Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.48 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU

Nước ta đang trên con đường tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc nắm vững các quan điểm thực tiễn, phát
triển lý luận nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế luôn là vấn đề cần thiết cần sự quan tâm của cả xã hội.
Trong xã hội, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và
thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho
hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội cho hoạt động. Chúng ta biết
rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ
rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho
đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết
học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề
ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và
phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết
không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn,
phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu
vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội
và qua ba mươi năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan
trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi,
nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay. Vì vậy, em quyết định chọn nội dung
“Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam” làm
đề tài tiểu luận của mình.
Tiểu luận gồm có 3 phần chính:
Chương 1: Khái quát về lý luận và thực tiễn: Trình bày những khái niệm cơ
bản về lý luận, thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.


Chương 3: Thành tựu hạn chế.

1


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Việc
nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê nin nói chúng và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người. Đặc biệt, là đối với cán bộ, đảng viên trong công cuộc xây
dựng đất nước hiện nay.
Theo quan điểm của Mác xít, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục
đích, mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân
con người.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.
1.1. Tổng quan về lý luận
1.1.1. Nguồn gốc của lý luận
Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết, khái quát
những tri thức kinh nghiệm, nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát từ
kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do
tính đọc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ liệu kinh nghiệm.
Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm, đó là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện
tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm.
Lý luận là kết quả cao nhất của nhận thức, là hệ thống những tri thức được
khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các

sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên
hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua
lại, trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định.
Lý luận được hình thành trên cơ sở của quá trình nhận thức, nhưng không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp đối tượng mà nó mang tính gián tiếp. Tức là
quá trình hình thành lý luận chỉ thông qua quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá.
Quá trình đó diễn ra trên cơ sở kết quả của tri thức khoa học.
Để hình thành tri thức khoa học, con người phải thông qua quá trình nhận
thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại
diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức
kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và
2


tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở
trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó,
có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt
động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật...
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con
người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con
người.
Lý luận cũng có lý luận khoa học, là những lý luận được hình thành trên cơ
sở tư duy khoa học, là kết quả của nhận thức khoa học và được thực tiễn kiểm
nghiệm, các lý luận khoa học cũng chính là các chân lý tương đối, trong quá trình

tiệm cận tới chân lý tuyệt đối của nhận thức loài người; cũng có lý luận phản khoa
học, hoặc phi khoa học... là những lý luận không dựa trực tiếp trên tư duy khoa
học, và bị chi phối bởi những lợi ích không phù hợp với lợi ích chung của sự tiến
bộ xã hội.
1.1.2. Chức năng của lý luận
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ bản
là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp cho hoạt
động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung
hay chung nhất. Nó lược bỏ những yếu tố ngẫu nhiên hoặc cái riêng để hình thành
những quy luật chung về quá trình tồn tại, vận động, phát triển và biến đổi của hiện
thực khách quan. Tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học cũng như tri thức lý luận
đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những trình độ khác nhau. Tri thức lý
luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo
hiện thực khách quan.
Chức năng phương pháp luận của lý luận (hay tri thức lý luận) cho quá trình
hoạt động thực tiễn ở trình độ chung hay chung nhất. Đó vừa là chức năng phương
pháp luận cho hoạt động nhận thức, vừa là chức năng cho hoạt động cải tạo hiện
thực khách quan. Có phương pháp luận chung nhất, phương pháp luận chung và
phương pháp luận chuyên ngành. Mỗi cấp độ phương pháp luận có vai trò và hiệu
quả khác nhau trong quá trình hoạt động. Mỗi lĩnh vực cụ thể đều có phương pháp
luận cụ thể. Phương pháp luận cụ thể chỉ đúng khi không đối lập với phương pháp
luận chung hay chung nhất.
1.2. Tổng quan về thực tiễn
1.2.1. Các quan điểm về thực tiễn
Trước Mác đã có rất nhiều quan điểm về thực tiễn được đưa ta nhưng những
quan điểm ấy đều tồn tại khuyết điểm chủ yếu là chưa thấy hết vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức.
3



