ
mầm non rất dễ bắt nhịp với những vần điệu nhẹ nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc như
những bài thơ trong tập thơ “Anh đom đóm” của nhà thơ Võ Quảng viết cho
thiếu nhi. Cũng nhờ đó cần làm giàu vốn từ cho trẻ bằng những từ mới, giải

11


thích những từ khó cho trẻ dễ hiểu. Đào sâu, cung cấp, chính sách hóa vốn từ
cho trẻ hiểu chính xác nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ cho trẻ hiểu chính xác
nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ cho trẻ, trang bị cho trẻ vốn từ sống động.
Bằng vốn ngôn ngữ của mình trẻ có thể biểu đạt sự hiểu biết của mình cho
người lớn hiểu và hiểu được ý nghĩa câu nói của người lớn. Trong công tác
giáo dục mầm non, người lớn cần có ý thức rèn luyện và phát triển vốn từ cho
trẻ thông qua các hoạt động, học tập thường xuyên liên tục và mọi lúc mọi nơi.
1.2. C sở ng n ngữ học
1.2.1. Các khái niệm c bản

a, Khái niệm về từ
Một số quan điểm định nghĩa về từ:
- Từ là đơn vị có hai mặt âm thanh và ý nghĩa, là đơn vị có sẵn trong hệ
thống ngôn ngữ, được dùng để gọi tên và để cấu tạo.
- Từ là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái
hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu.
- Từ là đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ. Từ là đơn vị nhỏ nhất, cấu tạo ổn
định, mang ý nghĩa hoàn chỉnh, được dùng để cấu tạo nên câu. Từ đó có thể làm
tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất
(tính từ), … Từ là công cụ biểu thị khái niệm của con người đối với hiện thực.
Trong cuốn “Cơ sở tiếng Việt”, Hữu Đạt đã đưa ra định nghĩa về từ như sau: Từ
chính là hệ thống vốn từ của một ngôn ngữ. Nói cách khác, từ vựng là tập hợp tất
cả các từ ngữ cố định trong một ngôn ngữ theo một hệ thống nhất định.
- Cho đến nay trong ngôn ngữ học cách các định nghĩa về từ đã được đưa
ra không ít, song đây là định nghĩa về từ được sử dụng rộng rãi nhất: “Từ của
tiếng Việt gồm một số âm tiết cố định bất biến mang theo những đặc điểm ngữ
pháp nhất định lớn nhất trong hệ thống ngôn ngữ và nhỏ nhất để cấu tạo thành
câu” của tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt”.

12


b, Phân loại từ
b.1, Phân loại từ theo cấu tạo
b1.1, Từ đơn
- Khái niệm: Từ đơn là do một tiếng có nghĩa tạo nên.
- Phân loại:
+ Đơn âm: từ đơn chỉ có một âm tiết như ngày, tháng, năm.
+ Đa âm: từ đơn có hai âm tiết trở lên như ra-đi-ô, pê-từđan, … (chủ
yếu là những từ phiên âm tiếng Pháp).

b1.2, Từ phức
Là từ được tạo thành từ tiếng hay âm tiết, từ phức bao gồm: từ ghép và
từ láy.
b1.2.1. Từ ghép
- Khái niệm: từ ghép là những từ được cấu tạo nên bởi hai hay nhiều
tiếng ghép lại với nhau để tao thành nghĩa.
- Phân loại
+ Từ ghép chính phụ: có tiếng chính và tiếng phụ, tiếng phụ bổ sung ý
nghĩa cho tiếng chính. Tiếng chính đứng trước, tiếng phụ đứng sau.
VD: ông nội, bà ngoại …
+ Từ ghép đẳng lập: có các tiếng bình đẳng với nhau về mặt ngữ pháp,
không phân biệt ra tiếng chính, tiếng phụ.
VD: bàn ghế, giày dép, chăn gối, …
b1.2.2, Từ láy
- Khái niệm: Là từ phức được tạo ra do phối hợp các tiếng có âm đầu
hoặc âm vần (hoặc cả âm và vần) giống nhau.
- Phân loại:
+ Dựa vào bộ phận được lặp lại có 3 kiểu từ láy: láy âm đầu, láy vần,
láy hoàn toàn.

