Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của nguyễn ngọc tư (khảo sát qua tập cánh đồng bất tận, gió lẻ và 9 câu chuyện khác) (2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.44 KB, 57 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
(Khảo sát qua tập Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
(Khảo sát qua tập Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học



ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và
lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình giúp đỡ
và hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ văn học Việt
Nam, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, khóa luận với đề tài Nhân vật trẻ em trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được hoàn thành dưới sự cố gắng của bản thân
cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn Phương Hà cũng như các
thầy, cô trong Tổ văn học Việt Nam.
Khóa luận của tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào đã
từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018

Sinh viên


Nguyễn Thị Thanh Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 7
1.1. Khái niệm về nhân vật và nhân vật trẻ em ................................................. 7
1.1.1. Khái niệm về nhân vật............................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm về nhân vật trẻ em ................................................................. 8
1.1.3. Khái quát về nhân vật trẻ em trong văn học Việt Nam........................... 8
1.2. Tác giả Nguyễn Ngọc Tư ......................................................................... 12
1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 12
1.2.2. Hành trình sáng tác............................................................................... 13
1.3. Vị trí của nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.............. 15
Chƣơng 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .......................................................................... 17
2.1. Nhân vật trẻ em – nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu ..................... 17
2.1.1. Những đứa trẻ mồ côi chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh .......................... 17
2.1.2. Những đứa trẻ với tuổi thơ nhọc nhằn, bươn chải kiếm sống .............. 21
2.1.3. Những đứa trẻ là nạn nhân, phải gánh chịu những sai lầm của người lớn
......................................................................................................................... 23

2.2. Nhân vật trẻ em mang vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng ............................... 27
2.2.1. Trẻ em luôn khao khát được yêu thương .............................................. 27


2.2.2. Khát vọng vươn lên số phận ................................................................. 29
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN VỀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC
TƢ ................................................................................................................... 33
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 33
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình .............................................................. 33
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ....................................................... 35
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 38
3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc tự nhiên, đậm chất Nam Bộ .................................. 38
3.2.2. Sử dụng các biện pháp tu từ, gần gũi với sự liên tưởng của trẻ em. ..... 40
3.3. Giọng điệu. ............................................................................................... 42
3.3.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên ......................................................... 42
3.3.2. Giọng điệu xót xa, thương cảm ............................................................. 44
KẾT LUẬN .................................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học từ 1975 đến nay, đang có những bước phát triển mạnh mẽ
với sự xuất hiện của thế hệ các nhà văn trẻ tài năng, giàu nhiệt huyết. Họ
không chỉ chứng kiến sự tàn phá, khốc liệt của chiến tranh mà còn là những
con người tự ý thức được sứ mệnh, trách nhiệm của mình để đáp ứng nhu cầu
của thời đại. Chúng ta không thể không nhắc đến những cây bút tài năng của
với nền văn học Việt Nam như: Y Ban, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan
Thị Vàng Anh, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư.

1.2. Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ, khỏe và đầy nhiệt huyết sáng
tạo của văn học Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Chị đã
chinh phục được hàng triệu trái tim độc giả bằng ngòi bút sắc sảocủa mình.
Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư rất bình dị, nguyên sơ nhưng lại mang đến
sức hút mạnh mẽ với độc giả và có sức lan tỏa lớn. Chúng ta có thể kể đến các
tác phẩm tiêu biểu như: Ngọn đèn không tắt, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9
câu chuyện khác, Khói trời lộng lẫy,…để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn
đọc.
1.3. Đọc truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, bên cạnh đề tài về người phụ
nữ, thế giới trẻ em cũng là nguồn cảm hứng trong sáng tác của chị. Với tài
năng nghệ thuật và nhãn quan của nhà văn, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nên
thế giới trẻ em trong sáng, hồn nhiên nhưng cũng chịu nhiều mất mát, thiệt
thòi và bất hạnh. Viết về trẻ em, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm tấm lòng, tình
cảm và cái nhìn ấm áp, bao dung.
Vì những lí do trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Nhân vật trẻ
em trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (khảo sát qua tập Cánh đồng bất
tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác) làm đối tượng nghiên cứu. Với mong
muốn đóng góp thêm cái nhìn mới về nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của

1


Nguyễn Ngọc Tư, qua đó thấy được vị trí và tài năng của Nguyễn Ngọc Tư
trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện muộn nhưng chị nhanh chóng khẳng định
được vị trí của mình trong văn đàn Việt Nam. Ngay từ những trang viết đầu
tay, chị đã tạo dấu ấn với một phong cách văn chương mới lạ mang đậm chất
Nam Bộ. Giới nghiên cứu, nhà phê bình văn học đã dành nhiều lời, đánh giá
cao về phong cách văn chương và các sáng tác của chị.

