Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận hôn nhân gia đình và sự biến đổi từ truyền thống đến hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.28 KB, 24 trang )

Họ và tên:
Môn học:
Giảng viên hướng dẫn:
Trường:
Nội dung chuyên đề: “Hôn nhân gia đình và sự biến đổi từ truyền thống đến hiện
đại”
Bài làm
1. Khái niệm gia đình và mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
1.1. Khái niệm
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết
chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục … giữa các thành
viên.
Gia đình là phạm trù xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người; Gia đình là một
thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ bản nhất của xã hội. liên
quan đến hoạt động của toàn xã hội và mỗi cá nhân. Theo quan điểm hệ thống, mỗi thiết
chế ấy biến đổi sẽ dẫn đến cả hệ thống biến đổi và ngược lại, những thiết chế xung
quanh gia đình trong hệ thống xã hội nói chung (như kinh tế, pháp luật, văn hóa…) biến
đổi cũng khiến cho gia đình biến đổi theo. Gia đình Việt Nam không nằm ngoài quy luật
này.
1.2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố tồn
tại và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình
như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để tái
tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính vì vật, muốn xã hội
tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
1


Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản


chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sx,
sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác
động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ
bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự
hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi
cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội.
c. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của
mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối quan hệ
tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh
phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội.
Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch nói:
“Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các
mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những
quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên
của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai trò quan trọng
để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá
nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia đình
vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Bởi vì gia đình và quan hệ gia đình còn bị chi
2



phối bởi các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật … vì vậy, mặc dù xã hội
có nhưng thay đổi nhưng một số gd vẫn lưu giữ những truyền thống của gia đình
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất lần lượt thay thế
nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu gia đình. Từ gia
đình tập thể – với hình thức quần hôn, huyết thông; gia đình cặp đôi với hình thức hôn
nhân đối ngẫu; đến gia đình cá thể với hình thức hôn nhân một vợ một chồng. Từ gd
một vợ một chồng bất bình đẳng sang gia đình một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Tất cả những bước tiến trong gia đình đều phụ thuộc vào những bước tiến trong sản
xuất, trong trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi thời đại lịch sử.
Đặc điểm, đạo đức, lối sống trong gia đình cũng bị chi phối bởi những quan hệ xã
hội. Vì vây, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, có quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn
đạo đức, lối sống …
1.3. Chức năng của gia đình
Từ cách tiếp cận xã hội học, xét về bản chất, gia đình có 4 chức năng cơ bản:
1.3.1. Chức năng sinh sản
Gia đình là nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành viên, nguồn nhân lực cho
gia đình và xã hội. Mặt khác, sự sinh sản trong gia đình giúp cho việc xác định nguồn
cội của con người, từ đó tránh nạn quần hôn, góp phần tạo nên tôn ty gia đình, trật tự xã
hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản cho nòi giống phát triển.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản tự nhiên trong gia
đình vẫn là ưu thế bởi đó là điều kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống người, là cơ sở, nền
tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự phát triển.
1.3.2. Chức năng giáo dục
Gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành nhân cách cho mỗi
con người trong xã hội. Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người
thầy thân yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỷ năng sống để có thể thích ứng,
hòa nhập vào đời sống cộng đồng. Nêu gương là cách giáo dục tốt nhất trong gia đình
( Cha mẹ thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý
3



vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu ), giữa gia đình với họ hàng, với láng giềng,
với cộng đồng ( trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói gian tham,
điều giả dối ), qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài
học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân
cách
1.3.3. Chức năng kinh tế
Đây là chức năng nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, góp
phần vào sự phát triển toàn xã hội. Lao động của mỗi thành viên gia đình hoặc hoạt
động kinh tế của gia đình nhằm tạo ra nguồn lợi đáp ứng các nhu cầu đời sống vật chất (
ăn, ở, đi lại ) lẫn nhu cầu tinh thần ( học hành tiếp cận thông tin, vui chơi giải trí ). Gia
đình còn là đơn vị tiêu dùng, việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong xã hội đã
tác động vào sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Gia đình là một thực thể xã hội, sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận. Như vậy
bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình mới
đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình
vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa nhận
gia đình là một giá trị trong xã hội
1.3.4. Chức năng tâm lý – tình cảm
Nhờ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nên thành viên gia đình có
tình yêu thương và ý thức, trách nhiệm với nhau. Chính vì vậy, gia đình là nơi để mỗi
được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu tình cảm, cân bằng
tâm lý, giải tỏa ức chế... từ các quan hệ xã hội.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến,
ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan, truyền lại
cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính, vâng lời cha
mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau... Ở đó, mỗi người cảm
nhận được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc giường... đến những
quan hệ họ hàng thân thiết.
4



Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ và
có sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẻ tạo
nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia đình, dòng
họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình thành trong làng
xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Cả 4 chức năng này đã và đang xuất hiện những yếu tố mới, Một số nhà nghiên
cứu cho rằng: Nếu có gì gọi là mới trong gia đình Việt Nam hiện đại thì có lẽ là sự tăng
cường yếu tố dân chủ trong cái tổ chức này. Xã hội mới tạo điều kiện cho mỗi người có
giá trị tự thân. Thêm một nhân tố nữa để bảo đảm sự bình đẳng trong các tương quan và
chức năng của mỗi thành viên trong gia đình. Không có áp bức, thống trị ở đây (được
xét về mặt khái quát).
Và về chức năng giáo dục, một số nhà nghiên cứu cho rằng giáo dục gia đình
đang có xu hướng thay đổi trong xã hội hiện đại bởi những vấn đề mà giới trẻ hiện nay
đang gặp phải như các tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, sự tôn kính đối với ông bà
cha mẹ có xu hướng giảm sút… hay sự chuyển giao, phó mặc chức năng này của gia
đình cho các thiết chế xã hội khác như trường học, dịch vụ xã hội (dịch vụ chăm sóc trẻ,
giúp việc tại nhà)… Sự biến đổi về quy mô, kiểu loại gia đình, những biến đổi trong đời
sống hôn nhân, tâm lý – tình cảm và sự lựa chọn trong kết hôn cũng được quan tâm
đáng kể trong những nghiên cứu về gia đình trong thời gian qua.
Rất nhiều khía cạnh khác nhau của gia đình đều đang có những biến đổi trong
điều kiện xã hội biến đổi, điều đó đã tạo nên sự biến đổi khuôn mẫu gia đình nói chung.
Vì thế, việc xác định rõ ràng, chuẩn xác đặc trưng của gia đình Việt Nam hiện nay là
một vấn đề không dễ dàng.
1.4. Sự biến đổi về cơ cấu gia đình
Cơ cấu gia đình là những thành tố tạo nên một gia đình và quan hệ qua lại giữa
chúng với nhau. Nói một cách khác cơ cấu gia đình là số lượng, thành phần và mối
quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình.