13


VD: láy âm đầu: lung ling, long lanh, xào xạc, …
láy vần: lao xao, lịch kịch, …
láy hoàn toàn: ào ào, xanh xanh, …
+ Dựa vào số lượng âm tiết trong một từ có 3 loại từ láy: láy đôi, láy
ba, láy tư.
VD: láy đôi: xinh xắn, xanh xao, …
láy ba: sạch sành sanh, sát sàn sạt, dửng dừng dưng…

láy tư: vớ va vớ vẩn, ngớ nga ngớ ngẩn, tí ta tí tửng, …
b.2. Phân loại theo đặc điểm ngữ pháp
Căn cứ vào tiêu chí phân định từ loại và ý nghĩa cửa từ loại, từ được
chia thành ba nhóm:
b.2.1. Nhóm 1
Thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng chân thực và có thể làm thành
phần câu gọi là thực từ. Nhóm từ này gồm: danh từ, động từ, tính từ.
b.2.1.1 Danh từ
Là từ loại bao gồm những từ có ý nghĩa khái quát sự vật. Đó là những
từ chỉ vật thể - người, động vật, thực vật, đồ vật, những hiện tượng tự nhiên,
hiện tượng xã hội và những khái niệm trừu tượng… được con người nhận
thức và phản ánh như các vật thể tồn tại trong hiện thực. Danh từ bao gồm:
danh từ riêng và danh từ chung.
- Danh từ riêng: Là danh từ gọi tên sự vật, hiện tượng cụ thể riêng biệt,
thường đứng sau danh từ chung làm định ngữ cho danh từ chung.
Danh từ riêng bao gồm: tên riêng chỉ người, tên địa danh, tên con vật,
tên sự vật.
VD: Thái Bình, Nguyễn Mai Linh …
- Danh từ chung: là những từ biểu thị tên gọi cho hang loạt các sự vật,
hiện tượng không phải cho các sự vật, hiện tượng đơn lẻ.
VD: ngôi nhà, cô giáo, học sinh, …

14


b.2.1.2. Động từ:
Là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, trạng thái nhất định
của sự vật, hiện tượng.
Động từ bao gồm: động từ độc lập và động từ không độc lập.
- Động từ độc lập: là những động từ tự thân đã có nghĩa. Chúng có thể

dùng độc lập, không cần một động từ khác đi kèm, và có thể giữ chức vụ làm
thành phần chính của câu.
VD: đi, chạy, tặng, …
- Động từ không độc lập: là những động từ thường không đứng một
mình, đảm nhiệm vai trò ngữ pháp trong câu, mà phải cùng với một động từ
khác hoặc cụm từ đi sau làm thành tố phụ.
VD: có thể, cần, phải, …
b.2.1.3 Tính từ
Là những thực từ biểu thị tính chất, đặc trưng của sự vật, hiện tượng về
các phương diện như hình thể, màu sắc, kích thước…
- Tính từ không xác định theo thang độ: chúng có khả năng kết hợp với
các phụ từ chỉ mức độ. Bản thân chúng đã hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối về dặc
trưng tính chất hoặc là đặc trưng ấy không có gì để so sánh.
VD: trên, dưới, trái, phải, …
- Tính từ chỉ tính chất đặc trưng theo thang độ: chúng có khả năng kết
hợp với các phụ từ chỉ mức độ bao gồm:
+ Tính từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ, tím, vàng, …
+ Tính từ chỉ kích thước: dài, ngắn, …
+ Tính từ chỉ mùi vị: thơm, ngọt, …
+ Tính từ chỉ tính chất vật lí: lỏng, rắn, mềm, …
+ Tính từ chỉ phẩm chất: tốt, xấu, …
+ Tính từ chỉ đặc điểm tâm lí: hiền, dữ, lành, …