Nhà văn Nguyễn Công Thuấn trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư và hành
trình đã đi khẳng định: “Khi tôi viết những dòng này thì Nguyễn Ngọc Tư đã
được bao bọc bởi quá nhiều hào quang cả sự thành công và những lời khen
ngợi…Hãy cứ để cho những vòng hào quang tỏa sáng tên với Nguyễn Ngọc
Tư và để những lời ngợi ca dành cho chị còn vang vọng mãi bởi đó là tấm
lòng của người đọc đối với nhà văn họ yêu mến. Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn
nhân hậu. Chị xứng đáng được nhận những vòng hoa và những vương viện
của lòng yêu thương” [14].
Năm 2006, tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận được nhận giải nhất của
Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã tạo nên thành công lớn trong sự nghiệp
sáng tác của chị. Khảo sát tập Cánh đồng bất tận người đọc nhận thấy
Nguyễn Ngọc Tư trưởng thành và chuyên nghiệp hơn trong cách viết và việc
sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm đã nhận được nhiều sự ca ngợi của các nhà
nghiên cứu, phê bình văn học.
TS. Nguyễn Đăng Điệp trong bài tham luận tại Hội nghị lí luận, phê
bình văn học đã khẳng định: “Cánh đồng bất tận không chỉ là truyện ngắn
xuất sắc của Nguyễn Ngọc Tư mà thực sự là một trong những truyện ngắn
xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại” [6]. Đồng quan điểm, nhà nghiên
cứu Phạm Xuân Nguyên nhấn mạnh: “Cánh đồng bất tận là một truyện hay.
Nó chứng tỏ bút lực của Nguyễn Ngọc Tư trong việc đào sâu vào thể hiện
2


cuộc sống và khơi sâu vào thân phận con người. Viết được một truyện như
thế chứng tỏ Tư có tài năng và lòng thương người. Đúng vậy thương người
bằng cái nỗi đau của con người, bằng cái nhìn thẳng vào những vùng sáng
tối, chồng chéo trên những khuôn mặt người và trong những cõi lòng
người” [11]. Có thể thấy, Nguyễn Ngọc Tư đã đi sâu vào thân phận con
người, khai thác tình người và bộc lộ nhiều giá trị nhân văn về cuộc sống, về
con người qua tác phẩm.

Năm 2008, tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác ra đời. Nguyễn Ngọc Tư
phát huy và khẳng định tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ địa phương và
đưa đối thoại vào trong văn. Tác phẩm đã khai thác triệt để các thế mạnh
trong ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư. Những câu chuyện thường mang nhiều
tầng nghĩa mà lắng sâu chất Nam Bộ giúp người đọc dễ đọc, dễ cảm nhận.
Tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác cũng nhận được những lời nhận xét, đánh
giá khá sắc nét. Nhà phê bình Minh Thi nhận định: “Gió lẻ và 9 câu chuyện
khác là một cách viết khác, một cuộc tìm kiếm khác, để tạo nên phong cách
đa dạng hơn và cũng nhiều triết lí hơn cho Nguyễn Ngọc Tư”. Có thể thấy,
Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến một sự mới mẻ với một chất giọng riêng
không giống với các tác phẩm trước.
Tìm hiểu kĩ hơn về sáng tác Nguyễn Ngọc Tư, bài viết Truyện thiếu
nhi của Nguyễn Ngọc Tư những khắc khoải nhân sinh, PGS.TS Nguyễn
Thị Bình đã nhận định: “Với tôi, gương mặt trẻ em, tiếng nức nở trẻ em, sự
thơm thảo hồn nhiên nhạy cảm tuyệt vời của trẻ em giữa một thế giới quay
cuồng dục vọng, tất bật mưu sinh, chai lì cảm xúc… Đấy mới là thước đo
trách nhiệm là điểm quy chiếu các giá trị nhân văn – thẩm mỹ quan trọng
nhất của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư… Trong rất nhiều tác phẩm của chị
dường như luôn có một đôi mắt trẻ con mở to nhìn vào cách hành xử của
người lớn, ngạc nhiên, chờ đợi, thắc mắc… Chúng bắt người lớn phải trả lời

3


về những mỗi buồn của chúng: sự thất học, mặc cảm con hoang, mang mặc
cảm bị bỏ rơi, bị sỉ nhục…”.
Nhận định về tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, tác giả Phạm Xuân
Nguyên đã có những nhận xét xác đáng: “Văn của Nguyễn Ngọc Tư, có thể
nói, là cách nhìn vào thế giới lớn ngổn ngang, phức tạp, đầy bất hạnh và bi
kịch, từ những đứa trẻ ngây thơ – già nua. Hoàn cảnh chung tạo nên cảnh

ngộ bất hạnh của chúng là sự tan vỡ của các gia đình, sự phản bội nhau của
các cặp vợ chồng” [6].
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư. Có thể kể đến luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Thu
Hiên (2013) với đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư đi sâu vào tìm hiểu các kiểu nhân vật trong truyện ngắn là những người
nông dân nghèo vùng sông nước Nam Bộ, những con người lao động có
phẩm chất tốt đẹp, giàu khao khát yêu thương, nhân vật mang tính bản năng,
số phận nhân vật mang sắc thái bi kịch. Đồng thời, luận văn cũng triển khai
một số phương diện nghệ thuật như: nghệ thuật miêu tả tâm lí để làm nổi bật
lên thế giới nội tâm của nhân vật, miêu tả ngoại hình nhân vật để thấy được
tính cách và số phận của nhân vật ở trong mọi hoàn cảnh.
Tác giả Phạm Thị Nga (2013) với khóa luận Nhân vật bi kịch trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã chỉ ra số phận bi kịch của các nhân vật:
những con người chung thủy nhưng bị bội tình; con người ở hiền bị ức hiếp,
người là nạn nhân của đói nghèo; con người cô đơn, lạc lõng; những thân
phận đau thương do chiến tranh.
Có thể thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu về hai tập truyện của
Nguyễn Ngọc Tư là những bài viết lẻ tẻ, mang tính chất gợi mở, cũng chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Tiếp nối những người đi
trước chúng tôi lựa chọn đề tài Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư là đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
4