5


Cơ cấu gia đình chỉ quy mô gia đinh, kiểu loại gia đình, mối quan hệ giữa các thế
hệ trong gia đình.
Cơ cấu gia đình còn chỉ toàn bộ mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong gia
đình: quan hệ ruột thịt, quan hệ tinh thần-đạo đức, quan hệ uy quyền.
Trong tác phẩm “Tam giác gia đình” của tác giả Hồ Ngọc Đại, ông đề cập đến:
“Gia đình là một khái niệm mới được hình thành từ ba thành phần, gồm những “đại
lượng khác tên” là bố, mẹ và con cái hình thành nên một tam giác gia đình” đặt trong
bối cảnh gắn với tam giác đời sống xã hội mà ba đỉnh là cá nhân – gia đình – xã hội thì
đây là một mối liên hệ khó có thể bóc tách được. Điều này cho thấy sự biến đổi của gia
đình luôn gắn với sự biến đổi của các cá nhân và xã hội. Hiển nhiên, gia đình là hệ quả
của mối tương tác giữa các cá nhân và xã hội đang sống. Gia đình với chức năng của nó
sẽ cố gắng điều hoà các mối quan hệ này phù hợp với hoàn cảnh xã hội.
Mọi xã hội cũng giống như tự nhiên, không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã
hội chỉ là sự ổn định bề ngoài. Thực tế, nó không ngừng thay đổi ngay ở bên trong bản
thân nó. Sự biến đổi xã hội sẽ dẫn theo các yếu tố bên trong nó và những yếu tố khác
(Kinh tế- văn hóa- chính trị- quân sự ) thay đổi. Và gia đình là một thành tố tồn tại bên
trong xã hội, có thể coi gia đình là một nhóm xã hội sơ cấp, là “tế bào” của xã hội, hay
hiểu rộng hơn gia đình là một thiết chế xã hội. Vào những năm đầu đổi mới, “ mở cửa”,
với sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thi trường, kéo theo nó là sự du nhập ồ ạt của lối
sống, phương thức sinh hoạt của xã hội phương Tây vào nước ta đã làm thay đổi phần
nào những giá trị truyền thống, đặc biệt trong gia đình Việt Nam dù ở nông thôn hay
thành thị. Có thể tùy từng dân tộc, từng vùng, từng dòng họ, từng gia đình mà thay đổi
nhiều hay ít. Qua gia đình, chân dung của xã hội hiện ra một cách sinh động và toàn
diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, tư tưởng, tôn giáo, lối sống, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng

6



1.4.1. Một số xu hướng biến đổi gia đình từ gia đình truyền thống đến gia đình
hiện đại:
Thứ nhất, quy mô, kích cỡ gia đình Việt Nam đang dần dần “thu hẹp lại”, gia
đình hạt nhân đang trở nên phổ biến, dần thay thế gia đình mở rộng nhiều thế hệ sống
trong một mái nhà. Xu hướng này biểu hiện rõ nét hơn khi tốc độ đô thị hoá ngày càng
gia tăng.
Thứ hai, chức năng giáo dục thế hệ trẻ và truyền thụ văn hoá đang ít nhiều bị xem
nhẹ. Gia đình đang có xu hướng “giao phó” chức năng này cho thiết chế trường học và
hệ thống các dịch vụ xã hội khác.
Thứ ba, chức năng kinh tế gia đình đang có xu hướng chuyển phần “sản xuất”
sang “tiêu dùng”. Vẫn tồn tại với tư cách là một đơn vị kinh tế, song các thành viên
trong gia đình lại theo đuổi các mục đích khác nhau, theo đó là các hoạt động kinh tế
khác nhau, mỗi thành viên có một “tài khoản” riêng mà không cùng sản xuất và chung
một “nguồn ngân sách” như trong gia đình truyền thống.
Thứ tư, các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo, sợi dây liên kết các
thành viên đang bị “nới rộng ra” theo hướng tự chủ, phát triển độc lập và cá nhân hoá.
Khuynh hướng này có thể làm suy yếu tính cộng đồng, cộng cảm trong phạm vi gia
đình.
Thứ năm, vai trò điều hoà đời sống tâm lý – tình cảm trong gia đình hiện nay
cũng đang bị “xói mòn”. Người già và trẻ em đang phải đối mặt với sự cô đơn, sự thiếu
quan tâm và chăm sóc từ các thành viên khác trong gia đình. Họ đang dần bị “đẩy” ra
các nhà dưỡng lão, nhà trẻ, trung tâm chăm sóc sức khoẻ và các dịch vụ xã hội khác.
Thứ sáu, cấu trúc gia đình dễ biến động, thiếu tính bền vững hơn do sự thay đổi
trong quan niệm về hôn nhân, hạnh phúc, trách nhiệm với gia đình của các thành viên
cũng như trong các chuẩn mực giá trị, quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Gia đình Việt Nam đã và đang biến đổi dưới sự tác động của những biến đổi về
kinh tế, xã hội và giao lưu văn hoá toàn cầu. Sự biến đổi đó không tách rời hoàn toàn
với những đặc trưng của gia đình truyền thống mà là sự điều chỉnh, thích nghi với