15


+ Tính từ chỉ đặc điểm sinh lí: khỏe, yếu, …
+ Tính từ chỉ trí tuệ: thông minh, khôn, tinh ranh, …
b.2.2. Nhóm 2
Hư từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, mà chỉ có tác

dụng làm công cụ ngữ pháp để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau của từ.
Nhóm này gồm: phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ, …
b.2.2.1. Phụ từ
Là những hư từ không dùng để gọi tên các sự vật hiện tượng trong thực
tế khách quan mà chỉ có chức năng dẫn xuất hoặc biểu niệm tình thái.
- Phân loại: căn cứ vào bản chất ngữ pháp của các hư từ mà phụ từ
thường đi kèm có thể chia phụ từ thành hai nhóm:
+ Phụ từ chuyên phụ cho danh từ: là những hư từ mà ý nghĩa chỉ số. Bổ
sung ý nghĩa về mặt số lượng cho danh từ, ví dụ: các, mọi, những, …
+ Phụ từ đi kèm với động từ và tính từ: các phụ từ này làm thành tố phụ
trước hoặc thành tố phụ sau, bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho động từ, tính từ, ví
dụ như: đang, hơi, lắm, thế giới khách quan mà chỉ để liên kết, để nối từ với
các từ, cụm từ với cụm từ, câu với câu.
- Quan hệ từ: là những hư từ không dùng để gọi tên các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan mà chỉ để liên kết, để nối từ và các từ, cụm từ
với cụm từ, câu với câu.
- Phân loại:
+ Quan hệ từ dùng để biểu thị quan hệ đẳng lập: dùng để nối kết các
thành phần có quan hệ đẳng cấp.
VD: cùng, và, với, …
+ Quan hệ từ dùng biểu thị quan hệ chính phụ: dùng để kết nối các
thành tố chính và thành tố phụ.
VD: tuy, dù, thì, …

16


b.2.2.3 Tình thái từ
Là những từ chỉ thái độ, tình cảm của người nói đối với nội dung của
câu nói hoặc đối với người dùng tham gia hoạt động giao tiếp.

- Phân loại:
+ Tình thái từ nghi vấn: à, ừ, hả, …
+ Tình thái từ cầu khiến: nhé, nào, đi, …
+ Tình thái từ biểu thị sắc thái tình cảm: cơ, mà, nhé, …
+ Tình thái từ cảm than: sao, biết bao, …
b.2.3. Nhóm 3: lớp từ trung gian gồm: đại từ và số từ
b.2.3.1. Đại từ
- Đại từ có chức năng để xưng hô, để trỏ, hoặc thay thế (cho danh từ,
động từ, tính từ).
- Tùy theo từng trường hợp cụ thể, đại từ thay thế cho từ thuộc từ loại
nào thì mang đặc điểm ngữ pháp của từ loại đó.
VD: Tôi ăn cơm. Nó cũng thế. (Thế là đại từ dùng để thay thế cho cụm
động từ “ăn cơm”, nên thế mang đặc điểm ngữ pháp của động từ và làm vị
ngữ trong câu.
Các tiểu loại đại từ:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng, có thể tách đại từ thành các tiểu loại
như sau:
+ Các đại từ xưng hô: tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng mày, chúng nó, nó,
hắn, họ, chúng nó, …
+ Các đại từ chỉ định: ấy, này, kia, đó, nọ, …
+ Các đại từ để hỏi: ai, cái gì, bao giờ, sao, bao nhiêu… Các đại từ để
hỏi còn được dùng theo nghĩa phiếm chỉ: chúng không nhằm để hỏi, mà chỉ
chung mọi người, mọi sự vật, mọi nơi chốn, thời gian, … nhưng không ám
chỉ một đối tượng nào cụ thể.