3. Mục đích nghiên cứu
Từ tên gọi của đề tài, chúng tôi hướng tới những mục đích sau:
- Thứ nhất: Tìm hiểu về nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, nhằm lí giải những số phận của những đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi,
bất hạnh nhưng tận sâu trong những tâm hồn bé nhỏ, thơ dại ấy lại luôn chất

chứa những khát khao về tình yêu thương, mái ấm gia đình, hạnh phúc.
- Thứ hai: Khẳng định tài năng Nguyễn Ngọc Tư mảng đề tài viết về
thiếu nhi nói riêng và những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với văn học
Việt Nam đương đại nói chung ở nhiều thể loại, trong đó tiêu biểu là truyện
ngắn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận hướng tới nghiên cứu nhiệm vụ sau:
- Nhận diện các kiểu nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư (trẻ em nạn nhân của hoàn cảnh trớ trêu, đứa trẻ với tuổi thơ nhọc
nhằn kiếm sống; trẻ em mang vẻ hồn nhiên trong sáng luôn tha thiết được yêu
thương và khát vọng vươn lên cuộc sống).
- Chỉ ra một số phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật trẻ em trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ,
giọng điệu).
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung tìm hiểu thế giới nhân vật
trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một khóa luận, chúng tôi
khảo sát hai tập truyện ngắn là: tập Cánh đồng bất tận (Nxb Trẻ, năm 2005)
và tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Nxb Trẻ, năm 2008).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận tập trung các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
5


- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, bình giảng tác phẩm
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của khóa luận được triển khai thành 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Các kiểu nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư.
Chương 3: Một số phương diện về nghệ thuật thể hiện nhân vật trẻ em
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

6


NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm về nhân vật và nhân vật trẻ em
1.1.1. Khái niệm về nhân vật
Từ xưa đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm nhân vật
văn học. Trong cuốn Từ điển văn học định nghĩa: “Nhân vật là yếu tố cơ bản
nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt
mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung
khắc họa. Nhân vật, do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác
phẩm văn học” [13; 86].
Tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng: “Nhân vật văn học là một trong những
khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng,
trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ
thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con
người trong ngôn từ nghệ thuật. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi
là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những
đặc điểm giống con người” [1; 241].
Giáo trình Lí luận văn học của GS. Phương Lựu đưa ra khái niệm về
nhân vật văn học: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu
tả, được thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những

nhân vật có tên như Tấm Cám, Thạch Sanh…Đó là những nhân vật mang nội
dung và ý nghĩa con người…Khái niệm nhân vật có khi được sử dụng một
cách ẩn dụ không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng cụ thể
trong tác phẩm. Nhân vật văn học là một hiện tượng mang tính ước lệ, có
những dấu hiệu để nhận ra” [9; 277].
Như vậy, trên đây là những nhận định tương đối toàn diện về nhân vật
văn học. Bởi nhân vật là điều kiện cần thiết để tác giả khám phá, đánh giá và
lí giải số phận, cuộc đời nhân vật, tạo sự hấp dẫn, thú vị đến với bạn đọc.
7


1.1.2. Khái niệm về nhân vật trẻ em
Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em, khái niệm trẻ em được hiểu như
sau: “Trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp
áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Luật pháp Liên
bang Hoa Kì quy định: “Trẻ em là người dưới 18 tuổi”.
Ở Việt Nam, pháp luật chưa có các quy định thống nhất về khái niệm
trẻ em trong từng nghành luật cụ thể. Theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2005 cho rằng: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” còn
Bộ luật dân sự (2005) lại ghi: “Trẻ em là những người dưới 15 tuổi”. Ở mỗi
quốc gia tùy thuộc vài sự phát triển thể chất, tâm sinh lí của trẻ mà có quy
định riêng độ tuổi gọi là trẻ em.
Trong phạm vi của khóa luận này, chúng tôi tạm quy ước nhân vật trẻ
em là những đứa trẻ dưới mười tám tuổi và được nhà văn khắc họa trong văn
học. Tác giả thể hiện cái nhìn về trẻ em, với những nét tính cách, đặc điểm số
phận trong đời sống văn hóa, xã hội, lịch sử một cách khái quát. Đồng thời,
nó cũng phản ánh những quy luật của đời sống và của trẻ thơ trong cuộc sống.
1.1.3. Khái quát về nhân vật trẻ em trong văn học Việt Nam
1.1.3.1. Trước 1975
Trong cuộc sống cũng như trong văn học, nhân vật trẻ em là đối tượng

thường được quan tâm nhiều hơn cả bởi trẻ em chính là những búp măng non
của đất nước, mang vẻ đẹp thuần khiết, cần được bảo vệ và nâng niu. Nhân
vật trẻ em từ lâu đã là một trong những đề tài thôi thúc tác giả để viết lên
những mảnh đời, những số phận bất hạnh khiến người đọc không khỏi xót xa,
thương cảm như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyên
Hồng.
Với nhà văn Nguyên Hồng, nhân vật trẻ em trong các tác phẩm của ông
đều là những đứa trẻ con của các gia đình lao động nghèo khổ, phải làm đủ
mọi nghề để tồn tại. Chúng không tự bảo vệ được mình trong xã hội đầy cạm
8