Một số nhà triết học như Ph.Bêcơn, Đ.Diđơrô...đề cao vai trò của thực nghiệm
hóa học, chưa đề cập đến vai trò của các hình thức khác của thực tiễn đối với nhận
thức.
G.Hêghen tuy có đề cập đến thực tiễn, nhưng ông không coi thực tiễn là hoạt
động vật chất mà là hoạt động tinh thần.
L.Phoiơbăc chỉ coi lý luận mới là hoạt động đích thực, còn thực tiễn chỉ
được ông xem xét ở khía cạnh biểu hiện bẩn thỉu mà thôi.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong
lý luận nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận nhận thức.
Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”
1.2.2. Thực tiễn là gì
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội – lịch sử của
con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội để phục vụ cuộc sống của mình.
1.2.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản:
- Thực tiễn lao động sản xuất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động
trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
- Thực tiễn chính trị xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt động của
con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các
thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và
tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
- Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục
vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
1.3. Yêu cầu của Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
1.3.1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận,
lý luận hình hành và phát triển từ sản xuất, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Thực tiễn là cở sở của lý luận: Những tri thức được khái quát thành lý luận

là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua kết quả hoạt
động thực tiễn, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các
yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình
hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được
khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người còn làm nảy sinh những
vấn đề mới đời hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó lý
luận được bổ sung, mở rộng. Đối với chủ nghĩa Mác, thực tiễn trước hết là sự hoạt
động sản xuất vật chất, nó là cơ sở sinh sống của con người , nó quyết định sự sinh
tồn của xã hội. Lý luận xuất hiện trên cơ sở của thực tiễn, nó là kết quả tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn của con người. Không có thực tiễn thì không có lý luận khoa
học. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận cần phải làm sáng tỏ, cần phải giải
4


đáp. Chỉ có lý luận nào gắn với thực tiễn, phục vụ cho nhu cầu thực tiễn và được
thực tiễn kiểm tra thì mới có lý do để tồn tại lâu dài.
Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động của con người không chỉ là
nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ
của con người với tự nhiên và xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp
cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích con người
bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự
tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc
hơn. Nhờ vậy hoạt động của con người không bị hạn chế trong không gian và thời
gian. Thông qua đó thực tiễn đã thúc đẩy các ngành khoa học ra đời, các lý luận
phát triển.
Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức
khái quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục
đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện
thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và đa
dạng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không tạo nên những sản phẩm đáp

ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực
tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con
người để đem lại cho con người ngày càng nhiều lợi ích. Đó thực chất là mục đích
của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người. Lý
luận quay về xâm nhập vào thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực
tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận thực
chất là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm, là giá trị của phương pháp lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con
người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Thông qua
thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang trí thức nhân
loại, những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc
nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động
thực tiễn. Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi
thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn
đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất
yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận
chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có
thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực
tiễn thì mới đạt đến chân lý.
C. Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân
lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thừa
nhận thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, cần chú ý những vấn đề sau:
5


- Thực tiễn chỉ là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính
toàn vẹn của nó.

- Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái
quát một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn.
Ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như: tiêu
chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị…
Qua đó, yêu cầu xây dựng lý luận phải xuất phát từ thực tế, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Nếu xa rời thực tiên sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, quan liêu,…tức lý luận suông.
1.3.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, ngược lại lý luận phải được
vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
C.Mác đã từng nói, người thợ xây không bao giờ tinh xảo như con ong xây
tổ, nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một công
trình, họ đã hình thành được hình tượng của công trình ấy trong đầu họ. Tức là
hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của con người
chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại
của mình. Thông qua đó con người khái quát thành lý luận. Từ đó những hoạt động
của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường. Chính nhờ có
lý luận soi đường, hoạt động của con người trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt
được mục đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận
còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự
báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong
quá trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả
mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con
người. Mặt khác, còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết các cá nhân
thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự
nhiên và xã hội.
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn có tính lịch sử, cụ thể.
Do đó khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích sự vật, hiện tượng, quá trình
trong mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc thì chẳng những hiểu

sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống
nhất tất yếu của lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn
của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú
và đa dạng nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn
được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương
pháp mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện
pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động
thực tiễn, không những thế lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực
6


tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, từ lý luận để xây dựng mô hình
thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn
biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh trong quá trình phát
triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực để đạt kết quả
cao hơn.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của
thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có
thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tế. Khi vận dụng lý luận vào thực tế,
chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong
trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của
lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực
tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến,
mà cả của tính hiện thực trực tiếp”.
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