17


VD: Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành
+ Các đại từ thay thế: thế, vậy, …

- Đại từ có khả năng thay thế cho từ loại nào thì có thể giữ những chức
vụ giống như từ loại ấy, cụ thể:
+ Các đại từ xưng hô có khả năng thay thế cho danh từ do đó chúng có
thể giữ chức vụ như danh từ trong câu
+ Các đại từ xưng hô có khả năng thay thế cho động từ, tính từ do đó
chúng có thể giữ chức vụ như tính từ, động từ trong câu.
b.2.3.2. Số từ
Là những từ loại dùng để chỉ số lượng và thứ tự của sự vật nào đó.
- Phân loại:
+ Số từ chỉ số lượng của sự vật, ví dụ: ba quyển sách, hai cái bút, …
+ Số từ chỉ thứ tự của sự vật, ví dụ: canh bốn, canh năm, …
Ngoài ra, từ còn được phân loại theo một số cách khác:
- Phân loại theo nghĩa: từ đồng nghĩa và trái nghĩa.
- Phân loại theo nguồn gốc: Từ thuần Việt, từ Hán -Việt, …
- Phân loại theo phạm vi sử dụng: Từ toàn dân, từ địa phương.
1.2.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ
Ngôn ngữ là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một
thành viên của xã hội loài người. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui
chơi. Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng
của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo
dục trẻ là một điều kiện rất quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và
trong hoạt động hình thành nhân cách của trẻ.
Lúc đầu, ngôn ngữ của trẻ chỉ là những từ riêng lẻ xuất phát từ sự nhận
thức thế giới xung quanh. Trẻ chưa thể nói thành câu hoàn chỉnh. Qua quá
trình tiếp xúc với mọi người xung quanh, vốn từ của trẻ tăng lên, trẻ học được

18


cách nói của người lớn, lúc đó trẻ mới nói được câu hoàn chỉnh. Với mỗi cá

nhân, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra rất nhanh ở giai đoạn 0 - 6 tuổi (lứa tuổi
mầm non). Từ chỗ sinh ra chưa có ngôn ngữ, đến cuối 6 tuổi - trẻ đã có thể sử
dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hang ngày. Ở giai đoạn này nếu
không có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngôn ngữ thì sau này
khó có thể phát triển tốt được.
a, Vốn từ xét về mặt số lượng
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các
giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ.
Trẻ sơ sinh chưa hiểu được ngôn ngữ của người lớn. Ở giai đoạn này, trẻ
mới bắt đầu cảm nhận ngữ điệu, giọng nói của người mẹ. Khi trẻ được 7-8
tháng, trẻ bắt đầu biết tên mình. Đến 10-11 tháng, trẻ bắt đầu hiểu một số từ chỉ
các sự vật, người mà trẻ thường xuyên tiếp xúc. Từ tháng 12 trở đi, nhu cầu
giao tiếp của trẻ với thế giới xung quanh ngày càng tăng lên, bên cạnh các âm
bập bẹ xuất hiện các từ chủ động đầu tiên. Ở 18 tháng tuổi, số từ bình quân là
11 từ, trẻ bắt chước người lớn học lại một số từ đơn giản như: mẹ, bà, ba, …
Từ 19-21 tháng, môi trường tiếp xúc của trẻ được mở rộng, trẻ được
làm quen với nhiều sự vật, hiện tượng, số lượng từ của trẻ được tăng lên rõ
rệt. Đến 21 tháng, trẻ đạt tới 22o từ. Giai đoạn 21-24 tháng, tốc độ chậm lại,
chỉ đạt 234 từ. Vào tháng 24, sau đó tăng tốc độ, 30 tháng đạt 434 từ, 36
tháng đạt 486 từ.
Theo tác giả Đinh Hồng Thái trong cuốn “Phương pháp phát triển lời
nói cho trẻ em” nghiên cứu:
Đến năm thứ 3, trẻ đã sử dụng được trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động
từ, tính từ và các loại khác rất ít, danh từ chỉ đồ chơi, đồ dung quen thuộc.
Các con vật gần gũi như: mèo, chó, chim… động từ chỉ hoạt động với
trẻ và những người xung quanh như: ăn, uống, ngủ, đi,…

19



×