bẫy, bất công và luôn bị lạm dụng sức lao động một cách tàn nhẫn, thiếu thốn
cả vật chất lẫn tinh thần. Các em còn bị chính những người thân của mình
ngược đãi, bị hành hạ, đánh đập. Cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu mồ
côi cha từ năm mười hai tuổi, mẹ đi bước nữa và thường phải đi làm ăn xa.
Thiếu thốn về vật chất và thiếu sự chăm sóc của người thân khiến bé Hồng
phải lăn lộn nơi đầu đường xó chợ. Cùng chung cảnh ngộ với bé Hồng là
Thạo bé, Tý con trong tác phẩm Những mầm sống…Mỗi một đứa trẻ là một
số phận, một mảnh đời đau đớn, côi cút.
Nhắc đến tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chúng ta nhớ đến nhân vật
cái Tí, một em bé nhỏ tuổi nhưng sớm đảm đang, yêu thương bố mẹ, các em
và có trách nhiệm biết hi sinh vì gia đình. Khi sinh ra, Tí phải chịu nhiều khổ
cực. Do hoàn cảnh, cái Tí phải đi ở nhà Nghị Quế, bị coi thường thậm chí còn
phải ăn cả phần cơm thừa của một con chó. Độ tuổi đấy, các em phải được
yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ. Vậy mà, chính xã hội phong kiến đẩy con
người đến cùng cực ngay khi còn là một đứa trẻ. Người đọc không khỏi
những băn khoăn, trăn trở trước số phận đáng thương của em.
Khi đất nước bước vào cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, hình
ảnh trẻ em mang nhiệm vụ lớn lao, cao cả. Đó là những em bé tham gia liên

lạc, diệt ác trừ gian tà, sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng Cách mạng. Tác phẩm
Chiến sĩ ca nô của Nguyễn Huy Tưởng, miêu tả những ngày đầu chống thực
dân Pháp, lực lượng ta không cân sức với địch nhưng với lòng dũng cảm,
mưu trí, Tý - một em bé gan dạ, dũng cảm đã cùng năm anh em du kích kéo
về cả một đoàn thuyền cho ta. Sau này, Tý nhận được giải thưởng Huân
chương chiến sĩ hạng Nhì.
Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xuất hiện khá nhiều chuyện
về cuộc sống của trẻ em ở các đội Măng non, Thiếu niên tiền phong…Để lại
dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc là những em bé mang trong mình nỗi
căm thù giặc, sẵn sàng tiếp nối vững bước cha anh đi trước để bước vào cuộc
9


kháng chiến như những người anh hùng. Hàng loạt tác phẩm Những đứa con
trong gia đình, Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi, Chiếc lược ngà của Nguyễn
Quang Sáng,… thế giới nhân vật trẻ em được khắc họa rõ nét. Các em vừa đi
học, vừa đào hầm, đắp lũy, tham gia cách mạng khi giặc đến như một người
chiến sĩ kiên cường….Đó là những hình ảnh đẹp, trong tư thế oai hùng, bất
khuất của những chiến sĩ nhi đồng giàu lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng.
Qua đó, ta mới thấy được rằng tội ác chiến tranh càng không thể hủy diệt
được sức mạnh tinh thần của những gương mặt trẻ thơ, ngược lại càng bùng
lên một khí chất ngang tàng, kiên cường, dũng cảm.
1.1.3.2. Sau 1975
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa kết thúc thắng lợi, đất nước
hòa bình thống nhất. Chúng ta vừa khắc phục tổn thương nặng nề của chiến
tranh, vừa tiến hành công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Khi cuộc sống
hòa bình, ý thức về giá trị cá nhân lại có một vị trí cần thiết trong nền văn hóa
của cộng đồng. Vì vậy, điều mà mỗi con người quan tâm đến là nhu cầu cá
nhân. Văn học viết về trẻ em ở giai đoạn này chịu sự chi phối của thời đại.
Nhiều nhà văn lấy hình tượng trẻ em là nhân vật chính trong sáng tác. Có thể

kể đến các tác giả: Ma Văn Kháng, Nguyễn Nhật Ánh, Phạm Thị Hoài, Phan
Thị Vàng Anh,…
Tìm hiểu đề tài thiếu nhi trong sáng tác của Ma Văn Kháng, ta thấy
đời sống của những đứa trẻ được đưa vào cuộc sống trong gia đình. Trong
truyện Côi cút giữa cảnh đời đó là bé Duy, Thảm được khắc họa rõ nét. Sinh
ra một gia đình ấm êm, hạnh phúc nhưng bố của Duy bỏ nhà ra đi, sau đó mẹ
của em cũng rời xa em. Lúc này, bên cạnh em chỉ còn lại người bà giàu lòng
yêu thương, nhân hậu nuôi dạy em trưởng thành. Cuộc sống ấy không hề dễ
dàng với một đứa nhỏ, từ bé đã phải mưu sinh. Nhờ lòng kiên trì, sức mạnh
của ý chí, nghị lực cùng sự yêu thương, quan tâm của người bà đã giúp Duy
vượt qua được tất cả những gian khổ và cuối cùng hạnh phúc cũng được đến
10