2.1. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế ở Việt Nam
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là một
quá trình tất yếu của mỗi một quốc gia, từ một nước có nền kinh tế kém phát triển
vươn lên thành nước có nền kinh tế phát triển. Đối với nước ta, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là vẫn đề quan trọng của toàn Đảng,
toàn dân trong quá trình thực hiện mục tiêu: công bằng, dân chủ, văn minh
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước
ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt quan điểm
thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và
hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó
khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải
trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động
thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn
bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở
để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở
đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở
nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút
thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi mới. Có những
điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi
7


mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm
phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá
trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm,
lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân
dân là rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực

tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng
chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện
nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp,
không hề coi nhẹ lý luận. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố
gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.2. Trong hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận khoa học làm
phương pháp, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với không gian và thời
gian
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn mục
đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử
đã được lý luận khái quát. Mặc dù thực tiễn diễn biến phức tạp, ít khi lặp lại
hoàn toàn, song thực tiễn nào cũng mang tính khách quan, mang tính khuynh
hướng. Chính vì lý luận có khả năng phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý
luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn. V.I. Lênin đã nói rất
đúng rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Kiên
định lập trường đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Chính vì chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận không
chỉ được hình thành trong những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, trong sự
phát triển của khoa học tự nhiên cũng như những thành tựu của lý luận thế kỷ
XVIII – XIX mà còn được khái quát từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần
chúng lao động, đồng thời nó phù hợp với thực tiễn của lịch sử.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát

triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại”. “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và nhân dân ta”.
8


Lý luận không chỉ có kế thừa mà còn có tính cách mạng, tính dự báo. Khả
năng đó đã được thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh. Nhưng lý luận chỉ
khái quát thực tiễn dưới hình thức khuynh hướng. Sự phát triển phong phú, đa
dạng, phức tạp của thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn chính trị - xã hội càng đòi hỏi
phải dựa vào khuynh hướng cơ bản của lý luận để bổ sung, hoàn thiện lý luận về
chủ nghĩa xã hội phù hợp thực tiễn nước ta hiện nay.
Vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa phù hợp với cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện nay chính là khẳng định độc lập về tư tưởng của chúng ta.
Coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân
loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của nước ta. Khoa học và công nghệ không
chỉ phản ánh chân lí khách quan mà còn phản ánh nhu cầu và nguyện vọng
khách quan của con người. Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động
sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội thế giới. Không có một quốc gia
nào đứng ngoài sự tác động của nó. Khoa học và công nghệ là sự kế thừa và
tích hợp thành tựu của quá khứ và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao
thế hệ, là thành tựu mang tính nhân loại. Con đường phát triển ngắn nhất và
bền vững nhất hiện nay của các quốc gia chậm phát triển là tranh thủ thời cơ,
ứng dụng triệt để thành tựu của khoa học và công nghệ nhân loại để phát triển
đất nước. Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu cơ bản trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận và ứng
dụng triệt để sự phát triển của khoa học và công nghệ thế giới mới có thể phát
huy hết tiềm năng vốn có. Chính vì vậy, định hướng phát triển khoa học và công

nghệ nước ta trong thời gian tới là: "Tập trung xây dựng và phát triển tiềm lực
khoa học và công nghệ của đất nước, tăng năng lực tiếp thu, làm chủ thích nghi,
cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài trong một số lĩnh vực sản
xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, rút ngắn thời gian chuyển giao công nghệ, sớm
đưa vào ứng dụng trong sản xuất".
Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi vận dụng vào thực
tiễn phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, đồng thời biết tiếp thu những
thành tựu của tư duy nhân loại trong xây dựng nền kinh tế thị trường, thành
tựu về xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền, cơ chế quản lí khoa học, công
nghệ, văn hoá, xã hội... để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Một trong những lĩnh vực hoạt động của con người mà thực tiễn và lý
luận được kết hợp một cách mật thiết là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Giáo
dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm phát triển từ khi nền
cộng hoà được thiết lập. Trong quá trình cách mạng, giáo dục và đào tạo đã góp
phần đào tạo lớp người lao động mới có lí tưởng cách mạng, có năng lực hoàn
thành nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn, có sức khoẻ và có kỉ luật. Thắng lợi của
hai cuộc kháng chiến, của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong
9