7


những hoàn cảnh và điều kiện xã hội mới. Thực tế, gia đình Việt Nam đang phải đối
mặt với rất nhiều thách thức và phải lựa chọn cho mình một khuôn mẫu phù hợp, trong
đó có sự cân bằng giữa việc bảo lưu những yếu tố truyền thống bền vững với những
thay đổi không ngừng của xã hội hiện đại. Với khả năng thích ứng cao trên nền tảng văn
hoá truyền thống, gia đình Việt Nam vẫn hoàn toàn có khả năng gìn giữ được những nét
bản sắc đặc trưng của nó ngay trong điều kiện phát triển của thế giới hiện đại.
1.4.2. Sự khác biệt cơ bản giữa gia đình truyền thống và gia đình hiện đại
Quy mô gia đình: Trước đây, trong một gia đình thường có sự xuất hiện của ông
bà, bố mẹ, con cái. "Tứ đại đồng đường" là chuyện rất bình thường ở mỗi ngôi nhà Việt.
Điều kiện khó khăn, việc "thoát ly" ra khỏi tổ ấm dường như rất ít, con cái lớn lên, cưới
vợ gả chồng rồi sinh con vẫn cố gắng để ở bên, phụng dưỡng cha mẹ. Ngược lại, việc
sống cùng người già giúp các cặp vợ chồng trẻ giữ được nề nếp, thói quen, gia phong
của gia đình, đồng thời biết kính trên, nhường dưới.
Xã hội ngày nay, những cặp vợ chồng trẻ tuổi thích sự tự do, muốn thể hiện được
cái tôi và khả năng độc lập cao, có điều kiện kinh tế. Những lý do đó khiến nhiều người
quyết định sống riêng, gây dựng một gia đình nhỏ chỉ có hai thế hệ. Không những thế,
người phụ nữ ngày càng bình đẳng, không chấp nhận hy sinh nên khó lòng sống hài hòa
với nhà chồng. Lựa chọn sống riêng vì thế ngày càng nhiều.
Bữa cơm gia đình: Với các gia đình xưa, bữa cơm luôn được chú trọng. Trong
giai đoạn đói kém, nhiều nhà chỉ ăn một bữa cơm, nhưng tất cả các thành viên đều có
mặt đông đủ, để chia sẻ và gặp mặt nhau sau một ngày làm việc. Nhiều người lớn tuổi
chưa quên được cảnh một gia đình thôn quê khoảng nhá nhem tối, trải chiếu ra ngoài
hiên, quây quần bên mâm cơm, trò chuyện và tận hưởng không gian thoáng đãng cuối
ngày.
Cuộc sống của một gia đình hiện đại ngày nay là sáng đưa con đến lớp, bố mẹ đi
làm, chiều về đón con rồi đi chợ nấu cơm. Tuy nhiên, bữa cơm tối duy nhất của cả nhà
đôi khi không có mặt đông đủ các thành viên. Khi thì bố hoặc mẹ bận làm thêm giờ, lúc

thì con phải đi học thêm... Bữa cơm thường được ăn nhanh chóng để mỗi người một
8


việc, chuẩn bị sẵn sàng cho ngày hôm sau, khoảng thời gian tận hưởng và chia sẻ cùng
nhau dường như rất ít.
Nề nếp sinh hoạt: Khi sống trong gia đình tứ đại đồng đường, mọi nề nếp, gia
phong đều được người già giữ gìn và duy trì. Các cụ luôn dùng những câu răn dạy của
người xưa để giúp con cháu giữ được nề nếp như "ăn trông nồi, ngồi trông hướng",
"kính trên, nhường dưới"... Chính nhờ có các cụ mà con cháu biết nhìn nhau mà sống.
Hơn nữa, cuộc sống xưa đơn giản, chưa có sự can thiệp của các công nghệ hiện đại, con
người ít có sự lựa chọn.
Nhịp sống công nghiệp ngày nay, các cặp vợ chồng trẻ có nhiều sự tự do hơn khi
sống riêng. Khi không thích nấu nướng, họ có thể chọn ăn ngoài hàng hoặc gọi đồ ăn về
nhà. Với những gia đình chưa có con, chỉ có hai người thì sự thoải mái càng lớn hơn.
Đôi khi, căn bếp cả tuần không "đỏ lửa" và các cặp vợ chồng cũng không lấy đó làm lo
lắng.
Sự khác biệt giữa hai thế hệ: Giữa một phía quyết giữ bằng được mọi giá trị
truyền thống và một bên ra sức phá bỏ, luôn luôn xảy ra những mâu thuẫn. Người già
luôn đem những câu chuyện ngày xa xưa ra làm chuẩn mực để dạy dỗ thế hệ trẻ, còn
người trẻ thì cho đó là lạc hậu, cổ lỗ sĩ, không biết tiếp nhận cái mới. Tiếng nói chung
giữa hai thế hệ ngày càng ít đi.
Gia đình, dù ở thế hệ nào, cũng đều hướng tới giá trị hạnh phúc của mỗi con
người sống trong đó. Dù hiện đại hay truyền thống, thì bố mẹ cũng luôn hy sinh và làm
mọi thứ để con cái được hạnh phúc.
2. Hôn nhân gia đình và sự biến đổi từ truyền thống đến hiện đại
2.1. Quan niệm về hôn nhân
Trong khoa học pháp lý, khoa học xã hội nói chung và khoa học Luật hôn nhân
và gia đình nói riêng, việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về hôn nhân có ý nghĩa quan
trọng. Nó phản ánh quan điểm chung nhất của Nhà nước về hôn nhân; tạo cơ sở lý luận

cho việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân; xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh
của các qui phạm pháp luật hôn nhân và gia đình.
9


Trong thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài, nhiều khái niệm hôn nhân đã được
các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu đưa ra, chẳng hạn:
- Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, phổ biến một khái niệm cổ điển
mang quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo đưa ra: Hôn nhân là sự liên
kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà không vì mục
đích nào khác”. Ngoài khái niệm trên, hiện nay ở Châu âu và Mỹ còn có quan niệm:
“Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ
chồng”, hoặc: “Hôn nhân là hành vi hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam
và một người nữ với tư cách là vợ chồng”.
- Ở Việt Nam, cũng có một số khái niệm cụ thể về hôn nhân, mà phần nhiều mới
đưa ra khái niệm “giá thú”: “giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn
ông và một người đàn bà theo thể thức luật định” hoặc “giá thú” cũng được hiểu: “sự
trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai
bên về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ”. Ta có thể hiểu khái niệm “giá
thú” bao gồm có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất gia thú là hành vi phối hợp vợ chồng
(kết hôn). Theo nghĩa thứ hai là tình trạng của hai người đã chính thức lấy nhau làm vợ
chồng và thời gian hai người ăn ở với nhau. Điều 3 Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964, Điều
99 Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972 của Chính quyền Sài gòn cũ qui định: “Không ai
được phép tái hôn nếu giá thú trước chưa đoạn tiêu”.
Trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành (luật năm 2014 có hiệu lực
từ ngày 01/01/2015), khái niệm hôn nhân đã qui định: “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi đã kết hôn”. Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường
Đại học Luật Hà Nội hôn nhân được hiểu là: “sự liên kết giữa người nam và người nữ
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hoà thuận”.