bên em. Tài năng của Ma Văn Kháng, ở việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo
le, để rồi tự họ phải vươn mình, trải qua những trở ngại. Tác phẩm như một
lời cảnh tỉnh những bậc cha mẹ, cần quan tâm tới con cái. Đừng để tuổi thơ
của các em bị tổn thương, vẩn đục.
Đến với Kính vạn hoa của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, thấy được tác
phẩm kể về tình bạn, việc học hành, những câu chuyện về cuộc sống, và
những trò nghịch ngợm của ba đứa trẻ Qúy Ròm, Tiểu Long và Hạnh cận. Tất
cả tạo nên một thế giới trẻ thơ phong phú, đầy màu sắc và gần gũi. Bằng lối
viết giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ gần gũi dễ hiểu, hướng theo cách nhìn của trẻ
thơ, hồn nhiên, tinh nghịch. Có thể coi Kính vạn hoa là tác phẩm thành công
nhất của Nguyễn Nhật Ánh, một bộ truyện gối đầu giường của các em học
sinh lúc đó.
Tác phẩm Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, nhân vật bé Hon - một cô bé
đặc biệt mang trong mình chức trách là một thiên sứ đi xuống cõi trần gian.
Cô luôn khao khát được yêu thương và luôn ban phát tình yêu. Bé Hon, đi đâu
gặp ai cũng nở nụ cười trẻ thơ và lời mời ngọt ngào “thơm nào”. Đáng thương

thay, thiên sứ lại bị từ chối ngay trong chính gia đình yêu thương của mình.
Lúc đầu họ còn phấn khởi, dần dần cảm thấy khó chịu, cau có, rồi không ai
đón nhận nụ cười và đôi môi của bé nữa. Cuối cùng bé Hon vĩnh viễn từ giã
cuộc đời mình với đôi môi đỏ cháy. Một nhân vật - bé Hon hoàn toàn khác lạ
với các nhân vật trẻ em trong văn học truyền thống. Đây cũng là một lời đánh
thức con người khỏi sự vô cảm, thờ ơ với trẻ nhỏ.
Nhân vật trẻ em còn được đề cập trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của
Phùng Quán (Lượm, Tư dát, Quỳnh sơn ca) ở độ tuổi rất nhỏ. Chỉ mười ba,
mười bốn tuổi nhưng vẫn mang trong mình nhiệm vụ cao cả, nhiệt tình với
cách mạng. Không chỉ phải chiến đấu với giặc xâm lược mà các em còn phải
vượt qua những trông gai, thử thách trong cuộc sống luôn bủa vây xung
quanh. Đến với Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán độc giả như được hòa mình
11


vào chính nhân vật, thấu hiểu được cảm xúc của tác giả. Người đọc gấp
những trang sách lại vẫn thấy hiện hữu xung quanh mình những bóng hình
trẻ thơ ấy.
Kế thừa từ những người đi trước văn học sau năm 1975, thế giới nhân
vật trẻ em được tiếp cận từ đề tài đến hiện thực đời sống cũng phong phú, đa
dạng hơn giai đoạn trước, giúp cho người đọc hình dung về thế giới trẻ em
với nhiều màu sắc, góc độ mới. Tóm lại, trong dòng chảy văn học, thế giới
nhân vật trẻ em góp phần quan trọng trong bức tranh toàn cảnh đó. Trước năm
1975, nhân vật trẻ em chưa thực sự được nhiều nhà văn chú ý đến và chủ yếu
là những hình tượng nhỏ tuổi mà anh dũng, kiên cường với mục đích nêu
gương cổ vũ công cuộc kháng chiến. Sau 1975, khi đất nước hòa bình, nhân
vật trẻ em được các nhà văn khai thác ở nhiều góc độ, khía cạnh, đóng vai trò
to lớn. Nhân vật chính của tác phẩm, được nhà văn bộc lộ quan điểm nghệ
thuật, mặt khác trẻ em còn được khám phá trong mối quan hệ đa chiều với gia
đình, bạn bè, nhà trường, thầy cô, xã hội…Màu sắc những đứa trẻ ấy có sức

lan tỏa mạnh mẽ đến tâm trí bạn đọc. Nguyễn Ngọc Tư - một tác giả tiêu biểu
cho lối viết mới về trẻ em trong giai đoạn văn học hiện đại.
1.2. Tác giả Nguyễn Ngọc Tƣ
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Ngọc Tư sinh ngày 01/01/1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm
Dơi, tỉnh Cà Mau. Sinh ra trong một gia đình lao động giàu truyền thống
Cách mạng, cha của chị là một người hay làm thơ, viết báo. Chính vì thế mà
máu văn chương cùng với nghề báo chí thấm sâu trong máu thịt của chị từ
nhỏ. Điều đó, có vai trò to lớn trong việc hình thành văn chương của chị.
Thuở nhỏ, Nguyễn Ngọc Tư là một cô bé hiền hòa, chăm chỉ giúp bố mẹ.
Vì hoàn cảnh gia đình không có điều kiện, chị chỉ học hết cấp 2, sau đó học
bổ túc, rồi tự chị học hỏi bên ngoài để tích lũy kinh nghiệm sống và khả năng
viết văn của mình. Ban đầu, chị thích viết và một phần muốn chia sẻ bớt gánh
12