thời kì đổi mới càng chứng tỏ giáo dục, đào tạo nước ta đã đóng góp tích cực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy thế, giáo dục và đào tạo nước ta còn
nhiều bất cập. Mô hình các bậc học, các loại hình đào tạo chưa thật khoa học và
ổn định, chưa thật phù hợp với thực tiễn. Nội dung, chương trình, chất lượng đào
tạo chưa đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của sự phát triển khoa
học và công nghệ. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, giáo dục và đào
tạo được xác định là quốc sách hàng đầu. Theo đó, đầu tư hàng năm cho giáo
dục và đào tạo được tăng lên. Mục tiêu giáo dục và đào tạo của nước ta là mở
mang dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đại hội IX xác định: “Bồi

dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc,
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu
học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao
động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả
thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ.
Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà
văn hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lí. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài
phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Giáo dục và đào tạo phải xuất
phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội nước ta, đáp ứng sự phát triển của đất nước,
phấn đấu để rút ngắn khoảng cách giữa giáo dục và đào tạo nước ta với các nước
tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Trong "Phương hướng, nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005", Chính phủ khẳng định:
“Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển
biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo... Tiếp tục đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và phương thức đào tạo đội ngũ
lao động có chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi
nhọn, công nghệ cao... Đổi mới cơ bản công tác quản lí và tổ chức giáo dục;
xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập
suốt đời theo hướng thiết thực, hiện đại, gắn chặt với yêu cầu của xã hội. Hoàn
thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để bảo đảm sự nghiệp giáo dục phát triển
ổn định, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về con người và nguồn nhân lực
cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và đẩy lùi những hiện
tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền giáo dục lành mạnh”.
2.3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là tuyệt đối hoá những thành công trong hoạt động thực
tiễn trước đây thành nguyên tắc hoạt động trong hiện tại khi những yếu tố và điều
kiện đã thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm. Tri

thức kinh nghiệm là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn
cụ thể với những yếu tố và điều kiện đơn giản, chưa biến đổi hoặc đã biến đổi
10


nhưng chưa được phản ánh kịp thời. Những tri thức kinh nghiệm góp phần tạo nên
những thành công không nhỏ, đặc biệt thành công trong quá khứ đã củng cố niềm
tin để tiếp tục khẳng định giá trị của các kinh nghiệm. Những thành công tiếp theo
khi tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm cũ vào hiện tại đã tạo nên chủ nghĩa kinh
nghiệm. Khi các yếu tố, các điều kiện đã thay đổi hoặc có những diễn biến phức
tạp nhưng vẫn tiếp tục vận dụng kinh nghiệm cũ thì nó trở thành bệnh kinh
nghiệm.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ rất
thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống - nền kinh tế chỉ dựa vào
kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức dân gian. Điều
đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của người Việt Nam chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của
bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian
dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỉ lại,
dựa dẫm là một trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa - tuyệt
đối hoá kinh nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên. Cơ chế hoạt động của từng lĩnh
vực chưa được luật hoá, việc tổ chức thực hiện tuỳ tiện dẫn đến chủ nghĩa kinh
nghiệm.
Kinh nghiệm có thể mang lại thành công. Những kinh nghiệm đó đáng được
trân trọng. Nhưng quá đề cao kinh nghiệm để trở thành căn bệnh thì rất nguy hiểm.
Tiếp tục vận dụng kinh nghiệm khi các yếu tố, các điều kiện đã thay đổi để dẫn đến
thất bại kéo dài, thậm chí sụp đổ thần tượng sẽ làm mất lòng tin với lớp người đã
có nhiều công lao với dân tộc, với đất nước. Đó là một trong những tội lỗi.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, một mặt phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng

cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp. Mặt
khác, phải triệt để thực hiện cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường đề cao thành
công hiện tại, quá khứ mang tính tham khảo. Do đó không có chỗ cho bệnh kinh
nghiệm tồn tại. Khi thị trường hoá toàn bộ các yếu tố của quá trình sản xuất cũng
như các lĩnh vực xã hội thì sẽ khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm.
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hoá lý luận hoặc
tuyệt đối hoá lòng tin khi các yếu tố và các điều kiện đã thay đổi.
Biểu hiện của bệnh giáo điều là chỉ hiểu lý luận theo một số nghĩa căn bản
nào đó, chỉ “tầm chương trích cú”, bỏ qua sự vận động, phát triển, biến đổi của
thực tiễn cũng như bản thân lý luận, coi chân lí đã được hình thành là bất di bất
dịch; chưa hiểu tính cụ thể, tính tương đối, tính tuyệt đối của chân lí. Người mắc
bệnh giáo điều chỉ căn cứ vào “câu, chữ” mà chưa hiểu được bản chất đích thực
của chúng; hoặc vận dụng chúng như “chiếc bùa hộ mệnh” để bảo vệ sự hiểu biết
trống rỗng của mình. Thực chất của bệnh giáo điều là xa rời thực tiễn, chưa coi
trọng vai trò của thực tiễn. Mặt khác, do chủ thể hoạt động ngại nghiên cứu, vận
11


dụng lý luận vào thực tế, ngại bám sát thực tiễn, không thường xuyên tổng kết thực
tiễn.
Một trong những sai lầm trong đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ
trước đổi mới cũng xuất phát từ căn bệnh giáo điều. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta
bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành
của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ
ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công
nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, hoặc theo học thuyết của
Mác thì phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện
nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh
tế mà không thấy được rằng “Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ”, sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác

động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này.
Chính những sai lầm này là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng
hoảng kinh tế trầm trọng trong thời kỳ trước đổi mới.
Bệnh giáo điều có căn nguyên sâu xa của nó. Trước hết là do hiểu lý luận
còn nông cạn, chưa có thực tiễn vận dụng lý luận nên khi thực tiễn biến đổi hoặc
xuất hiện thực tiễn mới thì lý luận trở thành giáo điều. Mặt khác, do tính tập trung
hoá cả trong lĩnh vực lý luận đã làm mất đi tính sáng tạo, sinh động của lý luận.
Quá trình đó lặp đi lặp lại một thời gian dài đã trở thành đường mòn trong tư duy
của cán bộ kể cả cán bộ khoa học. Những gì trên chưa khái quát, chưa có ý kiến
hoặc chưa được bổ sung bởi cơ quan có thẩm quyền đều bị phủ quyết tạo cho cán
bộ bệnh giáo điều. Thứ nữa, do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn. Vận dụng lý
luận vào hoạt động thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là vận dụng cái chung vào cái riêng
một cách linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết trích dẫn, thậm chí chỉ vận dụng lý luận
nhưng không quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.
Bệnh giáo điều đặc biệt nguy hiểm. Do giáo điều mà lý luận không mang lại
hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trò của lý luận
nói chung, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng. Đó là một trong những căn nguyên dẫn đến sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở một số nước, dẫn đến khủng hoảng (mất lòng tin) đối với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn mà cốt lõi là thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận như triết học Mác - Lênin đã khái quát cách đây hơn một thế kỉ. Tuy vậy, lý
luận vẫn có ý nghĩa quan trọng của nó. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã nói: “Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
12



Nhận thức sâu sắc về sự nguy hiểm của bệnh kinh nghiệm và giáo điều, từ
Đại hội Đảng lần VI (1986) Đảng đã khởi xuớng công cuộc đổi mới toàn diện tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tư duy
và đề ra phương hướng đổi mới của Đảng ta. Tại đại hội Đảng IX, Đảng đã chỉ rõ
phải “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm
làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng bước cụ
thể hoá, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu tranh với những
khuynh hướng tư tưởng sai trái”. Tại đại hội Đảng X, Đảng cũng nhận định đường
lối đổi mới của Đảng phải “xuất phát từ thực tiễn” và Đảng phải “thường xuyên
tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển”.
Một lần nữa tại đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng khẳng định “Kiên định con đường
đổi mới, chống giáo điều” và “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi
mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước”.
CHƯƠNG 3
THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
3.1. Thành tựu đạt được trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế ở Việt Nam
Năm 1986, nhận thức được những sai lầm trong đường lối chính sách của
mình, tại đại hội Đảng VI (12/1986) Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đường lối đổi mới ấy được điều chỉnh,
bổ sung và phát triển liên tục qua các đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI. Qua 30
năm thực hiện đường lối đổi mới Đảng và nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu
to lớn về mọi mặt, mang nhiều ý nghĩa lịch sử.
3.1.1. Kinh tế
Trong giai đoạn đổi mới từ sau 1986, Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế là
trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Tư tưởng chủ đạo của đường lối
đổi mới kinh tế là: giải phóng mạnh mẽ mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác tốt

