Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đảng bộ tỉnh ninh bình lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.2 KB, 84 trang )

x

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

BÙI THỊ PHƯỢNG

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo
phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015” em đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ.
Trước tiên cho phép em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ
Trần Thị Chiên - người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh
nghiệm cho em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, các thầy cô trong Khoa Giáo dục Chính trị đã tạo mọi điều kiện cho em
hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Đồng thời, cho em gửi lời cảm ơn đến các cô, các chú tại các cơ quan trực
thuộc tỉnh Ninh Bình đã giúp đỡ em trong quá trình khảo sát thực tế.
Sau cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ em trong quá trình làm khóa luận


Em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét của quý thầy, cô để khóa
luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị
Phượng



LỜI CAM ĐOAN

Đề tài khóa luận“ Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển giáo dục
- đào tạo từ năm 2005 đến 2015” được thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS.
Trần Thị Chiên. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi. Kết quả thu được trong đề tài là hoàn toàn trung thực và không trùng
với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị Phượng


DANH MỤC VIẾT TẮT

Kí hiệu viết tắt

Nội dung viết tắt


BTTHPT

Bổ túc trung học phổ thông

CNH,HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSCN

Cộng sản chủ nghĩa

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

GDMN

Giáo dục mầm non

HĐND

Hội đồng nhân dân

THCS

Trung học cơ sở

TTGDTX


Trung tâm giáo dục thường xuyên

TCCN THPT

Trung cấp chuyên nghiệp trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................. 8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ .............. 8
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NINH BÌNH .................................................. 8
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................... 8
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 19
Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM
2015 ........................................................................................................... 30
2.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình ......................... 30
2.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình chỉ đạo phát triển giáo dục - đào
tạo từ năm 2005 đến năm 2015 .............................................................. 39
Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ......................... 53

3.1. Một số nhận xét ............................................................................... 53
3.2. Một số kinh nghiệm ........................................................................ 68
KẾT LUẬN ............................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp phát triển chung của toàn nhân loại, giáo dục - đào tạo
luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là chìa khóa dẫn tới
một cuộc sống tốt đẹp hơn, một thế giới tiến bộ hơn mà còn góp phần vào việc
lưu giữ và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền bá
văn minh nhân loại. Ngày nay với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, đặc biệt
là sự phát triển của nền kinh tế tri thức, giáo dục - đào tạo là động lực chính
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội, là nguồn lực quan trọng quyết định vị
thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Chính vì vậy, các quốc gia đều rất coi
trọng sự phát triển của giáo dục - đào tạo.
Việt Nam là một nước có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, do đó
giáo dục - đào tạo đã khẳng định được vai trò của mình trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo, ĐCSVN rất
quan tâm đến vấn đề giáo dục - đào tạo, coi giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu với quan điểm giáo dục của dân, do dân, vì dân, giáo dục gắn chặt
với nguyện vọng, lợi ích của cộng đồng. Ngay từ khi mới thành lập, ĐCSVN
có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục - đào tạo. Trong suốt quá
trình lãnh đạo phát triển, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN mặc dù còn một số
hạn chế nhưng giáo dục - đào tạo ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan
trọng: thực hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài; góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý
tưởng cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng

xã hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục được tăng cường;
chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có tiến bộ;
hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá

1


nhanh…. Những thành tựu đó góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất
nước.
Là một tỉnh nhỏ nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam với những
khu du lịch nổi tiếng, Ninh Bình được nhiều người biết đến với khá nhiều nơi
hấp dẫn khách du lịch như: khu du lịch Bái Đính - Tràng An, Tam Cốc Bích
Động…Bên cạnh đó việc nâng cao dân trí, giáo dục toàn dân cũng được tỉnh
chú trọng, chính vì thế thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo, ngay sau khi tái lập tỉnh (1992), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình tập trung lãnh
đạo đẩy mạnh sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo. Quá trình thực hiện sự
nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình đã đạt được thành tựu quan
trọng, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh
thành tựu đạt được, sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Ninh Bình còn một số bất
cập và hạn chế nhất định về quy mô, chất lượng và đội ngũ giáo viên... Hơn lúc
nào hết, việc nhận thức đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng về giáo dục - đào tạo, vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể
của địa phương đã và đang là vấn đề quan tâm đặc biệt của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Do đó, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển
giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015 nhằm đánh giá đúng những thành
tựu và hạn chế, đồng thời đúc rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở cho việc lãnh
đạo, chỉ đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh trong những năm tiếp theo là
một việc cần thiết. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Giáo dục - đào tạo có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân
tộc, là “chìa khoá” để tiến vào tương lai; đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu

2


tư cho phát triển. Do đó, đã có nhiều học giả trong và ngoài nước, dưới các góc
độ nghiên cứu khác nhau bàn đến vấn đề giáo dục - đào tạo. Có thể kể đến một
số nhóm công trình nghiên cứu sau:
Nhóm các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu nước ngoài nghiên
cứu về giáo dục - đào tạo Việt Nam:
Tổ chức Văn hoá - Khoa học - Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
với dự án: “Nghiên cứu tổng thể về giáo dục - đào tạo. Phân tích nguồn lực
VIE 89/022” Dự án đã triển khai điều tra,nghiên cứu công phu với các phương
pháp và cách tiếp cận khoa học trên mọi bình diện của công tác giáo dục - đào
tạo ở Việt Nam và đã xác định được 7 vấn đề gay gắt của giáo dục Việt Nam
cần được giải quyết là: suy giảm số lượng và suy thoái chất lượng mọi bậc học
trong hệ thống giáo dục quốc dân; quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục nghề nghiệp
và kỹ thuật với sản xuất và việc làm; việc giảng dạy và bố trí mạng lưới đại học
không thích hợp với yêu cầu xã hội, quan hệ không chặt chẽ giữa đại học với
nghiên cứu, sản xuất và việc làm; đội ngũ giáo viên có nhiều yếu kém và khó
khăn trong công việc; nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo
dục và đào tạo thiếu thốn, sử dụng không hiệu quả; hệ thống tổ chức, quản lý,
pháp chế về giáo dục - đào tạo không thích hợp; sự phù hợp của giáo dục - đào
tạo với xã hội chuyển đổi.
Dự án “Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục - đào tạo Việt Nam hiện nay”.
Được tiến hành trong 2 năm 1991 - 1992. Dự án đã đánh giá tình hình giáo
dục - đào tạo ở Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế của nền giáo

dục - đào tạo Việt Nam giai đoạn 1991 - 1992.
Ngân hàng thế giới (WB) cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam tổ
chức hội thảo với chủ đề “Lựa chọn chính sách cải cách giáo dục đào tạo” tại
Hà Nội (8/1993). Chủ đề đã nghiên cứu sự tác động của các nguồn lực, các
chính sách lớn đến giáo dục, trong đó chú trọng đến vấn đề giáo dục của Việt
Nam.

3


Nhóm các nhà khoa học Việt Nam bàn đến vấn đề giáo dục - đào tạo ở
Việt Nam:
Hồ Chí Minh, Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972. Tác
phẩm đã tập hợp nhiều bài viết của Người bàn về công tác giáo dục. Sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tập sách này là tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục.
Võ Nguyên Giáp, Mấy vấn đề về khoa học và giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1986. Bài viết đã nêu lên những nhiệm vụ và phương hướng chiến lược của các
cấp học, từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, từ giáo dục kĩ thuật công nghệ
đến giáo dục lao động sản xuất, từ giáo dục hướng nghiệp đến giáo dục kĩ thuật tổng hợp, chuyên nghiệp… Đặc biệt bài viết quan tâm đến giáo dục miền núi, đặc
biệt là ở những vùng căn cứ cách mạng, vùng khó khăn.
Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1999. Trong cuốn sách, một lần nữa vai trò của giáo dục - đào tạo được
tiếp tục khẳng định và để sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển mạnh mẽ cần
có sự nhận thức đúng đắn, sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân và có được những
chính sách hữu hiệu nhất.
Bài viết “Phát triển mạnh mẽ giáo dục- đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước” của đồng chí Đỗ Mười đăng trên tạp chí Nghiên
cứu giáo dục ( tháng 1/1996) cũng đã khẳng định: muốn đưa sự nghiệp CNH
đất nước nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát triển nhanh sự

nghiệp giáo dục - đào tạo.
Nhóm công trình nghiên cứu về Ninh Bình và về giáo dục - đào tạo tỉnh
Ninh Bình:
Năm 2005, cuốn “Lịch sử Đảng bộ Ninh Bình”, tập 2 (1975-2005) được
xuất bản đã phản ánh lịch sử Đảng bộ tỉnh, trong đó có đề cập khái quát về giáo
dục Ninh Bình trong 25 năm kể từ khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất

4


nước. Lịch sử Đảng bộ Ninh Bình đã đề cập tới một số nội dung liên quan đến
giáo dục - đào tạo như số lượng trường, lớp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Những số liệu đó là những tư liệu cần thiết cho tác giả trong việc nghiên cứu
đề tài về giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục : “Các giải pháp thực hiện phổ cập
giáo dục bậc trung học của tỉnh Ninh Bình đến 2015” của tác giả Ngô Thành
Hưng (năm 2007) trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát đánh giá thực trạng
của công tác phổ cập giáo dục đã đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi
thực hiện phổ cập bậc trung học ở tỉnh Ninh Bình đến 2015 đáp ứng yêu cầu
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của địa phương.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của hiệu trưởng các trường trung học phổ
thông thành phố Ninh Bình” của tác giả Nguyễn Hữu Tính (năm 2008) đã
nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học của các trường trung
học phổ thông trên địa bàn thành phố Ninh Bình và đề xuất các biện pháp quản
lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục “Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình đến năm 2020” của tác giả