Sự liên kết giữa nam và nữ để thành vợ chồng, thành gia đình là một nhu cầu xã
hội, tiếp đến mới là nhu cầu sinh học. Hay nói cách khác, hôn nhân không phải do trời
cho mà nó xuất hiện và hình thành trong quá trình phát triển của loài người và nó cũng
10


biến đổi theo sự văn minh của con người. Và dù ở bất cứ xã hội nào thì hôn nhân cũng
là một mối quan hệ được xã hội thừa nhận giữa hai người khác giới.
Do sự biến đổi của hôn nhân gắn liền với sự biến đổi văn minh xã hội nên hôn
nhân của loài người đã trải qua những hình thức khác nhau. Buổi đầu sơ khai là chế độ
quần hôn, sau đó là hôn nhân mẫu hệ - một người phụ nữ có thể kết hôn với nhiều
người đàn ông. Và tiếp đó là hôn nhân phụ hệ, đa thê. Một người đàn ông có thể làm
chồng của nhiều người phụ nữ. Đó là hôn nhân bất bình đẳng, mua bán, cưỡng ép…
cuối cùng ngày nay là gia đình bình quyền, tự nguyên, một vợ một chồng.
2.2. Các loại hình hôn nhân
2.2.1. Hôn nhân truyền thống: sự kết hợp của nam và nữ (hôn nhân là quan hệ
giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn – theo Luật hôn nhân và gia đình), nó mang một số
đặc điểm sau:
Thứ nhất: Hôn nhân là một thiết chế xã hội: “Việc một người đàn ông và một
người đàn bà cam kết sống chung với nhau với những quyền và nghĩa vụ đối với nhau
cũng như đối với con cái”.
Thứ hai, Tính tự nguyện trong hôn nhân.
Hôn nhân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, do đó việc thể hiện ý chí ưng
thuận giữa các bên trong hôn nhân là một trong các điều kiện căn bản để hôn nhân có
hiệu lực. Hiện nay, pháp luật có quy định không có sự tự nguyện thì không có hôn nhân
khi không
Tuy nhiên, tính tự nguyện trong hôn nhân được xem xét với nhiều quan điểm
khác nhau. ở một số nước phương Tây, tự nguyện ở đây thường gắn với tự nguyện trong
hợp đồng. Ví dụ: áp dụng chế độ đại diện trong kết hôn, nếu các bên nam, nữ kết hôn ở
độ tuổi theo luật định bắt buộc phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ

(thường ở độ tuổi chưa thành niên), thì việc kết hôn chỉ hợp pháp khi có sự đồng ý của
những người này (Điều 148, 149 Bộ luật dân sự của Pháp; Điều 2 Chương 2 phần II
Luật hôn nhân Thụy điển năm 1987; Luật hôn nhân Australia năm 1961…). Tự nguyện
trong pháp luật phương tây còn đồng nghĩa với tự do thoả thuận, thông qua việc thừa
11


nhận chế độ tài sản ước định trong quan hệ vợ chồng, khi các bên không thoả thuận
được pháp luật mới áp dụng chế độ tài sản pháp định.
Ở Việt Nam coi yếu tố tự nguyện trong hôn nhân là một trong các nguyên tắc cơ
bản của chế độ hôn nhân và gia đình (Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam). Tuy
nhiên, họ lại xác định tự nguyện trong hôn nhân là tự nguyện xuất phát từ tình cảm giữa
nam và nữ, vậy nên họ không thừa nhận chế độ đại diện trong kết hôn, mà việc kết hôn
phải do chính các bên nam, nữ quyết định. Mặt khác, mục đích của hôn nhân là xây
dựng gia đình, chứ không vì mục đích tạo lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ dân sự, đồng
thời để tránh những trường hợp hôn nhân dựa trên sự tính toán kinh tế, không thừa nhận
chế độ tài sản theo thoả thuận giữa vợ và chồng, mà chỉ thừa nhận chế độ tài sản pháp
định dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
Thứ ba: Tính bền vững (tính chất suốt đời) của hôn nhân.
Tính bền vững của hôn nhân được các nhà làm luật đưa ra xuất phát từ những căn
nguyên khác nhau: có thể do yếu tố tôn giáo (Đạo cơ đốc coi hôn nhân là một thiết chế
bất biến gắn liền với suốt cuộc đời con người, tính bất biến hôn nhân theo quan niệm
tôn giáo có thể hiểu theo hai nghĩa: hôn nhân không thể chấm dứt bằng ly hôn, do đó
cấm ly hôn (quan điểm này hiện nay rất ít nước áp dụng) và hôn nhân có tính bền vững
nhưng vẫn có thể chấm dứt bằng ly hôn (đây là quan điểm phổ biến hiện nay).
Tính bền vững của hôn nhân cũng có thể xuất phát từ đạo đức truyền thống và
văn hoá của người phương đông coi trọng tình nghĩa vợ chồng và yếu tố bền vững trong
hôn nhân và gia đình.
Tính bền vững của hôn nhân cũng được đặt ra xuất phát từ các vấn đề của nền
kinh tế – xã hội tư bản (nền kinh tế thị trường, sự đề cao chế độ tư hữu và tự do cá

nhân…) đã và đang đẩy hôn nhân trong xã hội tư sản rơi vào tình trạng khủng hoảng
(hôn nhân bền vững được thay thế bằng “hôn nhân thử”, tình trạng ly hôn tràn lan…).
Tình hình đó, đã yêu cầu các nhà làm luật (đặc biệt, ở các nước phương tây) phải quan
tâm và đề cao hơn nữa tính bền vững của hôn nhân.

12


Quan niệm phổ biến nhất ở Việt Nam là do hôn nhân được xây dựng trên yếu tố
tình cảm giữa các chủ thể và hôn nhân có mục đích là xây dựng gia đình (gia đình
thường bắt đầu từ hôn nhân, từ quan hệ vợ chồng về tình cảm mà phát sinh các quan hệ
giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa anh, chị, em…) đó là những điều kiện đảm bảo cho
sự liên kết hạnh phúc, bền vững trong hôn nhân, hôn nhân có bền vững thì gia đình và
xã hội mới ổn định và phát triển.
Luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam luôn coi trọng tính bền vững của hôn
nhân, vì truyền thống gia đình Việt Nam và xuất phát từ vai trò hôn nhân là cơ sở: xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Thứ tư: Tính chất một vợ một chồng
Trong xu thế tiến bộ xã hội (đặc biệt sự bình quyền giữa nam và nữ), sự khẳng
định cá nhân con người ngày càng lớn, đạo đức mới của con người không những phủ
nhận kiểu hôn nhân một chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như trước, mà đòi
hỏi tình yêu nam, nữ phải biểu hiện trong mối quan hệ thuỷ chung một vợ, một chồng.
Vậy nên, hiện nay chế độ một vợ một chồng đã được ghi nhận trong hầu hết pháp
luật hôn nhân và gia đình của các nước (trừ một số nước ở Châu Phi, Trung cận đông,
Trung á do ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo và phong tục, tập quán vẫn thừa nhận chế độ
đa thê trong pháp luật). Luật hôn nhân gia đình của Việt Nam coi một vợ, một chồng là
một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình và là một trong các
điều kiện để thừa nhận việc kết hôn hợp pháp.
Thứ năm, Hôn nhân chỉ tồn tại giữa những người khác nhau về giới tính.
Thực chất và ý nghĩa của hôn nhân là mục đích xây dựng gia đình, thể hiện trong

việc sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu vật chất
và tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, hôn nhân là sự liên kết giữa những
người khác giới tính là một đặc điểm vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội. Để
bảo đảm mục đích của hôn nhân được thực hiện; đồng thời, để bảo vệ yếu tố đạo đức
truyền thống và tính tự nhiên trong hôn nhân, pháp luật của đa số các nước trên thế giới
đều không công nhận kết hôn giữa những người đồng giới tính trong đó có Việt Nam.
13