và có hiệu quả mọi khả năng của đất nước, của mọi thành phần kinh tế; trên cơ sở
phát huy các nguồn lực trong nước là chính, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút mạnh
mẽ và có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài; hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý;
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và đổi mới quan hệ sản
xuất (cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) nhằm bảo đảm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, tạo
nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Mọi sự tăng trưởng và phát triển đều
hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
13


Đại hội VI (12/1986) xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế cho những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
1- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ;
2- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
3- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
Nhờ có định hướng đúng đắn này mà trong 20 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn.
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
- Giai đoạn 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương
trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN
trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ
sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và
giải phóng sức sản xuất.
- Giai đoạn 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy
thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình
quân hàng năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu
đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.

- Giai đoạn 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu
vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
- Giai đoạn 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP
theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu
đồng, tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước
ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2
về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
- Giai đoạn 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%.
Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt tỷ lệ cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện
đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và
tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so
với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5
lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP
bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
14


- Giai đoạn 2010-2015: Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức hợp lý, chất
lượng tăng trưởng tiếp tục có bước cải thiện. Tăng trưởng GDP bình quân 5 năm
đạt khoảng 5,9%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 3,01%/năm, công nghiệp-xây
dựng tăng 6,74%/năm, dịch vụ tăng 6,31%/năm. Quy mô nền kinh tế tiếp tục được
mở rộng, GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, gấp 2 lần so với năm 2010; GDP
bình quân đầu người ước đạt 2.228 USD, tăng 1,9 lần so với năm 2010.

Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa gắn với sản xuất thị trường
- Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ
trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất
khẩu.
- Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị
công nghệ ngày càng hiện đại.
- Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông
phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp
lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
- Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng
theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
- Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn
lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng
38% GDP của cả nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan
trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào
ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định:
- Qua 30 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
15


đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
- Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh
tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)...
- Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng
lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, đời
sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt:
- Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã
giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi
thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân được nâng cao.
- Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm
2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm
xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.
- Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên
khoảng 1168 USD năm 2010.

- Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng
dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi
thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
Kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã
được nâng cao
Với chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây
cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế,
khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
- Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)
gồm 10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng
10-2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
16


- Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và
châu Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
- Tháng 01-2007, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO. Sự kiện
này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần phải
vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu.
3.1.2. Thành tựu về văn hóa, xã hội và con người
Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 30 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã
hội, con người luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát
triển văn hoá, xã hội và con người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng:

Việt Nam là tấm gương sáng trong việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải
quyết thành công nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người.
Hôm nay đây, nhìn lại chúng ta có thể khẳng định những nét tổng quan nhất
về thành tựu văn hoá, xã hội và con người ở Việt Nam sau 30 năm qua là:
Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm, xoá đói,
giảm nghèo.
Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn.
Việc làm khan hiếm, số người không có việc làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu
nghèo diễn ra nhanh chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm
nhập ở mọi tầng lớp dân cư. Lấy phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức
mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, bằng trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết,
Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải quyết việc làm, xoá đói, giảm
nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân.
Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công
cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu
chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo
tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã
giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô
la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%. Ngay từ năm 2002,
Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch
toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung
học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm
1980 lên 95% năm 2004.
Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các
huyện và khu vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở
thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong

17


trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo
dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng
đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm
2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là
13,3%.
Khoa học-công nghệ và tiềm lực khoa học-công nghệ có bước phát triển nhất
định.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực
tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông
nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông... Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ
được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên
70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ
(bao gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp
phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án
phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ
nhập từ nước ngoài.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp
đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi,
cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công
bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi
năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức
dưới trung bình (0,498 năm 1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm 2002). Năm
2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều tra.
Năm 2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được
điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu
người thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002

vượt lên 19 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 128 trên tổng số 173 nước
được thống kê, còn HDI xếp thứ 109/173. Điều dó chứng tỏ sự phát triển kinh tế
của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu
người cao hơn nước ta.
Sự nghiệp văn hoá có nhiều tiến bộ
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và
phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong
đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới
trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài
năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và
phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh
và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát
triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu,
18


hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam
được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển đã
góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng
thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên
không ngừng.
Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ
Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng cũng như
về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp,
các cơ sở sản xuất, kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực
tiếp làm việc trong các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là
7,39 triệu người, chiếm 17,49% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề
nghiệp, nhìn chung, đã được nâng lên, thể hiện rõ nhất là ở một số ngành như bưu

chính viễn thông, dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tầu…
Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông
ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể,
những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ
chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo
đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ - hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư
nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đẳng,
đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học.
Đây là một lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn
nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đưa ra đường lối
đổi mới kịp thời, phù hợp, thì hiện tại vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế trong sự
vận dụng nguyên lý này.
Mặt hạn chế lớn nhất, dễ nhận thấy nhất là trong việc ban hành chính sách,
pháp luật nghị định. Chính sách, luật pháp thì có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế,
đời sống của nhân dân, những chính sách, luật pháp được đưa ra không phù
hợp, không đảm bảo thực hiện được vai trò của nó sẽ để lại những hệ lụy rất phức
tạp cho xã hội.
Trong thời gian qua, có rất nhiều chính sách được ban hành không xuất phát
từ thực tiễn, không lấy thực tiễn làm mục tiêu, động lực. Mỗi một chính sách hoặc
một kiến nghị nào đó được đề xuất đều phải hướng đến mục đích duy nhất đó là
khắc phục những tồn tại đã, đang hoặc sẽ xuất hiện trong thực tiễn xã hội. Thế
nhưng, đáng tiếc, đã có không ít chính sách hoặc các đề xuất đã hoặc manh nha
hình thành phải chết yểu hoặc ban hành nhưng không thể áp dụng.
19



Điển hình mới nhất cho việc chính sách được ban hành nhưng không thể áp
dụng trong thực tiễn và đã phải bãi bỏ đó là Thông tư 33 của Bộ NN và PTNT quy
định thịt và phụ phẩm bảo quản ở nhiệt độ bình thường chỉ được bày bán trong
vòng 8 giờ kể từ khi giết mổ. Nhưng điểm cốt lõi là làm sao có thể nhận biết thịt
đang bày bán còn trong thời gian 8 giờ kể từ khi giết mổ thì không được đề cập
đến, vậy căn cứ vào đâu để thực thi thong tư? Hay Thông tư 11/2013 do Bộ Công
an ban hành có hiệu lực từ ngày 15/4/2012 quy định chi tiết việc xử phạt đối với
hành vi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định” cũng “lâm” vào
hoàn cảnh: tạm dừng thực hiện. Bởi ở vào hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam
hiện nay, để đáp ứng điều kiện “xe chính chủ” phải mất hàng chục năm để thực
hiện, chứ không thể tiến hành theo lộ trình vài tháng hay một hai năm. Một quy
định nữa cũng không thể áp dụng trong thực tiễn đó là kể từ ngày 1/1/2013, các tổ
chức, hộ sản xuất kinh doanh rượu thủ công – hay nói cách khác là rượu tự nấu
muốn bán ra thị trường phải có giấy phép sản xuất, trên sản phẩm phải có nhãn
mác, phải đăng ký với chính quyền địa phương.
Trở lại với một vài chính sách đã nêu, có thể thấy rằng trước khi được ban
hành, dư luận xã hội đã có rất nhiều ý kiến không đồng tình bởi tính bất khả thi và
phi thực tế của nó. Nhưng đáng tiếc, các cơ quan chức năng vẫn không lắng nghe
(với tinh thần thật sự cầu thị) và dành sự quan tâm thích đáng, thậm chí có ý kiến
gay gắt hơn cho rằng đó là những người “ngồi trên trời làm chính sách”. Không
phải cần đến các chuyên gia cũng có thể thấy những chính sách này không thể thực
hiện được hoặc có chăng thì chỉ là ban hành cho có, cho đủ hoặc đơn thuần là phục
vụ “lợi ích nhóm”.
Còn về luật pháp, khi kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, khoa học kỹ
thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ dẫn đến rất nhiều vấn đề nảy sinh về tội phạm.
Những luật được ban hành nhiều khi không theo kịp với thực tiễn, để lọt rất nhiều
những hành vi sai phạm chỉ vì chưa có luật, hoặc có luật nhưng chưa có chế tài xử
lý, hoặc mức xử lý chưa tương xứng. Đơn cử vấn đề xử lý các loại tội phạm về an
ninh mạng, từ trước đến nay luôn gặp khó khăn vì thiếu chế tài, luật pháp chưa đủ
mạnh để răn đe, gây tổn thất cho ngân sách mà tội phạm vẫn nhởn nhơ ngoài vòng