Đinh Hữu Lục (2008) đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp quản lý nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Ninh Bình.
Luận văn thạc sĩ lịch sử “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo sự nghiệp Giáo
dục từ năm 1996 đến năm 2010” của tác giả Nguyễn Thị Phương Tuyết (2013)
đã nghiên cứu những chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng bộ Ninh Bình đối với
nền giáo dục từ năm 196 đến năm 2010 đồng thời rút ra nhận xét, kinh nghiệm
cho nền giáo dục của tỉnh trong giai đoạn 1996 - 2010.

5


Năm 2010, Ban tuyên giáo Ninh Bình và Viện Khoa học xã hội Việt Nam
đã phát hành cuốn “Địa chí Ninh Bình”, gần 1500 trang với 6 phần, đã trình
bày một cách có hệ thống các lĩnh vực như địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, hệ
thống chính trị, quốc phòng, an ninh...của tỉnh Ninh Bình. Trong đó đã đề cập
một cách khái quát nhất đến giáo dục Ninh Bình qua từng thời kỳ lịch sử từ
thời kỳ phong kiến đến nay.
Các công trình nghiên cứu kể trên dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau
đã làm rõ được vị trí, vai trò cũng như thực tiễn giáo dục - đào tạo ở Việt Nam
cũng như ở Ninh Bình. Đây là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo cũng như kế
thừa trong quá trình viết khóa luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ chủ trương, quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình về phát triển giáo dục từ năm 2005 đến năm 2015, tác giả đúc
rút một số kinh nghiệm góp phần phát triển giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình
trong giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục - đào tạo ở Ninh
Bình

- Phân tích, làm rõ chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vận
dụng đường lối, chủ trương của Đảng phát triển giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình
từ năm 2005 đến năm 2015.
- Đánh giá kết quả và hạn chế của sự nghiệp phát triển giáo dục từ năm
2005 đến năm 2015; đúc rút một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
trong lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
trong phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: khóa luận tập trung nghiên cứu làm rõ chủ trương và sự
lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình.
- Về thời gian: khóa luận nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2015. Tuy
nhiên, lịch sử là một quá trình, giai đoạn sau có liên quan đến giai đoạn trước.
Vì vậy, trong phạm vi khóa luận, tác giả có đề cập đến thực trạng phát triển
giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình trước năm 2005.
- Về không gian: tác giả nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận: khóa luận dựa trên lý luận của CN Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh mà chủ yếu là phép biện chứng duy vật.
* Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp:
+ Phương pháp lịch sử: trình bày đúng quan điểm, chính sách, sự chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về phát triển giáo dục - đào tạo.
+ Phương pháp logic: nhằm phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm của
Ninh Bình trong quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 2005

đến 2015.
+ Phương pháp khác: thống kê, tổng hợp dữ liệu, so sánh và đưa ra nhận
định.
6. Đóng góp khoa học của khóa luận
- Bước đầu khái quát những chủ trương, chính sách, sự chỉ đạo thực hiện
của ĐCSVN và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về sự phát triển giáo dục - đào tạo.
- Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, tìm hiểu về vấn đề giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình, từ đó giúp Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình thực hiện tốt hơn vai trò lãnh đạo của mình trong quá trình lãnh
đạo thực hiện phát triển giáo dục - đào tạo trong giai đoạn mới.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của khóa luận gồm 3 chương và 6 tiết.

7


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NINH BÌNH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về giáo dục
V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng và phát triển những tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về giáo dục - đào tạo trong thực tiễn cách mạng nước Nga,
trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào những thập niên đầu
của thế kỷ XX. Tại Đại hội Toàn Nga về công tác giáo dục lần thứ nhất diễn ra
vào ngày 28/8/1918, V.I.Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của công tác giáo
dục, coi đó là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thắng lợi trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,V.I.Lênin nói: “Sự nghiệp của nhà trường

chúng ta cũng là đấu tranh đánh đổ giai cấp tư sản; chúng ta tuyên bố công
khai rằng: nói nhà trường đứng ngoài cuộc sống, ngoài chính trị, là nói dối và
lừa bịp” [29; tr.92 - 93].
Ông cũng chỉ ra rằng “Những người lao động khao khát có tri thức, vì tri
thức cần cho họ để chiến thắng. Chín phần mười quần chúng lao động đã hiểu
rõ rằng tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của họ, rằng
sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức; rằng giờ đây việc làm cho mọi người có
thể thực sự được học hành, là do bản thân họ quyết định. Sự nghiệp của chúng
ta sẽ thắng vì bản thân quần chúng đã bắt tay xây dựng một nước Nga mới, xã
hội chủ nghĩa” [29; tr.92 - 93].
Một trong những điều kiện cơ bản, tiên quyết để nâng cao năng suất lao
động là phải nâng cao trình độ học vấn và văn hóa cho quần chúng nhân dân
lao động. Điều này, chỉ có thể thực hiện được và thực hiện đạt hiệu quả tối ưu
nhất là thông qua giáo dục và bằng giáo dục. Nhận thức một cách sâu sắc tầm