Thứ sáu: Tính chịu sự qui định của pháp luật
Với vị trí là một thiết chế xã hội, hôn nhân có vai trò là cơ sở xây dựng gia đình –
tế bào của xã hội. Điều đó không chỉ có ý nghĩa riêng tư mà còn có ý nghĩa xã hội. Bởi
vì, trên cơ sở phát sinh quan hệ vợ chồng, các quan hệ thân thuộc trong gia đình (quan
hệ trực hệ và quan hệ giữa những người có họ hàng khác) và các quan hệ thích thuộc
(quan hệ giữa một bên vợ hoặc chồng với những người trong họ nhà vợ hay trong họ
nhà chồng) được thiết lập và làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ đạo đức, pháp lý giữa
các chủ thể trong gia đình. Việc phát sinh tồn tại và chấm dứt hôn nhân đều có những
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các quan hệ gia đình (trong nhiều trường hợp hôn
nhân có ảnh hưởng mang tính chất quyết định). Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định:
“Nếu hôn nhân không phải là cơ sở của gia đình thì nó sẽ không phải là đối tượng của
lập pháp“. Vì vậy, cũng như các thiết chế xã hội khác hôn nhân phải chịu sự điều chỉnh
của pháp luật. Pháp luật hôn nhân và gia đình của các nước đều có các qui định chặt chẽ
về kết hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về chấm dứt hôn nhân. Luật HN & GĐ
Việt Nam năm 2014 qui định vấn đề kết hôn bao gồm điều kiện kết hôn, ghi thức kết
hôn, huỷ kết hôn trái pháp luật; qui định các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng và
chấm dứt hôn nhân...
Ngoài những đặc điểm trên, có quan điểm cho rằng hôn nhân còn có đặc điểm
bình đẳng. Ở Việt Nam, bình đẳng có thể được coi là đặc điểm của hôn nhân xã hội chủ
nghĩa. Bởi vì, các quy định của pháp luật (Luật Bình đẳng giới, ...) xác định vợ chồng
bình đẳng là một trong các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội và là một nguyên tắc cơ bản

của chế độ hôn nhân và gia đình, nội dung bình đẳng do pháp luật qui định trên cả quan
hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng.
Tóm lại, căn cứ vào các qui định về hôn nhân trong Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2014, chúng ta có thể hiểu hôn nhân theo quy định của pháp luật: Là sự
liên kết tự nguyện, bình đẳng, theo qui định pháp luật giữa một người đàn ông và một
người đàn bà, nhằm chung sống suốt đời với tư cách là vợ chồng, vì mục đích xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
14


2.2.2. Hôn nhân đồng giới: Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những
người cùng giới tính. (Điều 8 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học. Hôn
nhân đồng giới có khi còn được gọi là "hôn nhân bình đẳng" hay "bình đẳng hôn nhân",
thuật ngữ này sử dụng phổ biết nhất từ những người ủng hộ. Việc hợp pháp hoá hôn
nhân đồng giới còn được mô tả bằng thuật ngữ "định nghĩa lại hôn nhân" từ các trường
phái có quan điểm đối lập.
Ở Việt Nam, hôn nhân đồng giới là vấn đề còn tồn tại tranh cãi gay gất giữa
những người ủng hộ và không ủng hộ. Những người ủng hộ hôn nhân đồng giới cho
rằng việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới là để đảm bảo nhân quyền (quyền con
người), đảm bảo sự bình đẳng và quyền lợi giữa những người thuộc các thiên hướng
tình dục khác nhau trong xã hội; các cặp đôi đồng tính thiết lập mối quan hệ bền vững
tương đương các cặp đôi khác giới trên tất cả các góc độ tâm lý; sự phân công vai trò
giữa các thành viên ở những gia đình đồng tính công bằng hơn; thể chất và tâm lý của
con người được tăng cường tốt bởi hôn nhân hợp pháp đồng thời xã hội sẽ được hưởng
nhiều lợi ích từ việc công nhận hôn nhân đồng giới, loại bỏ được kỳ thị và phân biệt đối
xử.
Ngược lại, những người khác phản đối hôn nhân đồng giới vì họ cho rằng kiểu
gia đình này có những khiếm khuyết (trẻ em được nuôi bởi cặp đồng tính sẽ dễ gặp tổn
thương tâm lý và lệch lạc hành vi, hôn nhân đồng tính thường không bền vững, không

có khả năng duy trì nòi giống, làm sụt giảm giá trị của hôn nhân trong văn hóa xã hội,
thúc đẩy tình trạng làm cha/mẹ đơn thân...), do vậy nếu chấp thuận và để hôn nhân đồng
tính nhân rộng thì sẽ gây tác hại cho xã hội và trẻ em. Theo những người phản đối, hôn
nhân đồng tính không thể coi là một vấn đề về nhân quyền, mà vấn đề chính là ở những
tác động tiêu cực lâu dài của nó với xã hội và trẻ em. Để đảm bảo xã hội và trẻ em phát
triển lành mạnh thì Chính phủ không nên công nhận dạng hôn nhân này.
Ở một số nước trên thế giới: Hôn nhân đồng giới có thể được thực hiện một cách
đơn giản hoặc theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tín ngưỡng trên thế giới đã cho
15


phép hai người cùng giới kết hôn hoặc thực hiện hôn lễ cùng giới, ví dụ như: Phật giáo
ở Đài Loan, Úc, Nhà thờ ở Thụy Điển, Giáo hội Presbyterian, Do Thái giáo bảo thủ,
Giáo hội Thống Nhất Canada... Trước khi công nhận hôn nhân đồng giới, nhiều nước đã
có luật cho các cặp đồng tính đăng ký sống chung gọi là kết hợp dân sự, quy định quyền
lợi và bổn phận của họ như Đan mạch từ năm 1989, Na Uy năm 1993.
Hiện tại, đã có 23 quốc gia chính thức công nhận hôn nhân đồng giới, quốc gia
gần đây nhất hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới là Colombia vào tháng 04 năm 2016.
Tìm hiểu sự phân công vai trò, sự gắn kết các thành viên trong gia đình đồng
tính: Cục thống kê Úc đã tiến hành một cuộc điều tra, kết quả thống kê cho thấy gia
đình đồng tính có nhiều ưu điểm vượt trội hơn:


59% các cặp đồng tính nữ và 57% đôi đồng tính nam biết chia sẻ các công

việc chung của gia đình trong khi chỉ có 38% các cặp vợ chồng dị tính làm được điều
này.