nặng kinh tế gia đình. Nhưng khi người cha nhìn thấy tài năng của con mình,
ông không chỉ động viên: “Nghĩ gì, viết nấy, viết những gì con đã trải qua”.
Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu viết và tìm được niềm vui trong đó. Tác phầm đầu
tay của chị được gửi đến tạp chí và được đăng trên Văn nghệ bán đảo Cà
Mau. Sau khi trở thành phóng viên Tạp chí Văn nghệ và tham gia công tác tại
Hội văn học nghệ thuật Cà Mau đã giúp cho bản thân chị có điều kiện để phát
triển tài năng, đam mê nghệ thuật. Dường như các tác phẩm của chị được xuất
phát từ chính những trải nghiệm từ cuộc đời của chị và những hiểu biết sâu
sắc, đồng cảm với những con người nghèo khổ.
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn tài năng, ra mắt bạn đọc nhiều tác
phẩm hay và thú vị. Đọc những trang văn của chị, mọi thứ hiện lên thật sinh
động, người đọc tưởng như mình đã bắt gặp nhân vật ở ngoài đời thực rồi.
Văn phong của Ngọc Tư lôi cuốn được bạn đọc với lối viết nồng hậu, nhẹ
nhàng nhưng gây ấn tượng mạnh mẽ tới độc giả bởi cái vẻ nhẹ nhàng trong

từng câu chữ. Vậy nên, chị còn rất trẻ nhưng nhanh chóng gặt hái được nhiều
giải thưởng cao quý trong văn học.
1.2.2. Hành trình sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những gương mặt nữ nhà văn trẻ tiêu biểu
của Nam Bộ đã mang đến dấu ấn đậm nét trên văn đàn Việt Nam đương thời.
Chị sáng tác rất nhiêu thể loại như: truyện ngắn, tạp văn, ký…và gặt hái được
nhiều thành công.
Nguyễn Ngọc Tư đến với truyện ngắn như một cái duyên, tình cờ. Trong
cuộc vận động sáng tác “Văn học tuổi 20” ( lần thứ 2) do Hội nhà văn thành
phố Hồ Chí Minh (báo Tuổi trẻ tổ chức năm 2000), Nguyễn Ngọc Tư đạt giải
nhất với tập truyện Ngọn đèn không tắt. Cùng với tập truyện này, chị đạt giải
thưởng văn học của Hội nhà văn Việt Nam vào năm 2001. Tác phẩm này đã
được chọn in lại trong “Tủ sách vàng” của Nhà xuất bản Kim Đồng năm
2003. Sau đó, chị tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình và được bình chọn là
13


một trong mười gương mặt tiêu biểu trong năm do Trung ương Đoàn trao tặng
và được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, trở thành hội viên trẻ tuổi nhất
(năm 27 tuổi)…Nguyễn Ngọc Tư cũng có tên trong tuyển tập truyện ngắn
Việt Nam được dịch, in ở Mĩ và được vinh dự chọn lên hình của chương trình
“Người đương thời” năm 2005. Năm 2008, chị được nhận giải thưởng văn
học ASEAN.
Sau thành công của tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt năm 2000,
Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục ra mắt độc giả một loạt các truyện ngắn: Ông ngoại
(2001), Biển người mênh mông (2003), Nước chảy mây trôi (2004). Năm
2005, tập truyện Cánh đồng bất tận ra đời, đoạt giải thưởng của Hội nhà văn
Việt Nam. Chị sáng tác không ngừng nghỉ và cho ra đời hàng loạt tác phẩm:
Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (2008), Khói trời lộng lẫy (2010), Đảo (2014),
Trầm tích (2014), gần đây nhất là tập truyện Không ai qua sông (2016). Từ

đó, chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư là cây bút tài năng, sức sáng tạo dồi dào, sáng
tác không nghỉ. Khi viết về truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư thường đề cập đến
hoàn cảnh của các gia đình nghèo, số phận buồn của những con người nhỏ bé,
những người nông dân hiền lành, lương thiện, chân chất với những ước mơ
bình dị đáng được cảm thông. Những câu chuyện của chị thường đượm buồn,
vì với bản thân chị viết về những số phận con người cực khổ kia sẽ chạm đến
trái tim bạn đọc.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư còn xuất
sắc với các thể loại khác: ký, tản văn và tạp bút. Cuối năm 2005, Nhà xuất
bản Trẻ phối hợp với Thời báo Kinh tế Sài Gòn đã ra mắt cuốn tạp văn đầu
tiên mang tên Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư. Đọc những trang viết này, ta thấy
được những bài viết luôn chất chứa những trăn trở, suy tư về cuộc đời, lẽ sống
mà không phải bất cứ một ai cũng có thể nắm bắt được. Ngoài ra, ở thể loại
ký, tản văn, tạp bút, Nguyễn Ngọc Tư còn có những tác phẩm xuất sắc như:
Sống chậm thời @ (in chung với Lê Thiếu Nhơn năm 2005), Ngày mai của
14


những ngày mai (2007), Yêu người ngóng núi (2009), Gáy người thì lạnh
(2012), Đong tấm lòng (2015). Các sáng tác của chị luôn được độc giả đón
nhận và giới phê bình văn học đánh giá cao.
Thành công liên tiếp mà chị đạt được cùng với số lượng cũng như chất
lượng, qua các tác phẩm cho thấy Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn nghiêm
túc, miệt mài lao động và tích lũy vốn sống để nuôi dưỡng cảm hứng và năng
lực sáng tác. Cho đến nay, qua chặng đường hơn mười năm cầm bút, thành
công ở cả hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định
được tên tuổi và vị trí của mình trong đội ngũ sáng tác trẻ đương đại.
1.3. Vị trí của nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
Nguyễn Ngọc Tư sáng tác nhiều, nhưng có lẽ ám ảnh nhất trong nhiều
tác phẩm của chị là số phận của những đứa trẻ nghèo, lam lũ, cô đơn. Cũng