8


quan trọng của công tác giáo dục trong sự nghiệp chấn hưng đất nước nên trong
Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nga tháng 2/1919 ở nội dung nói về
nền giáo dục quốc dân, V.I.Lênin viết:
“Trong lĩnh vực giáo dục quốc dân, Đảng Cộng sản Nga tự đặt cho mình
nhiệm vụ phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng tháng Mười 1917 đã bắt đầu
nhằm biến nhà trường từ một công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản
thành một công cụ để đập tan nền thống trị đó, cũng như để hoàn toàn xoá bỏ
sự phân chia xã hội thành giai cấp. Nhà trường phải trở thành một công cụ của
chuyên chính vô sản, nghĩa là nhà trường không những phải truyền bá những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản nói chung, mà còn phải là một công cụ truyền
bá ảnh hưởng về tư tưởng, về tổ chức và giáo dục của giai cấp vô sản vào
những tầng lớp nửa vô sản và không phải vô sản trong quần chúng lao động,

nhằm hoàn toàn đập tan sự kháng cự của bọn bóc lột và thực hiện chế độ cộng
sản,... Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất” [30; tr.141 142].
V.I.Lênin cho rằng, khi cách mạng mới thành công, bước đầu củng cố
chính quyền thì nhiệm vụ của công tác giáo dục là tuyên truyền và giáo dục về
tư tưởng, chính trị là chủ yếu. Khi cách mạng bước sang giai đoạn hoà bình,
xây dựng đất nước thì nhiệm vụ của công tác giáo dục cũng phải có sự thay đổi
theo cho phù hợp. Sự thay đổi đó thể hiện ở chỗ: công tác giáo dục và đào tạo
phải luôn gắn liền, bám sát với thực tiễn cuộc sống, giáo dục và đào tạo phải
trở thành đòn bẩy, thành công cụ, thành nguồn nội lực bên trong của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Tư tưởng giáo dục tổng hợp là tư tưởng giáo dục có ý nghĩa hết sức to lớn
đối với thời kỳ CNH, HĐH ở Nga. Cuối năm 1920, khi nhận xét bản “Đề cương
báo cáo về giáo dục” của Crúpxcaia, V.I.Lênin viết:
Bất cứ trong hoàn cảnh nào, chúng ta phải mau chóng từng bước chuyển

9


sang giáo dục kỹ thuật tổng hợp... để mang lại cho học sinh một tầm nhìn kỹ
thuật tổng hợp và các tri thức cơ bản ban đầu của giáo dục kỹ thuật tổng hợp,..
cụ thể là các bài giảng về điện, điện khí hoá, về nông học, về hoá học. Kết hợp
với tham quan nhà máy, nhất là nhà máy điện, nông trường, bảo tàng kỹ thuật...
Tư tưởng này thực hiện trong thực tế, xuất phát từ nguyên lý giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất do C.Mác và Ph.Ăngghen tổng kết thời kỳ đầu cách
mạng công nghiệp. V.I.Lênin và các nhà giáo dục Nga đã đưa lên thành nguyên
tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, chỉ đạo việc tổ chức
nhà trường và tiến hành hoạt động giáo dục, giảng dạy. Từ đó, tất cả các trường
phổ thông đều mang tính chất giáo dục lao động và giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
Bên cạnh những quan điểm về giáo dục và đào tạo nêu trên, V.I.Lênin còn
đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng:“Học, học nữa, học mãi”, đã trở thành câu châm

ngôn của hàng triệu, triệu các thế hệ không chỉ của nền giáo dục ở Nga, mà còn
là khẩu hiệu của nền giáo dục ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam.
Không những đưa ra những khẩu hiệu về giáo dục, Lênin còn bàn đến nội
dung của giáo dục một cách sâu sắc và cụ thể. Ông cho rằng, để đào tạo con
người phát triển toàn diện, theo quan điểm của Mác, cần quan tâm đặc biệt tới
giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất, thẩm mĩ, tổ chức giáo dục lao động và giáo
dục đạo đức:
Về giáo dục đạo đức
Ông cho rằng, phát triển tư tưởng của Mác về giáo dục đạo đức trong hoàn
cảnh mới, cũng cần phải phân tích thật sâu sắc tính gai cấp, tính lịch sử của đạo
đức với tư cách nó là một hình thái ý thức xã hội. Ông đã kiên quyết bác bỏ
quan điểm cho rằng đạo đức là vĩnh hằng, bất biến. Theo Lênin, mỗi thời kì
lịch sử, mỗi giai cấp trong xã hội có những chuẩn mực đạo đức riêng biệt (tất
nhiên có kế thừa những phần tốt đẹp. Lênin cho rằng giáo dục cộng sản là giáo