Hơn 50% các cặp đồng tính có bằng cử nhân và đang làm việc với những


chức vụ khá cao như quản lý hoặc chuyên gia trong một số lĩnh vực. Con số này ở
những cặp đôi dị tính là 40%.


Về thu nhập, có khoảng 50% các cặp đồng tính ở Úc kiếm được hơn 1.000

USD trong một tuần.


Có khoảng 33.700 các cặp vợ chồng đồng tính và 6.300 đứa trẻ đang được

nuôi dưỡng trong những gia đình này.
Một nhóm nhà nghiên cứu của Úc đã tiến hành khảo sát 500 trẻ em của 315 cặp
đôi phụ huynh đồng tính và phát hiện số điểm của họ cao hơn 6% so với gia đình dị
tính, trẻ em được nuôi nấng bởi các đôi đồng tính được đánh giá cao hơn về mặt sức
khỏe nói chung lẫn sự gắn kết gia đình. Trưởng nhóm nghiên cứu này đã lý giải: "Có vẻ
như mối quan hệ giữa phụ huynh và con cái trong các gia đình đồng tính thường rất tốt
cho nên đã tạo ra những tác động tích cực đối với sức khỏe trẻ em. Cuộc nghiên cứu
trước đây cũng cho thấy: Nếu so với các gia đình dị tính thì vai trò của phụ huynh
trong những gia đình đồng tính thường bình đẳng hơn. Mỗi người sẽ đảm nhận vai trò
16


phù hợp với kỹ năng của mình chứ không phải rơi vào những định kiến về giới. Ví dụ
như mẹ là phải ở nhà và chăm sóc trẻ em trong khi cha đi ra ngoài kiếm tiền. Điều này
dẫn đến một đơn vị gia đình hài hòa và kéo theo sức khỏe tốt và hạnh phúc hơn".
Hay, trong một nghiên cứu năm 2014, Đại học Mở của Anh đã khảo sát 5.000
người để tìm hiểu về tình hình sống chung của các cặp đôi hiện đại và phương thức giữ
gìn mối quan hệ. Theo đó, các cặp đôi đồng tính hầu hết đều có mối quan hệ tình cảm

hạnh phúc hơn các cặp đôi dị tính.
Ngày 21/11/2013, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng Quốc hội Việt
Nam cần sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình để bảo đảm cho các cặp đồng tính cũng
được hưởng đầy đủ tất cả các quyền như mọi cặp vợ chồng khác, trong đó có quyền kết
hôn, thủ tục đăng ký và được pháp luật bảo hộ đầy đủ về tài sản và con cái.
Tổ chức Phụ nữ Liên Hợp Quốc cũng có quan điểm: Việt Nam cũng có nhiều tiến
bộ trong lĩnh vực chính sách và lập pháp. Các khái niệm về bình đẳng, tự do và không
phân biệt đối xử được bảo đảm trong bản Hiến pháp sửa đổi... Trong quá trình xem xét
sửa đổi luật hôn nhân và gia đình hiện nay, dường như việc cấm hôn nhân đồng giới sẽ
được bãi bỏ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn mong muốn bộ luật này đi xa hơn nữa để bảo đảm
quyền của các cặp đôi đồng giới được tương tự như các cuộc hôn nhân khác."
Theo kết quả điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới"
được (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và
Môi trường công bố ngày 26 tháng 03 năm 2014, khảo sát tại 8 tỉnh, thành phố tại Việt
Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, TP.HCM, An Giang,
Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân, có tới 90% người dân biết về đồng tính
và việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính (62%). Một tỷ lệ lớn
(30%) người dân có quen ai đó là người đồng tính (họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng
xóm…), 33,7% ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, số còn lại không đồng ý.
Về việc công nhận quyền sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính,
số người ủng hộ là 41,2%. Hình thức sống chung cùng giới nên được hợp pháp hóa theo
dạng "kết hợp dân sự" hoặc "đăng ký sống chung như vợ chồng". Ngày 1 tháng 1 năm
17


2015, một chỉnh sửa mới từ luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực, trong đó quy
định sẽ không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, coi như hủy bỏ luật cấm
năm 2000. Tuy nhiên, theo Điều 8 về "Điều kiện kết hôn" có ghi "Nhà nước không thừa
nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính". Như vậy, những người đồng giới tính
vẫn có thể chung sống, nhưng sẽ không được pháp luật giải quyết nếu có tranh chấp xảy

ra khi chung sống.
Hôn nhân đồng giới tiếp tục còn đang gây tranh cãi, nhất là thời gian vừa qua liên
tiếp có những đám cưới đồng tính được tổ chức. Ở thời điểm này, khi dư luận xã hội
tương đối “mở” với hôn nhân đồng tính thì rào cản pháp lý có nên tháo bỏ?
2.3. Một số thay đổi trong Hôn nhân
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời: những biến đổi trong nội dung của các quy luật hôn
nhân và cách thực hiện chúng, thể hiện trong các biến đổi về tiêu chuẩn lựa chọn bạn
đời.
Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời ở Việt Nam hiện nay đang có những thay đổi, những
biến chuyển mới so với ngày trước:
Tiêu chí lựa chọn và quyết định hôn nhân ở Việt Nam truyền thống dựa trên các
tiêu chí như: sự tương đồng giữa hai gia đình về địa vị xã hội, điều kiện kinh tế, giai cấp
xã hội. Đây là những tiêu chí mà hôn nhân ở Việt Nam truyền thống hay lựa chọn nhất,
ngoài ra còn có các tiêu chí khác như tuổi tác, trình độ học vấn, nơi cư trú, dân tộc, tôn
giáo, nghề nghiệp. Hôn nhân giữa những người có cùng đặc điểm xã hội và văn hóa cho
phép sự chuyển tiếp ổn định và sự an toàn về địa vị xã hội nghề nghiệp, tài sản từ bố mẹ
sang con cái và các thế hệ tương lai.
Tiêu chí lựa chọn hôn nhân ở Việt Nam hiện nay: dựa vào khoảng cách địa lí, lối
sống, tôn giáo, văn hóa, điều kiện gia đình hai bên. Nhưng chủ yếu dựa vào tính cách và
quan niệm sống của hai bên hợp nhau hay không.