pháp luật.
Bất kỳ một chính sách nào muốn đạt được hiệu lực, hiệu quả cao nhất bắt
buộc phải xuất phát từ cuộc sống, bám sát cuộc sống và phải phục vụ cho đời sống.
Thực tế đã chứng minh có không ít chính sách khi mới ban hành đã vấp phải sự
phản đối rất lớn. Nhưng thực tiễn lại khẳng định: việc phải ban hành chính sách đó
là đúng đắn và cần thiết - thì đương nhiên, người dân sẽ ủng hộ và chính sách đó
có sức sống.
Thực trạng này đòi hỏi Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan chính phủ phải
nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng luật, thay đổi tư duy làm chính
sách và nhất là trong quá trình soạn thảo chính sách, trước khi ban hành, phải thực
hiện đầy đủ các bước nghiên cứu, soạn thảo cơ bản: đánh giá tổng kết thực trạng
20


vấn đề, đặt ra mục tiêu, giải pháp, lấy ý kiến đánh giá của các đối tượng bị tác
động của chính sách. Có như thế thì hiệu quả, hiệu lực và sức sống của luật, của
chính sách mới bền, lâu được.

21


KẾT LUẬN

Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo hơn 30 năm qua đã đạt
được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội và có ý nghĩa lịch sử to lớn. “Đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và có sự thay đổi toàn diện, kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường.
Chính trị xã hội ổn định. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên

trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực cho đất nước phát triển đi lên với triển vọng tốt đẹp”.
Những thành tựu ấy có được là do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân đó là Đảng ta vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung cũng như nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
nói riêng.
Đảng đã từ thực tiễn, đứng trên thực tiễn để phân tích một cách khách quan,
khoa học các sự kiện đã xảy ra, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, những việc đã
làm được và chưa làm được, từ đó tìm ra nguyên nhân, đề ra đường lối để khắc
phục và phát triển. Tuy nhiên, tính chất khó khăn và phức tạp của sự nghiệp đổi
mới cũng như chiều sâu và tầm cỡ của nó đang đặt ra rất nhiều vấn đề lớn lao và
gay cấn đòi hỏi phải được giải quyết.
Vì vậy, đất nước có phát triển như nào thì chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn luôn là
kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Trước thực tế của quá trình phát triển
kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám, một lần nữa ta lại càng khẳng định
vai trò không thể thiếu được của quá trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ
trương xuất phát từ thực tiễn chi phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch
sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc hậu, thụt lùi mà ngày càng có vị
thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Đất nước Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, có cơ sở
vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế
giới.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. 2009;
2. PGS.TS Tô Huy Rứa, GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS.TS TRần Khắc Việt, PGS.TS

Lê Ngọc Tòng. Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay. Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009;
3. Đảng cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội. 2010;
4. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Bộ Giáo dục và
Đào tạo. NXB Chính trị Quốc gia. 2010;
5. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục và
Đào tạo. NXB Chính trị quốc gia. 2010;
6. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo. NXB Chính trị
quốc gia. 2013;
7. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

23



×