10


dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỉ luật trong lao
động và hoạt động tập thể vì người khác, khẳng định giáo dục lòng yêu tổ quốc
XHCN và tinh thần quốc tế vô sản có một ý nghĩa cực kì to lớn trong việc hình
thành phẩm chất nhân cách con người XHCN. Giáo dục đạo đức CSCN cho thế
hệ trẻ, trước hết là trách nhiệm của nhà trường Xô Viết, của Đoàn Thanh niên,
Đội thiếu niên tiền phong, của đội ngũ thầy cô giáo, cán bộ Đảng, cán độ Đoàn,
các thế hệ cách mạng lớn tuổi phải tỏ ra xứng đáng là tấm gương trong sáng
cho thế hệ trẻ.
Về giáo dục trí tuệ ( trí dục)
Nói đến vấn đề giáo dục trí tuệ cần phát triển quan điểm của Mác, Lênin
coi trí dục là thành phần, là nội dung cơ bản của giáo dục cộng sản, vũ trang

cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học cơ bản, hệ thống, hiện đại, bồi dưỡng
cho họ năng lực nhận thức, phát triển trí tuệ… là nhiệm vụ chủ yếu của nhà
trường Xô Viết. “Học, học nữa, học mãi” đó là lời huấn thị của Lênin đối với
chúng ta. Người đòi hỏi thế hệ trẻ hiểu chủ nghĩa cộng sản không phải là học
thuộc lòng những khẩu hiệu về chủ nghĩa cộng sản của người khác đặt ra, mà
đó phải là những vấn đề, những kết luận do chính chúng ta tự rút ra.
Lênin nói rằng không thể tin vào việc dạy dỗ, giáo dục - đào tạo nếu như
chỉ đóng khung trong bốn bức tường của nhà trường, sự học tập tách khỏi cuộc
sống và công cuộc xây dựng CNXH của dân tộc. Những tác phẩm của Lênin
đề cập tới vấn đề lí luận nhận thức có một ý nghĩa quan trọng đối với việc xây
dựng lí luận dạy học XHCN. Kết luận của Lênin cho rằng“từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con
đường biện chứng nhận thức chân lí khách quan…” đã chi phối toàn bộ quá
trình tổ chức dạy học trong nhà trường XHCN.
Dựa vào nhận thức luận của Lênin với tư cách là cơ sở phương pháp luận
của mình, giáo dục học xã hội chủ ngĩa đã giải quyết những vấn đề bản chất

11


của quá trình dạy học, mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính, vai trò của thực tiễn trong quá trình dạy học. rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ
của các dạng lao động xã hội chuyên biệt. Bàn đến nội dung của trí dục, Lênin
không bàn đến thật chi tiết như những nhà sư phạm chuyên ngành, nhưng những
ý kiến của Người là chỉ thị có tính chiến lược trong việc xây dựng nội dung trí
thức các môn học trong nhà trường. Tháng 2 - 1919, Lênin nói “thiết lập nền
giáo dục phổ thông để giới thiệu những tri thức lí luận và thực tiễn về tất cả
các ngành chủ yếu của nền sản xuất xã hội”. Từ đó đến nay tư tưởng trên của
Người đã quán triệt sâu sắc trong quá trình dạy học, lựa chọn nội dung các môn
học, nguyên tắc, phương pháp, tổ chức, hình thức dạy và học của nhà trường