18


Quyết định hôn nhân: những biến đổi trong hình thức lựa chọn và quyết định, thể
hiện trong sự thay đổi vai trò của những người tham gia vào quá trình này mà chủ yếu
là sự chuyển đổi vị trí chủ đạo giữa gia đình và cá nhân.
Có hai hình thức lựa chọn bạn đời chủ yếu là hôn nhân sắp đặt và hôn nhân tự do.
Có thể phân chia cụ thể hơn thành bốn nhóm : 1. Hôn nhân được sắp đặt bởi cha mẹ và

gia đình, 2. Tự do lựa chọn và được sự đồng ý của cha mẹ, 3. Tự do lựa chọn không cần
sự chuẩn y của cha mẹ, 4. Hôn nhân sắp đặt và tự do lựa chọn cùng song song tồn tại.
Hôn nhân ở Việt Nam truyền thống chủ yếu do cha mẹ, họ hàng quyết định, cha
mẹ thường sắp đặt hôn nhân từ khi con cái chưa sinh ra nhằm liên kết sức mạnh giữa
hai gia đình.
Sự can thiệp của các bậc cha mẹ vào việc hôn nhân của con cái được luật pháp
phong kiến thừa nhận và ủng hộ, từ Luật Hồng Đức ở thế kỷ XV, Luật Gia Long ở thế
kỷ XIX, cho đến các bộ luật Dân sự thời kỳ thuộc Pháp trước năm 1945.
Các đạo luật này cố gắng duy trì những phong tục lạc hậu trong hôn nhân và gia
đình như: quyền gia trưởng tuyệt đối của người cha và sự lệ thuộc về mọi mặt của con
cái vào cha mẹ; thừa nhận chế độ đa thê; duy trì sự bất bình đẳng nam nữ, giữa vợ và
chồng, phân biệt đối xử giữa con trai với con gái. Theo bộ luật Gia Long, cuộc hôn
nhân của đôi nam nữ là một khế ước hợp pháp giữa người chủ gia đình nhà trai và chủ
gia đình nhà gái. Những người chủ của hai gia đình có trách nhiệm ký vào khế ước này.
Chữ ký của bản thân đôi nam nữ là không cần thiết (Vũ Văn Mẫu, 1962).
Tình yêu lứa đôi không được coi trọng trong các cuộc hôn nhân truyền thống.
Các bậc cha mẹ tin rằng bằng sự khôn ngoan và kinh nghiệm, họ có thể đạt được cuộc
hôn nhân “hợp ý” cho con cái họ. Họ lo ngại rằng nếu để cho con cái tự lựa chọn thì
chúng có thể bị tình yêu mù quáng dẫn dắt và vì thế mà bỏ qua những sự không tương
hợp cá nhân có thể gây ra mâu thuẫn gia đình sau này (Nguyễn Hữu Minh, 1999; Bộ
Văn hoá - Thể thao và Du lịch và các cơ quan khác, 2008).
Chính vì thế, mà việc con cái quyết định hôn nhân của mình là điều rất khó.

19


Nhưng hiện nay, hôn nhân ở Việt Nam hiện nay có những biến đổi mới: Con cái
có quyền quyết định trong hôn nhân của mình, có quyền lựa chọn bạn đời - người chung
sống suốt đời với họ.
2.3.2. Thay đổi về độ tuổi kết hôn

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2000, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ
18 tuổi trở lên thì được đăng ký kết hôn. Tức là nam bước sang tuổi 20, nữ bước sang
tuổi 18 thì được phép kết hôn. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2015, khi Luật hôn nhân và gia
đình 2014 có hiệu lực thi hành, nam bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 mà kết
hôn là vi phạm, theo quy định của Luật mới nam giới phải đủ 20 tuổi và nữ giới đủ 18
tuổi.
Thực tế hiện nay, do tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường, sự hội
nhập, giao thoa văn hóa quốc tế… khiến cho một bộ phận giới trẻ quan niệm về việc kết
hôn khác với thời kỳ trước.
Cả nam và nữ ở thời kỳ trước, với tư tưởng“trai lớn dựng vợ gái lớn gả chồng”
đến tuổi 18 - 20 chưa xây dựng gia đình được coi là bị“ ế. Thậm chí còn kết hôn sớm
hơn so với độ tuổi quy định (đó là lý do nạn tảo hôn xuất hiện nhiều ở thời kỳ trước).
Nhưng hiện nay, do bận rộn, mải mê kiếm tiền, theo đuổi sự nghiệp … mà một bộ phận
thanh niên không muốn xây dựng gia đình sớm. Lứa tuổi 18 - 20 là quá sớm để họ xây
dựng gia đình.
Quan niệm xưa, “an cư mới lập nghiệp” thì ngày nay nhiều bạn trẻ quan niệm
rằng lập nghiệp rồi mới xây dựng gia đình ổn định cuộc sống.
2.3.3. Ly thân và ly hôn
Khi ly hôn xảy ra, trong mối quan hệ gia đình, người chịu thiệt thòi nhất là người
phụ nữ.
Trong hôn nhân truyền thống, việc ly thân và ly hôn là việc hệ trọng, và thường
người phụ nữ không có nhiều quyền hạn để quyết đinh. Do ảnh hưởng của tư tưởng nho
giáo, người phụ nữ luôn luôn là người chịu thiệt thòi trong gia đình. Quyền hành nằm
tất trong tay người đàn ông. Nhiều người phụ nữ sống cam chị, có tình trạng bị bạo lực,
20


hành hạ nhưng vẫn không gián ly thân và ly hôn vì sợ điều tiếng, không giám vượt qua
lễ giáo để giải phóng bản thân.
Còn hôn nhân thời hiện đại, xã hội không quá quan trọng việc người phụ nữ có

đã ly dị, đã ly hôn hay chưa. Với cuộc sống hiện đại, sống gấp, sống vội. Yêu nhanh –
cưới nhanh và ly hôn cũng nhanh. Tư tưởng người phụ nữ được giải phóng, xã hội đã
bình đẳng hơn, khoan dung hơn với những người phụ nữ ly dị chồng. Nhưng điều này
cũng gây ra một hệ lụy, sự liên kết gia đình lỏng lẽo, dễ bị tan vỡ.
Tóm tắt sự biến đổi hôn nhân gia đình từ truyền thống đến hiện đại
Hôn nhân trong gia đình truyền Hôn nhân trong gia
STT
Tiêu chí
thống
đình hiện đại
Một nam một nữ, nam
Hôn nhân được
1
Một nam một nữ
với nam, nữ với nữ (hôn
công nhận
nhân đồng giới)