bởi, chị đã từng trải qua hoàn cảnh mà phải kìm nén biết bao mơ ước tươi đẹp
của tuổi thơ để mưu sinh. Vậy nên, những sáng tác của chị, chủ yếu viết về
những đứa trẻ có cuộc đời vất vả, bất hạnh, nhọc nhằn. Đó là đứa bé nghèo
đến nỗi thân thể gầy gò, khô quắt với mong ước kiếm được vài gói mì ăn liền
(Sầu trên đỉnh Puvan), chị em Nương và Điền sống trong bơ vơ, lạc lõng,
luôn khao khát đón nhận tình yêu thương (Cánh đồng bất tận), những đứa trẻ
sống không có tình thương, bị người lớn lợi dụng như thằng bé Sói (Ấu thơ
tươi đẹp). Đặc biệt là trong tập truyện ngắn Gió lẻ và 9 câu chuyện khác,
Nguyễn Ngọc Tư đã hiểu rõ và hóa thân vào từng hành động, cử chỉ nhân vật
trong truyện để nói lên những tình cảm, suy nghĩ một cách chân thực và
những số phận hẩm hiu, nghiệt ngã mà các em phải gánh chịu. Chính nét hồn
nhiên, trong sáng được biểu hiện qua từng câu chuyện khiến cho người đọc
phải ngậm ngùi xót xa và thương cảm. Trong câu chuyện Vết chim trời là hai
anh em Vĩnh và “tôi”, hai đứa bé phải hứng chịu hậu quả tâm lí từ lỗi lầm của
người lớn gây ra.

15


Trong các câu chuyện của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta còn thấy xuất
hiện những bóng dáng, mảnh đời những đứa trẻ nghèo, mồ côi bị cha mẹ bỏ
rơi, bị dòng đời xô đẩy. Đó là Phi phải tự thân lăn lộn kiếm sống, phải tự
thích nghi, học hỏi để tồn tại trong truyện Biển người mênh mông, Sói và
Nhiên với tính cách dị biệt, cục cằn, thô lỗ trong truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp.
Bên cạnh đề tài viết về phụ nữ, Nguyễn Ngọc Tư vừa mang đến một
cách nhìn mới về thân phận trẻ em. Đó là những đứa trẻ thiệt thòi, bất hạnh.
Chúng không được trưởng thành và lớn lên trong sự ấm êm của hạnh phúc,
đón nhận tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ mà thay vào đó
chúng phải gánh những nỗi đau, sự giằng xé, tổn thương từ mọi thứ xung
quanh. Bằng trái tim nhân hậu và tấm lòng chan chứa tình yêu thương,

Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện sự đau xót cho những số phận không may mắn
ấy. Qua đó, chị luôn dành tình cảm thiêng liêng, bày tỏ sự cảm thông đến với
các em.

16


Chƣơng 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
2.1. Nhân vật trẻ em – nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu.
2.1.1. Những đứa trẻ mồ côi chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh
Mỗi một đứa trẻ khi sinh ra đều có quyền được hưởng những niềm hạnh
phúc và đón nhận tình yêu thương của cha mẹ. Thế nhưng, không phải bất kì
đứa trẻ nào, từ khi sinh ra cũng đón nhận được sự may mắn ấy. Ngược lại, các
em gánh chịu nhiều thiệt thòi, mất mát lớn lao đó là thiếu đi tình cảm thân
thương của cha mẹ.
Trong truyện ngắn Nhớ sông, nhân vật Giang, Thủy để lại ấn tượng với
người đọc. Năm 14 tuổi, hai em đã mồ côi mẹ, sống với người cha. Hàng
ngày, trôi dạt khắp nơi để kiếm sống. Một đứa trẻ bình thường khi đến tuổi
dậy thì cần có sự chia sẻ, chỉ bảo của người mẹ, thì Giang không có được may
mắn đó: “Giang nhớ cái ngày con Thủy có kỳ kinh nguyệt đầu tiên, nó lụi đầu
giấu vô mớ cốm gạo treo lủng lẳng, khóc mướt. Giang bảo không sao đâu,
không sao đâu, mà chực rơi nước mắt, Giang nghĩ phải chi còn má, Giang
cũng khóc mà không thể hỏi ai” [15; 124]. Giang cô đơn, lẻ loi khi phải rời xa
những chiếc ghe, dòng sông, con nước - nơi mà cả nhà cùng nhau sum họp,
yêu thương. Thương thay cho hai chị em không được cảm nhận tình cảm của
một người mẹ. Cùng cảnh ngộ, xót thương hơn khi Nương và Điền trong
truyện Cánh đồng bất tận, khao khát một gia đình, chúng thèm được đến
trường như bao bạn bè cùng trang lứa khác mà không được. Cuộc sống của
hai chị em “Trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi

nào đó, thật khó để phân biệt chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh
mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến những cái vẫy tay, được nhận
vài món quà quê như buồng chuối già hương hay bó rau ngót cắt trong vườn,
cùng lời dặn dò quyến luyến, đi mạnh giỏi nghen…” [15; 197]. Chúng là kiếp
người trên những cánh đồng hoang vắng. Đứa trẻ sống giữa gia đình nhưng
17