XHCN.
Về vấn đề giáo dục lao động và kĩ thuật tổng hợp
Trước hết, Lênin cho rằng giáo dục lao động, tổ chức lao động sản xuất,
giáo dục kĩ thuật tổng hợp có quan hệ mật thiết với nhau. Nó vừa là nội dung (vì
các mặt đó có những đòi hỏi nội dung cần rèn luyện) vừa là nguyên tắc giáo dục
XHCN. Vì đó là quan điểm cần quán triệt toàn bộ quá trình giáo dục dạy học, tổ
chức lao động sản xuất, giáo dục kĩ thuật phải được coi như phương tiện đào tạo
con người XHCN. Tư tưởng rèn luyện đạo đức, nhân cách qua lao động và hoạt
động xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đào tạo thế hệ trẻ thành người lao
động mới. Có thể thấy, Lênin là người ý thức rất sâu sắc việc kết hợp quá trình
giáo dục với lao động sản xuất và giáo dục kĩ thuật tổng hợp, có như vậy mới
đào tạo được thế hệ lao động trẻ cho CNXH. Khi phân tích vai trò của lao động
và giáo dục kĩ thuật tổng hợp, Lênin đã đánh giá cao tác dụng của nó đối với các
mặt giáo dục khác như trí dục, đức dục. Những lời giáo huấn của Lênin về giáo
dục lao động, giáo dục kĩ thuật tổng hợp và mối liên quan giữa chúng trong đào
tạo giáo dục thế hệ trẻ là kim chỉ nam trong xây dựng nhà trường Xô Viết trong
những thập kỉ qua.

12


Hiện nay, ở Việt Nam cũng các nước đang tiến hành cải cách giáo dục,
những tư tưởng giáo dục của Lênin lại có ý nghĩa thời sự nóng bỏng, bởi lẽ
chúng không đơn thuần là nội dung giáo dục mà đó là những nguyên tắc của
giáo dục XHCN.
Ngoài những nội dung đức dục, trí dục, lao động và kĩ thuật tổng hợp,
Lênin cũng rất quan tâm tới thể dục, quân sự, giáo dục thẩm mĩ. Bản thân Lênin
là một tấm gương về sự kết hợp rèn luyện, tự hoàn thiện mọi mặt để trở thành
người phát triển cân đối hài hòa nhân cách, năng lực trí tuệ, thể chất, tình cảm,
ý chí.

Như vậy, cả C.Mác. Ph.Ănghen và V.I.Lênin đều khẳng định vai trò to
lớn của giáo dục - đào tạo đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và sự tác
động trở lại của phát triển kinh tế - xã hội đối với giáo dục - đào tạo, chỉ rõ ý
nghĩa lớn lao và vai trò quyết định của giáo dục - đào tạo đối với việc phát triển
con người, nguồn lực con người nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH của mỗi
quốc gia nói riêng.
1.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục
Tiếp thu, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về giáo dục, sinh
thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục, Người đã khẳng định “
Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [20; tr.8] và “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa” [20; tr.359]. Con người
mà Bác mong muốn đào tạo không chỉ có lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh
anh dũng, có lí tưởng cách mạng, phẩm chất, đạo đức mà còn phải có tri thức
khoa học, kĩ năng lao động sản xuất... Có như vậy thì dân tộc ta mới có sức
mạnh tinh thần và thể chất để vượt bao khó khăn, gian khổ trong chinh phục
thiên nhiên, chiến thắng ngoại xâm, đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc, văn
minh, tiến bộ, thích ứng với thời đại mới, xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
không những đã chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta xây dựng một nền giáo dục mới,

13


mang tính chất dân chủ nhân dân tiến tới xã hội chủ nghĩa, mà Người còn đề
cập đến tất cả các vấn đề liên quan đến giáo dục từ nội dung đến nguyên tắc,
phương pháp giáo dục.
Thứ nhất, về nội dung giáo dục
* Giáo dục chính trị tư tưởng
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục chính trị tư tưởng cần phải được cụ thể hóa,
phù hợp với từng cấp học, ngành học, phù hợp với chương trình và mục tiêu
đào tạo. Người nhắc nhở phải coi trọng việc học tập lý luận, coi lý luận là kim

chỉ nam để thực hiện tiến hành công việc thực tế.Theo Người, giáo dục chính
trị - tư tưởng là phải làm cho mọi người thấm nhuần về cái học đích thực, cái
học hữu dụng và khái niệm về tri thức hoàn toàn. Người viết:
“Một người học xong Đại học có thể gọi là có tri thức. Song y không biết
làm ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết nhiều việc
khác. Nói tóm lại: công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức
một nửa. Tri thức của y là tri thức học sách, chưa phải tri thức hoàn toàn. Y
muốn trở thành người tri thức hoàn toàn phải đem tri thức đó áp dụng vào thực
tế” [22; tr.235].
Người khuyên không được say mê kinh nghiệm mà tách rời lý luận, đồng
thời khi đã thu hoạch được lý luận thì phải áp dụng lý luận vào thực tế. Người
viết:
“Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sang, một mắt
mờ… Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp
dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng vạn quyển lý luận nếu
không biết đem ra thực hành thì khác nào một cái hòm đựng sách” [22;
tr.234].
Người nhắc nhở phải coi trọng việc học tập lý luận, coi lý luận là kim chỉ
nam để thực hiện tiến hành công việc thực tế, Người nhắc: “Không có lý luận