- Dựa trên quan hệ hôn nhân và
pháp luật

2

3

4

- Cha mẹ quyết định việc hôn
nhân (cha mẹ đặt đâu con ngồi
Các mối quan hệ đấy)

trong gia đình
- Việc kết hôn hoặc ly hôn chỉ
thông qua gia đình, họ tộc và lệ
làng. Chế độ hôn nhân bị ràng
buộc nặng nề bởi lệ làng và dư
luận xã hội
Thế hệ

Mục đích

Có nhiều thế hệ chung số (3-4 thế
hệ)
- Mong có đông con nhiều cháu

- Có thể chung sống
không cần cưới hỏi và
pháp luật quy định
- Chủ thể được chủ
động tìm hiểu đối
tượng và có quyền tự
ra quyết định khi muốn
tiến tới hôn nhân
- Chế độ hôn nhân đã
được pháp lý hóa và
thể chế hóa
1-2 thế hệ chung sống
- Xu hướng ít con, từ 1
đến 2 con

- Việc sinh con là một trách nhiệm

lớn lao, là sự báo hiếu đối với cha - Không có con cũng
mẹ, dòng họ tổ tiên và để bảo tồn không sao
nòi giống
- Điều chỉnh mối quan
- Tư tưởng nho giáo, trọng nam
hệ trong gia đình bình
khinh nữ
đẳng hơn
21


5

Quan niệm

6

Người quyết
định trong nhà

7

Quốc tịch

8

Kết cấu

9


Nghi thức cưới
hỏi

- Quan niệm này
không còn khắt khe
nữa. Chứng minh cho
- Trinh tiết của người phụ nữ là
điều này là xuất hiện
quan trọng. Người phụ nữ sẽ bị
trào lưu “sống thử” của
trừng phạt nếu vi phạm quan niệm
một bộ phận thanh
này: cạo trọc đầu bôi vôi hay bỏ
niên. Họ sống với nhau
rọ trôi sông
như vợ chồng, và họ có
thể chấm dứt nếu
không thấy hợp
Người chồng quyết định tất cả
Các thành viên trong
mọi công việc trong gia đình hoặc gia đình quan hệ bình
những người cao tuổi
đẳng, tồn tại độc lập
Nam, nữ có quốc tịch
Nam, nữ đại số có quốc tịch Việt
Việt Nam hoặc nước
Nam
ngoài (được pháp luật
công nhận)
Kết cấu gia đình lỏng

Kết cấu gia đình chặt chẽ
lẻo, dễ ly hôn tan vỡ..
Nghi lễ cưới hỏi trong xã hội
Một số tục lệ trong
truyền thống có phần rườm rà,
đám cưới xưa đã được
nhiều thủ tục hơn. Các thủ tục xưa lược bớt để phù hợp
thường bao gồm:
với đời sống hiện đại.
Hiện nay chỉ còn giữ
- Mai mối để đôi bạn trẻ tìm hiểu lại 5 lễ chính là dạm
nhau
ngõ, ăn hỏi, xin dâu,
- Lễ cheo: lễ này có thể tiến hành đón dâu, lại mặt. Lễ
trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới cưới sẽ được tổ chức
một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải tại nhà của cô dâu, chú
có lễ vật hoặc tiền bạc đem đến
rể hoặc tại các nhà
cho làng hoặc xóm của cô dâu để hàng. Nếu tổ chức tại
cộng đồng làng xóm tiếp nhận
nhà hàng, cô dâu chú
thành viên mới.
rể sẽ có các nghi lễ như
- Chạm ngõ
rót rượu mời bố mẹ,
- Ăn hỏi
cắt bánh cưới, trao
- Báo hỷ, chia trầu cau
nhẫn và mời khách
- Nạp tài: nhà trai đem sinh lễ

dùng tiệc.
gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn,
- Trang phục cô dâu
quần áo, đồ trang sức sang nhà
gái. Lễ này có ý nghĩa nhà trai góp chú rể được âu hóa
chi phí cỗ bàn và cho nhà gái biết
họ đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ
22


cho cô dâu mới về nhà chồng.
- Xin dâu
- Đón dâu
- Lại mặt: chú rể đem lễ vật về lễ
tổ tiên ở nhà gái.
Trang phục cô dâu chú rẻ áo the
khăn xếp, áo dài truyền thống
Đám cưới hiện đại của người Việt Nam đã có nhiều thay đổi song vẫn giữ nhiều nét văn
hóa truyền thống. Một số biểu tượng từ xưa vẫn được coi trọng như trầu cau, chữ hỷ và
màu đỏ hạnh phúc. Các nghi lễ gia tiên cũng được lưu giữ như việc chuẩn bị mâm ngũ
quả bày trên bàn thờ, thắp hương báo cáo tổ tiên, lễ lên đèn (phổ biến trong miền Nam).
Hiện nay, việc tổ chức được một đám cưới vừa gọn nhẹ, phù hợp với cuộc sống hiện đại,
vừa giữ được những nét đẹp trong văn hóa truyền thống Việt là điều mà nhiều đôi uyên
ương chú trọng. Bởi khách mời trong đám cưới vẫn có nhiều vị cao tuổi, quen nếp sống
cũ, bên cạnh đó cũng có những vị khách trẻ tuổi mang phong cách hiện đại nên việc
dung hòa giữa phong tục truyền thống và các nét văn hóa phương Tây sẽ khiến đám cưới
thêm vui vẻ, trọn vẹn

23



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Ngọc Đại. Tam giác gia đình. Tạp chí Xã hội học. Số 3.1990, trang 4
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 2.4.2007
3. "Biến đổi trong quan niệm về hôn nhân và gia đình của người Việt ở khu tái
định cư huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh", Nguyễn Thị Nguyệt, tạp chí Nghiên cứu văn hóa,
số 5, tháng 9 năm 2013.
4. "Những biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình người Việt
hiện nay", Nguyễn Văn Bốn, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Thực tại và
tương lai của gia đình trong thế giới hội nhập (Reality and future of family in the
integrated world), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2012. tr.450 - 458.
5. "Sự biến đổi gia đình Việt Nam dưới góc nhìn xã hội học", Phạm Việt Tùng,
tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 319, tháng 1 năm 2011.
6. "Về sự biến đổi của khuôn mẫu gia đình Việt Nam hiện đại", Trịnh Hòa Bình,
Tạp chí Bắc Việt luật, ngày 5 tháng 2 năm 2011.
7. Một tổ hợp đẹp, xinh xắn, cân đối và mạnh mẽ. Những nghiên cứu Xã hội học
về gia đình Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1996.
8. "Phát triển Xã hội ở Việt Nam. Một tổng quan xã hội học năm 2000" Trịnh
Duy Luân chủ biên. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
9. />10. />
24



×