chúng vẫn “không gia đình”, sống giữa quê hương vẫn thấy “thiếu một quê
hương”. Nhiều lần Nương và Điền cố ra sức vẫy vùng nhưng càng lên tiếng
lại cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng: “Có lần khi đi trên sông thằng Điền giả đò té
chìm nghỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt
dợm lao xuống nước nhưng rồi cha lại điềm nhiên ngồi lại tiếp tực gọt đẽo,
chắc là nhớ thằng điền đã lặn lội nước sông từ năm 4 tuổi, sức mấy mà chết
trôi” [15; 183]. Sự lạnh lùng, vô tâm của người cha khi chứng kiến việc đứa
con trai của mình ngã xuống ao, ông vẫn dửng dưng, vô cảm, tình cảm của
cha con càng ngày càng xa cách. Đau đớn hơn, khi các em đến tuổi mới lớn,
không có mẹ ở bên cạnh để hướng dẫn, dạy bảo. Kỳ kinh nguyệt đầu tiên,
Nương bàng hoàng tưởng mình mắc căn bệnh không thể cứu chữa: “Thằng
Điền bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngấu nghiến, điên dại để lấy bã rịt
lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu tốt lắm cũng chẳng ăn thua. Hai
đứa nhìn nhau khóc, tôi đã nhìn thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường
bốn bề đồng nước” [15; 205]. Đọc đến đây chúng ta vừa thấy thương cho
những đứa trẻ, vừa thấy đau xót cho những thân phận thiếu đi sự quan tâm
của người cha mẹ. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận, không chỉ cho ta thấy
được những mảnh đời thiếu may mắn của mỗi nhân vật, mà còn thấy được
niềm xót thương của tác giả với những đứa trẻ mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi,
bất hạnh như Nương và Điền. Xây dựng kiểu nhân vật đứa trẻ mồ côi thiệt
thòi mất mát, Nguyễn Ngọc Tư để lại cho người đọc thấy được nỗi buồn,
niềm xót xa của một kiếp người.

Nhân vật Phi trong truyện Biển người mênh mông cũng mồ côi là đứa
trẻ thiệt thòi. Ngay từ khi chào đời, nó đã bơ vơ, lạc lõng “sinh ra đã không
có ba, Phi mới năm tuổi rưỡi thôi má đã bỏ anh ra đi”. Phi đã thiếu vắng tình
cảm của cha mẹ. Mỗi lần được gặp mẹ đều trong cảnh vội vàng, hấp tấp và
vẫn là những câu nói quen thuộc “có tiền xài không, lúc này học hành thế
nào,… Sao mà ốm nhom vậy? Rồi má cũng chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.”
18


[15; 107]. Thật đau xót, cứ tưởng như được gặp mẹ là một niềm vui, hạnh
phúc, tia hi vọng, nhưng với Phi lại là sự cô đơn, nỗi tuyệt vọng khi đó chỉ là
sự quan tâm thoáng qua của mẹ.
Trong truyện Sầu trên đỉnh PuVan, nhân vật Vĩnh là cậu bé mồ côi. Em
mất cả gia đình trong một trận bom. Ám ảnh trong kí ức của Vĩnh chính là
“một thằng bé gào khóc ngơ ngác trước căn nhà sập bẹp, cháy rùng rùng sau
trận bom… Vĩnh không biết làm gì trước vụn thịt rơi vãi của những người
thân mình trong một buổi bom đạn hôm xưa” [16; 56]. Yêu Lam nhưng Vĩnh
đã để mất cô trong cơn xoáy nước lớn làm cô chết đuối. Chứng kiến cái chết
của người yêu “Vĩnh gần như quỵ xuống khi những bông hoa bắt đầu tím
thẫm, như màu môi của Lam, mối tình đầu của anh khi người ta vớt xác cô ở
ngã ba sông” [16; 56]. Nỗi đau mất mát người thân, người yêu quá lớn đã in
hằn, khắc sâu trong lòng Vĩnh một vết thương khó lành. Vĩnh ra đi, để tìm sự
sống cho mình, tìm đến đỉnh Puvan như một niềm ao ước, khao khát, cháy
bỏng mà anh muốn đến đặt chân đến. Tưởng chừng khi tìm đến, chờ đợi
những bông sầu nở, con người tìm được niềm vui trong cuộc sống. Nhưng
không, khi có những hạt mưa rơi xuống miền đất nghèo nàn này, Vĩnh không
cảm thấy vui, hạnh phúc mà chỉ thấy nỗi cô đơn, bơ vơ. Con người đắm mình
trong những cơn mưa, những bông sầu từ từ chờ đợi hạt mưa mà bung tỏa,
chứng kiến cảnh tượng ấy, Vĩnh không thấy sự sống, nguồn ánh sáng mà chỉ
toàn là đau khổ, nhỏ bé, hiu hắt. Qúa nhiều đau thương, mất mát đã đến với

anh, một mình bơ vơ giữa mênh mông đất trời, tương lai mờ mịt, Vĩnh không
biết đi đâu giữa biển người mênh mông này.
Sự mất mát lớn nhất đối với tuổi thơ các em chính là nỗi cô đơn, không
có bạn bè. Đó là nhân vật Vĩnh trong truyện Núi lở sinh sống trên núi cách xa
với dân cư, hằng ngày cậu chỉ gặp một số khách lạ hoặc bố mẹ, ông nội. Sự
cô đơn bao trùm khắp cuộc sống của em. Vĩnh cô độc trong cuộc sống của
chính mình: “Một con gà trống tuyệt vọng tìm mồi trên sân, mỏ dội vào đá,
19


×