14


thì lung túng như nhắm mắt mà đi… vì kém lý luận cho nên gặp mọi việc không
biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý cho khéo. Không biết nhận rõ
điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình thế nào làm thế ấy. Kết quả thường
thất” [22; tr.234].
* Giáo dục đạo đức cách mạng
Cũng như giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục đạo đức là nền tảng trong
giáo dục, không loại trừ bất cứ trường hợp nào, kể cả thầy cô giáo và học trò,

người huấn luyện cũng như người được huấn luyện. Người chỉ rõ: “Đạo đức
cách mạng là ở bất cứ cương vị nào, bất cứ cương vị gì đều không sợ khó, không
sợ khổ, đều một long, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân,
đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội” [24; tr.216].
Đối với thanh niên, học sinh, Người đã xác định rèn luyện nhân cách theo
mục tiêu:
“Yêu Tổ quốc: Cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc chúng ta kiên quyết
chống lại
Yêu nhân dân: Việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của nhân
dân, chúng ta kiên quyết chống lại
Yêu lao động: Ai khinh rẻ lao động, chúng ta kiên quyết chống lại…
Yêu khoa học: Cái gì trái với khoa học, chúng ta kiên quyết chống lại
Yêu đạo đức: Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác,
hăng hái, cần kiệm, xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành
động” [23; tr.398 - 399].
* Giáo dục văn hóa, trình độ chuyên môn
Ngày 8/9/1945, không đầy một tuần sau ngày độc lập, Người ký ba sắc
lệnh quan trọng về giáo dục, trong đó có sắc lệnh 20/SL“Cưỡng bách học chữ
quốc ngữ không mất tiền”.Tha thiết với sự nghiệp khai sáng dân tộc, nâng cao
dân trí, trong “Lời kêu gọi toàn quốc chống nạn thất học” Chủ tịch Hồ Chí

15


Minh đã khởi động cho toàn dân sự hiếu học theo phương châm mới:
“Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới…Trước hết phải biết đọc, biết viết…Người chưa biết chữ
hãy gắng sức mà học cho biết đi.Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì
anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn, người làm không biết thì chủ
nhà bảo” [21; tr.37].

* Giáo dục thể chất và sức khỏe
Hồ Chí Minh coi giáo dục sức khỏe như một quyền sống cao nhất. Sức khỏe
là hạnh phúc của mỗi người, mỗi dân tộc. Dân cường nước mới thịnh. Trong bài
Tết trung thu với nền độc lập, Người khuyên các cháu:“Phải siêng học tập thể
thao cho mình nở nang” [21; tr.16]. Theo Người việc rèn luyện học tập nói chung
và rèn luyện thể thao nói riêng, trước hết phải bắt đầu từ nhận thức về trách
nhiệm và nghĩa vụ, phải tự nguyện, tự giác. Người viết: “Luyện tập thể dục, bồi
bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Việc đó không tốn kém,
không khó khăn gì.Gái, trai, già, trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi
ngày lúc ngủ dậy, tập một ít thể dục. Ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông,
tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe” [21; tr.212].
Trong bài Sức khỏe và thể dục, Người chỉ rõ:“Giữ gìn dân chủ, xây dựng
nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành
công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân
khỏe mạnh, tức là cả nước khỏe mạnh” [21; tr.212].
* Giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của mỹ học có nhiệm vụ
quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới ở nước ta,
mà mục tiêu là đào tạo nên những chủ thể thẩm mĩ mới. Cùng với giáo dục
chính trị, giáo dục tri thức khoa học, giáo dục lao động, giáo dục thể chất…,
giáo dục thẩm mỹ đã xây dựng những nhân cách cao đẹp, có lối sống lành

16


mạnh.
Ngoài ra, trong vấn đề phát triển thể lực của con người, Hồ Chí Minh còn
chú trọng đến vấn đề phát triển con người Việt Nam về mặt thẩm mỹ. Con
người sinh ra không chỉ có nhu cầu tồn tại mà còn có nhu cầu phát triển, vươn
tới những cái mới, cái đẹp. Nhu cầu đó tỷ lệ thuận với sự phát triển đi lên của

xã hội loài người. Trình độ thẩm mỹ, khả năng sang tạo, làm đẹp cho bản thân
và cộng đồng, khả năng cảm nhận những giá trị sáng tạo của con người và loài
người là một trong những biểu hiện mang tính nhân văn cao của con người.
Trong vấn đề phát triển năng lực thẩm mỹ của con người, Hồ Chí Minh
chủ trương việc bồi dưỡng và nâng cao sự hiểu biết của con người trong đó
trước hết phải chú trọng đến việc bồi dưỡng và giáo dục những giá trị truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói, phát triển năng lực và nâng cao
trình độ thẩm mỹ của con người Việt Nam là một nội dung quan trọng trong
nội dung về xây dựng và phát triển con người toàn diện.
Như vậy, giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo
dục, là một quá trình hướng con người tới các giá trị chân - thiện - mỹ thông
qua việc hình thành các quan hệ thẩm mỹ đúng đắn với hiện thực, đánh giá và
sáng tạo thẩm mỹ.
Thứ hai về nguyên tắc, phương pháp giáo dục
Khi bàn về nguyên tắc, phương pháp giáo dục, Hồ Chí Minh đề cập đến 4
nguyên tắc, phương pháp sau:
Một là, học phải đi đôi với hành
Là một nhà giáo dục Hồ Chí Minh thấy rõ ý nghĩa to lớn của học kết hợp
với hành. Bởi theo Người, nó không chỉ là sự củng cố mà còn mở rộng những
triển vọng mới trong việc nhận thức thực tiễn và cải tạo thực tiễn, hình thành
nhân cách con người mới. Người thường xuyên nhắc nhở: Học phải đi đôi với
hành. Người khuyên học sinh không nên học vẹt, học gạo. Theo Người, nếu kết

17


hợp được phương pháp này thì người học sẽ đạt được hiệu quả cao. Vì cùng
một lúc sẽ hình thành cả tri thức lẫn kỹ năng thực hành.
Hai là, lý luận gắn liền với thực tiễn
Trong quá trình giáo dục và chỉ đạo giáo dục, Hồ Chí Minh thường nhắc

nhở mọi người phải tránh căn bệnh lý luận, Người nói:“Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [24; tr.496]. Người chỉ rõ, nếu kém lý
luận hoặc coi khinh lý luận, không gắn lý luận với thực tiễn thì chúng ta rất dễ
mắc phải căn bệnh chủ quan, duy ý chí. Với Hồ Chí Minh việc gắn liền lý luận
với thực tiễn chính là quy luật hình thành nhân cách con người.
Ba là, học tập kết hợp với lao động sản xuất
Nếu như nhà trường của chế độ cũ chỉ đào tạo ra những con người mọt
sách, coi khinh lao động, tách rời lao động chân tay. Thì ngược lại, nhà trường
XHCN phải đào tạo ra lớp người mới, vừa biết kết hợp lao động trí óc với lao
động chân tay, Người dạy: “Lao động chân tay cũng phải có văn hóa, mà người
lao động trí óc cũng phải làm được lao động chân tay và lao động chân tay
không có trí óc thì đó là người bán thân bất toại” và “Nhà trường của chúng
ta là nhà trường xã hội chủ nghĩa, đó là nhà trường học đi đôi với lao động”
[25; tr.295].
Bốn là, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội
Đây là một định hướng lớn trong phương pháp giáo dục. Con người sinh
ra và lớn lên trong môi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Ở mỗi môi trường
như vậy đều diễn ra quá trình giáo dục, giáo dưỡng con người. Mặc dù ở mỗi
môi trường đều có những phương pháp giáo dục đặc thù, song tất cả đều góp
vào hình thành nhân cách con người toàn diện.

18


Năm 1950, trong bài Nói về công tác chuẩn bị huấn luyện và học tập, trả lời
câu hỏi “Học ở đâu”, Người nói:“Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và
học nhân dân. Không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn” [23; tr.98].

Năm là, gắn giáo dục với tự giáo dục
Trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, Người để lại những ý kiến rất
quý báu về vấn đề tự học, tự đào tạo.
Bản thân cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về quá
trình tự học, tự đào tạo. Người đến với chủ nghĩa cộng sản bằng một quá trình
tự học. Tới dự Đại hội VII Quốc tế cộng sản (1935) với bí danh là Lin, khi khai
thác lý lịch trả lời câu hỏi: trình độ học vấn (tiểu học, trung học, đại học), Người
ghi: Tự học. Tiếp theo câu hỏi: Đồng chí biết ngoại ngữ nào? Người ghi: Anh,
Pháp, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga. Năm 1959 nói chuyện với sinh viên Đại học
Bắc Dung (Inđônêxia) về tự học, Người kể: tôi sẽ nói vài lời với các bạn. Khi
còn trẻ không có dịp đến trường học. Tôi đã đi du lịch và để làm việc, đó là
trường Đại học của tôi. Trường đại học ấy đã dạy cho tôi khoa học xã hội…
khoa học quân sự… lịch sử… chính trị…
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người là phải thường xuyên tự học
tập: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời… Không ai có thể tự cho mình
đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày
càng tiến bộ cho nên chúng ta tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”
[24; tr.215].
Trên đây là những cơ sở lý luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Những tư tưởng đó là ngọn đèn pha soi sáng con đường đổi mới sự nghiệp giáo
dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm lịch sử tự nhiên, văn hóa, xã hội tỉnh Ninh Bình
* Đặc điểm lịch sử tự nhiên

19


×